Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Đổi mới hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.71 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ANH ĐỨC

ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN ANH ĐỨC

ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả

Nguyễn Anh Đức


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được tỏ lòng biết ơn và gửi lời cám ơn chân thành đến
PGS.TS Trần Thị Diệu Oanh người trực tiếp hướng dẫn luận văn, đã tận tình
chỉ bảo và hướng dẫn tôi tìm ra hướng nghiên cứu, tiếp cận thực tế, tìm kiếm
tài liệu, xử lý và phân tích số liệu, giải quyết vấn đề,… Nhờ đó, tôi mới có thể
hoàn thành luận văn cao học của mình.
Ngoài ra, trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi còn
nhận được nhiều sự quan tâm, góp ý, hỗ trợ quý báu của quý thầy cô, đồng
nghiệp, bạn bè và người thân. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Quý
thầy cô giáo các Khoa chuyên môn và quý thầy cô Khoa Sau đại học – Học
viện Hành chính Quốc gia đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong
suốt hai năm học vừa qua, Ban Giám hiệu và các bạn bè, đồng nghiệp luôn
động viên, hỗ trợ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả


Nguyễn Anh Đức


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH ......................................................................
1.1.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ..............................................................

1.2.

Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh .........................................

1.3.

Đổi mới hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh .......

Kết luận chương 1 ....................................................................................................
Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM ....................................................
2.1. Khái quát về tình hình tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh từ đầu nhiệm kỳ
2016-2021 ................................................................................................................ 33

2.2. Phân tích thực trạng đổi mới hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh ............................................................................................................................
2.3. Đánh giá chung về đổi mới hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh .....................
Kết luận chương 2 ....................................................................................................

Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH ..................................................
3.1. Quan điểm tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh ...........................................................................................................................
3.2. Giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh ............................................................................................................................
Kết luận chương 3 ..................................................................................................
KẾT LUẬN ............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................


LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã được
Quốc hội thông qua ngày 20/11/2015 cho thấy, pháp luật đã trao quyền rất lớn
cho Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp trong việc giám sát việc tuân theo
Hiến pháp, pháp luật ở địa phương. Đó là quyền được giám sát hoạt động của
Ủy ban nhân dân (UBND), các cơ quan thuộc UBND và giám sát quyết định
của UBND cùng cấp. Không những trao quyền một chiều, Luật cũng quy
định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát phải thực hiện đầy đủ kế
hoạch, nội dung, yêu cầu giám sát của chủ thể giám sát; cung cấp thông tin
liên quan đến nhiệm vụ của mình (trừ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà
nước); báo cáo trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền giám sát… Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát có hành vi cản trở hoặc không thực hiện nghị quyết, kết luận, yêu
cầu, kiến nghị của chủ thể giám sát thì chủ thể giám sát yêu cầu, kiến nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân đó. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, chủ thể giám sát yêu
cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp
luật đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và

người có liên quan…
Trước đó, Luật Tổ chức HĐND và UBND được Quốc hội thông qua ngày
26/11/2003 đã dành hẳn Chương 3, với 25 Điều để quy định về hoạt động
giám sát của HĐND, của thường trực HĐND và các ban của HĐND đối với
hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND các cấp.
Thực tiễn hoạt động của HĐND nhất là HĐND tỉnh trong những năm
qua cho thấy, nhìn chung HĐND đã có nhiều cố gắng để tăng cường công tác
giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật và các nghị quyết của Hội đồng nhân
1


dân tỉnh. Kết quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đã có tác dụng
tích cực trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương, bước đầu
khắc phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động
giám sát nói riêng. Tuy nhiên, thực tế ở nhiều địa phương, chất lượng và hiệu
quả giám sát của HĐND chưa cao, còn mang tính hình thức “giám sát tới da,
thanh tra tới thịt”, một số nơi còn tình trạng người giám sát nể nang, né tránh,
“giơ cao đánh khẽ” đối với đối tượng chịu sự giám sát; Một số kiến nghị của
HĐND chưa được các cơ quan hữu quan thực hiện nghiêm túc và kịp thời;
Hội đồng nhân dân chưa thật sự phát huy vai trò là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương.
Hoạt động chất vấn của HĐND tỉnh đến nay chưa thực sự mang lại
hiệu quả như mong muốn. Trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh, chỉ có một
số địa bàn trọng điểm với một số đại biểu HĐND tiêu biểu thể hiện được sự
sắc sảo trong việc chất vấn và theo đuổi tới cùng sự việc, khả năng am hiểu
về vấn đề mà mình chất vấn, và thực tế là tiềm lực đầu tư công sức, thời
gian, tiền bạc để tìm hiểu thực tiễn ảnh hưởng của vấn đề mình chất vấn ảnh
hưởng đến đời sống dân sinh như thế nào. Còn lại, nhiều đại biểu HĐND nói
chung chưa tự tin, chưa thực sự am hiểu về vấn đề mình đang chất vấn, hỏi
cho biết nên không sẵn sàng tư thế để phản biện. Việc lựa chọn nội dung chất

vấn có khi còn mang tính cá nhân vụ việc, không thể hiện được những vấn
đề mang tính chất xu hướng và ảnh hưởng lên một nhóm đối tượng trong
một phạm vi thời gian, không gian nhất định, vì thế không đạt được yêu cầu
chất vấn, chính vì vậy hoạt động chất vấn không đạt được những mục tiêu
yêu cần cần có.
Tóm lại, do nhiều lý do, nên hoạt động giám sát của HĐND tỉnh đến
nay thực tế vẫn còn mang tính hình thức, khiến cho HĐND chưa đạt được
yêu cầu nhiệm vụ là kiểm soát việc thực thi quyền hành pháp, đã khiến cho
ảnh hưởng đến vị thế của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương để khắc
2


phục những hạn chế đó tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Đổi mới hoạt động giám
sát của hội đồng nhân dân cấp tỉnh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sỹ của minh
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là một đề tài thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà luật học, bởi để HĐND làm tốt chức năng quyết định của
mình thì một yếu tố không thể thiếu là làm tốt chức năng giám sát.
Cho đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu đã công bố của các tác
giả trong nước liên quan mật thiết đến đề tài luận văn như sau:
-

Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân

tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định, Tác giả đã đề cập năng
lực cá nhân của đại biểu để thực hiện tốt chức năng quyết định của HĐND,
còn chức năng giám sát thì Luận văn không đề cập đến.
-


Vũ Hồng Bắc, Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Khoa
học chính trị, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh , năm 2010. Luận văn
của tác giả Vũ Hồng Bắc, Chất lượng hoạt động của Hội đồng. Là luận văn
chính trị học, tác giả đặt vấn đề chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh trong
môi truờng dân chủ và thực hiện dân chủ ở địa phương một cách đầy đủ và
toàn diện, bao gồm cả chức năng quyết định, chức năng giám sát của HĐND
và năng lực cá nhân của đại biểu HĐND cấp tỉnh.
-

Phạm Quang Hưng, Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Hải

Dương đối với quản lý hành chính về đất đai, Luận văn thạc sĩ luật, Học viện
Hành chính quốc gia, Hồ Chí Minh, năm 2007. là Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007. Trong Luận văn tác giả
Phạm Quang Hưng, đề cập về: “Chức năng giám sát của HĐND đối với quản
lý hành chính nhà nước về đất đai”, là một khía cạnh trong giám sát của
HĐND về kinh tế; Luận văn cũng đã làm rõ về mặt lý luận khái niệm năng
3


lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND, cũng như các yếu tố ảnh hưởng
đến năng lực thực hiện chức năng giám sát, các tiêu chí đánh giá năng lực
thực hiện chức năng giám sát của HĐND cấp tỉnh và đưa ra các giải pháp để
nâng cao năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND trong lĩnh vực đất
đai.
-

Nguyễn Khắc Sơn Nam, Hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân


tỉnh Bình Thuận", Luận văn thạc sỹ Luật hiến pháp và Luật hành chính, Học
viện Hành chính Quốc gia, năm 2017. Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận
chung về hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh và những quy định pháp luật
về hoạt động giám sát của HĐND tỉnh và phân tích thực trạng về quá trình
giám sát của HĐND tỉnh Bình Thuận. Tuy nhiên, tác giả chưa nêu ra được
những giải pháp để đổi mới chức năng giám sát của HĐND tỉnh Bình Thuận.
-

Lê Xuân Tương, Giám sát của HĐND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk

Nông đối với Uỷ ban nhân dân trong lĩnh vực thu, chi Ngân sách Nhà nước
Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, năm 2017.
Luận văn của tác giả Lê Xuân Tương đã phân tích và làm rõ chức năng giám
sát của HĐND cấp huyện trong lĩnh vực thu – chi ngân sách, một trong lĩnh
vực của tài chính – ngân sách.
-

PGS.TS.Phan Trung Lý “Quốc hội Việt Nam tổ chức, hoạt động và

đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2010. tác giả đã phân tích được những đổi
mới hoạt động của quốc hội nói chung chưa đi sâu phân tích những đổi mới
chức năng giám sát của HĐND tỉnh.
-

PGS.TS.Trương Thị Hồng Hà “Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo

chức năng giám sát của Quốc hội”, Nxb.Chính trị quốc gia, 2009. ở đề tài
này tác giả đã phân, đưa ra những giải pháp để hoàn thiện cơ chế đảm bảo
chức năng giám sát của Quốc hội nhưng chưa đề cập đến chức năng giám sát

của HĐND tỉnh.
4


-

Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công “Nâng cao hiệu lực, hiệu

quả công tác giám sát trong hoạt động của HĐND từ thực tiễn hoạt động của
HĐND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội”, Cao Thị Bích Lan, 2015. Tác
giả đã phân tích được thực trạng hoạt động giám sát của HĐND quận Hoàn
Kiếm và đã nêu ra được những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác giám
sát của HĐND.
-

Luận văn thạc sĩ luật hiến pháp - luật hành chính “Chất vấn của Hội

đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam”, Nguyễn Hà Giang, 2017. Tác giả mới chỉ
tập trung vào vấn đề chất vấn của HĐND mà chưa đưa ra những giải pháp để
khắc phục những sai phạm của UBND.
Tại các công trình nói trên đã nghiên cứu, hệ thống hóa và đề xuất một
số giải pháp khả thi, hữu hiệu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám
sát của HĐND. Đối với luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu về điều
kiện và thực trạng đổi mới hoạt động giám sát tại HĐND cấp tỉnh nhằm tìm ra
những đặc trưng, so sánh đối chiếu với hệ thống quy định chung để tìm ra giải
pháp hữu hiệu nhất, phù hợp với quy định hiện hành nhưng khả thi nhất cho
quá trình áp dụng của địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-


Mục đích nghiên cứu: đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động

giám sát của HĐND cấp tỉnh.
+

Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý luận hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh;

khái niệm, nội dung đổi mới, yêu cầu đổi mới hoạt động giám sát của HĐND
cấp tỉnh.
+ Nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh; thực trạng đổi mới hoạt động giám sát
của HĐND cấp tỉnh; Nghiên cứu thực trạng hoạt động giám sát của HĐND,
Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, đại biểu HĐND cấp tỉnh (sau khi
5


có Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND), từ đó rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, đề
xuất các vấn đề tiếp tục đổi mới đối với hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh.
Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng

-

nhân dân cấp tỉnh từ năm 2015 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

-

Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch

-

Phương pháp nghiên cứu:

-

Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tích tài liệu,

sử.

nghiên cứu lý luận kết hợp với nghiên cứu thực tiễn, phân tích tổng hợp
những quy định pháp luật, rút ra những nhận xét khái quát từ đó đưa ra
phương hướng hoàn thiện những quy định pháp luật về hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân.
Phương pháp thống kê, thu thập số liệu, sưu tầm thông tin từ thực tế

-

để phân tích, tổng hợp kết quả, hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về đổi mới

hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnhvà khả năng vận dụng các quy định

pháp luật hiện hành để tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh.
-

Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống

về các vấn đề đổi mới hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong bối cảnh
6


thực hiện chủ trương nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng chính
quyền địa phương kiến tạo. Những kiến nghị của tác giả nếu được các cơ quan
thẩm quyền tham khảo, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật trong lĩnh
vực này, hoặc các đại biểu HĐND tỉnh và tổ chức của HĐND nghiên cứu tiếp
thu, điều chỉnh trong tổ chức và hoạt động, sẽ góp phần tiếp tục đổi mới hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đổi mới hoạt động giám sát của HĐND
cấp tỉnh
Chương 2: Thực trạng về đổi mới hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh
Chương 3: Quan điểm, giải pháp đổi mới hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh.

7


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Cấp tỉnh là cấp trung gian giữa chính quyền trung ương và chính quyền
địa phương, nếu phân cấp giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương thì cấp tỉnh là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương. Nếu cấp
trung ương là cấp đề ra chính sách thì cấp địa phương là cấp thực hiện chính
sách và cấp tỉnh là cấp quan trọng chuyển tải chính sách từ trung ương xuống
tới người dân và quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương. Xét dưới
góc độ tự chủ, quyền tự quản của nhân dân, thì cấp tỉnh là cấp có quyền tự
chủ tương đối cao so với cấp huyện và cấp xã, quyền quyết định lớn, có tác
động tới hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Chính vì vậy, HĐND
cấp tỉnh càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống bộ máy nhà nước.
HĐND cấp tỉnh là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân cử ra,
quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, một cấp ngay dưới cấp
trung ương. Vì vậy, HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò to lớn trong bộ máy
chính quyền địa phương, quyết sách những vấn đề trực tiếp ở địa phương,
giải quyết những khó khăn vướng mắc của nhân dân và quyết định đường
hướng phát triển cho kinh tế – xã hội ở địa phương mình.
Như vậy, HĐND có vai trò là cầu nối giữa cơ quan nhà nước cấp trên với
nhân dân địa phương, đồng thời có tính hai mặt: vừa đại diện cho nhân dân địa
phương, vừa đại diện cho quyền lực nhà nước ở cấp trên. Tổ chức quyền lực ở
Việt Nam theo mô hình phân công, phân nhiệm trong cùng cấp và thống nhất
quyền lực từ trung ương xuống địa phương. Như vậy, HĐND cấp tỉnh cũng nằm
trong mối quan hệ đó, HĐND cấp tỉnh có quyền quyết định những vấn đề

8



quan trọng ở địa phương nhưng phải tuân thủ quy định của Quốc hội, Chính
phủ theo hệ thống dọc. Xét theo chiều ngang, HĐND bầu ra cơ quan chấp hành
là UBND, và có sự phân công nhiệm vụ giữa HĐND và UBND, HĐND quyết
định vấn đề quan trọng và UBND chịu trách nhiệm thi hành. Khi đã có sự phân
công rồi thì tất yếu phải có theo dõi, kiểm tra, giám sát để bảo đảm cho các cơ
quan hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ và hoàn thành tốt công việc. HĐND
cấp tỉnh cũng giám sát một phần hoạt động của HĐND cấp huyện bởi có sự
phân cấp, phân quyền giữa cấp tỉnh và cấp huyện.

Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh phụ thuộc rất
nhiều vào mô hình của chính quyền địa phương và mối quan hệ giữa cấp tỉnh
và trung ương. Có thể thấy rằng về cơ bản, sự phát triển của HĐND cấp tỉnh,
vị trí và vai trò trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam qua các thời kỳ hầu như
không có sự thay đổi, cụ thể như sau:
-

HĐND cấp tỉnh do cử tri trong tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
-

HĐND cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước ở trung

ương, chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của chính phủ trong việc thực hiện các
văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương.
-

HĐND cấp tỉnh bầu ra UBND cùng cấp là cơ quan chấp hành của


HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Trong hệ thống dọc,
UBND cấp tỉnh lại chịu sự chỉ đạo của Chính phủ
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Quốc hội (thông qua Hiến pháp) trao cho HĐND thực hiện ba chức năng:
-

Quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương như quyết định chủ

trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng an
ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
9


-

Đảm bảo thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan Nhà

nước cấp trên.
-

Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội

đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp; giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương.
Ba chức năng nói trên có mối liên hệ mật thiết và ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau. Thực hiện chức năng giám sát thực hiện các văn bản của cơ quan Nhà

nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND nhằm đảm bảo cho Nghị quyết được
thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Chức năng quyết định những vấn đề quan
trọng ở địa phương tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát. Thông qua giám
sát, HĐND kịp thời phát hiện cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm pháp luật, Nghị quyết của HĐND…trên cơ sở đó có biện pháp xử lý kịp
thời, nghiêm minh. Đồng thời thông qua giám sát HĐND kịp thời điều chỉnh
Nghị quyết cho phù hợp với thực tiễn. Quá trình giám sát thuờng xuyên tình
hình thực hiện các Nghị quyết của HĐND giúp HĐND đôn đốc, kiểm tra, qua

đó yêu cầu các chủ thể thực hiện đúng nội dung, yêu cầu đã được quy định
trong Nghị quyết. Cũng qua giám sát giúp HĐND thực hiện tốt chức năng
đảm bảo của mình, để biết chắc rằng các quy định và quyết định của các cơ
quan Nhà nước cấp trên có được thực hiện tốt ở địa phương hay không.
1.2. Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, đối tượng, nội dung giám sát của Hội
đồng nhân dân
1.2.1.1. Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không” [7, tr.389]. hoặc được dùng để chỉ
“một chức quan đảm nhận việc theo dõi, xem xét một công việc nào đó”.

10


Theo Từ điển Luật học “Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động
mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các
biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám
sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã định từ
trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh”[7, tr.390].
Theo từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh thì “Giám sát là xem xét và

đàn hạch”; từ điển tiếng Nga “giám sát” được hiểu là “một nhóm hoặc một tổ
chức để theo dõi người, việc nào cụ thể”.
Trong từ điển tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Trung quốc thì giám sát
cũng có nghĩa là việc theo dõi, xem xét, kiểm tra người hoặc tổ chức nào đó
về một hay nhiều việc làm nào đó đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã
quy định.
Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác nhau
của mỗi ngôn ngữ, nhưng chúng đều có đặc điểm chung nhất là:
- Giám sát dùng để chỉ các hoạt động theo dõi, xem xét kiểm tra và
đánh giá về một việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
- Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời
được câu hỏi là ai (người hoặc tổ chức) có quyền thực hiện việc theo dõi,
xem xét, đánh giá về một việc đã được thực hiện đúng hoặc sai với những
điều đã quy định;
- Giám sát luôn luôn gắn với một đối tượng nhất định, tức là phải trả lời
được câu hỏi là giám sát ai và giám sát việc gì. Điều này có ý nghĩa quan
trọng là ở chỗ nó phân biệt giữa “giám sát” với “kiểm tra” vì “kiểm tra” thì
chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể
đồng nhất với nhau, đó là việc tự kiểm tra lại hoạt động chính mình của chủ
thể hoạt động. Giám sát thì không có sự đồng nhất này; chủ thể thực hiện
việc theo dõi, xem xét, đánh giá luôn luôn không thể đồng nhất với đối tượng
chịu sự giám sát.
11


Theo cách hiểu chung, khái niệm “giám sát” có nội hàm gồm các yếu tố
sau:
+

Là hoạt động xem xét, theo dõi, kiểm tra của một chủ thể;


+

Là phương thức bảo đảm cho công việc hoặc hoạt động được thực

hiện đúng theo quy định.
Như vậy, khái niệm “giám sát” dưới góc độ ngôn ngữ thông thường
được hiểu là: việc theo dõi, xem xét, kiểm tra của chủ thể có quyền đối với
chủ thể khác để qua đó có được các nhận định về hoạt động của chủ thể này.
Qua khái niệm “giám sát” nêu trên, có thể đưa ra năm nhận xét sau:
Thứ nhất, dùng để chỉ các hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra đối với
đối tượng nhất định, từ đó đưa ra nhận định về một việc làm nào đó đã được
thực hiện đúng hay sai so với các quy định hiện hành;
Thứ hai, luôn phải gắn với một hoặc một số đối tượng cụ thể;
Thứ ba, chủ thể hoạt động giám sát phải có những quyền hạn, nghĩa vụ
nhất định đối với đối tượng chịu sự giám sát;
Thứ tư, phải được tiến hành dựa trên những quy định do chủ thể có
quyền giám sát đặt ra;
Thứ năm, luôn là hoạt động có mục đích nhằm đưa ra những nhận định
chính xác của chủ thể có quyền giám sát đối với hoạt động của đối tượng
chịu sự giám sát, qua đó có biện pháp xử lý đối với những việc làm trái quy
định của đối tượng chịu sự giám sát, bảo đảm cho những quy định của chủ
thể có quyền giám sát được chấp hành đúng.
Vì vậy có thể hiểu hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh là tổng thể
các hoạt động của HĐND cấp tỉnh, của các cơ quan và từng đại biểu HĐND
nhằm kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, Luật, pháp lệnh và các
văn bản của cơ quan cấp trên; kiểm tra đánh giá và kết luận xử lý đối với việc
thực hiện các Nghị quyết của HĐND và các hoạt động nhằm phát triển kinh tế
xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, chăm lo đời sống
12



nhân dân của các cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực
lượng vũ trang nhân dân trên địa bàn và đảm bảo cho các kết luận đó được
thực hiện.
1.2.1.2. Phân biệt giám sát của Hội đồng nhân dân và một số quyền
giám sát khác
Không chỉ HĐND mới có chức năng giám sát mà các cơ quan khác
cũng có chức năng này như: Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ... trong
đó, giám sát của cơ quan dân cử nói chung, hoạt động giám sát của HĐND
nói riêng mang tính đặc thù so với các hoạt động giám sát của các cơ quan
khác, ngay bản thân hoạt động giám sát của HĐND với hoạt động giám sát
của Quốc hội cũng có sự khác nhau.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có
phạm vi rộng lớn, bao trùm lên toàn bộ bộ máy nhà nước “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận
xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt
động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…” [Điều 9,
30]. Nhưng hoạt động giám sát này không mang tính quyền lực nhà nước,
“Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời phát hiện
và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính
sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên
tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp
phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh” [ Điều 25,38] . Điều đó có
nghĩa là không áp dụng các hình thức, cách thức, phương pháp mang tính
quyền lực nhà nước mà mang tính xã hội dưới các hình thức theo dõi, phát
hiện, nhận xét, phản biện và kiến nghị.

13


Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có bốn điểm khác biệt so với
giám sát của HĐND, đó là:
-

Về tính chất, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là

giám sát mang tính xã hội, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra
trong nội bộ bộ máy nhà nước.
-

Về đối tượng giám sát, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt

động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức.
-

Về hình thức thực hiện, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam thực hiện dưới hình thức động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát,
tham gia giám sát cùng với cơ quan quyền lực nhà nước.
-

Về hậu quả pháp lý: Mặt trận Tổ quốc không có quyền xử lý khi phát

hiện sai phạm mà chỉ kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Giám sát của Quốc hội và HĐND là hoạt động giám sát của cơ quan
dân cử, mang tính quyền lực nhà nước, đây là một khâu, một yếu tố cấu
thành quyền lực nhà nước, không tách rời quyền lực nhà nước. Xét về bản

chất, việc thực hiện quyền giám sát của Quốc hội và HĐND là các cơ quan
này thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước do chính nhân dân giao
cho. Bởi nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và
HĐND là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Chủ thể hoạt động giám sát của HĐND theo quy định của pháp luật
gồm có: HĐND (thông qua kỳ họp của HĐND, lập Đoàn giám sát của
HĐND), Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại
biểu HĐND.
Đối tượng giám sát của HĐND là một yếu tố quan trọng phân biệt với
hoạt động giám sát của Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc. Theo quy định của
pháp luật gồm có: các cơ quan, cá nhân do HĐND bầu gồm Thường trực
HĐND, Ban của HĐND, UBND, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các
14


thành viên khác của UBND; Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND;
các cơ quan tư pháp ở địa phương gồm: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cùng
cấp; các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nghị quyết của HĐND; các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
công dân ở địa phương trong việc tuân theo Hiến pháp, luật, các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND.
Nội dung hoạt động giám sát của HĐND gồm 2 nội dung chính sau:
Theo dõi, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp, tuân thủ nghị quyết của HĐND
đối với các đối tượng chịu giám sát và các văn bản do các đối tượng này ban
hành; xử lý các hành vi vi phạm bằng các biện pháp chế tài như: bãi nhiệm,
miễn nhiệm; đình chỉ, bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, pháp luật, nghị
quyết của HĐND...
Phương thức thực hiện hoạt động giám sát của HĐND rất đa dạng,

nhưng có thể chia ra 2 nhóm gồm: tại kỳ họp, HĐND tiến hành giám sát báo
cáo của Thường trực HĐND, Ban của HĐND, UBND, Viện kiểm sát nhân
dân và Tòa án nhân dân cùng cấp, đại biểu HĐND chất vất theo quy định của
pháp luật; giữa 2 kỳ họp, Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tổ đại biểu
HĐND thành lập các Đoàn giám sát, đại biểu HĐND tiến hành giám sát trực
tiếp…
1.2.1.3. Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển của địa phương. Xuất phát từ vị trí, vai trò của HĐND
và tính phong phú trong hoạt động giám sát, giám sát của HĐND cấp tỉnh có
các đặc điểm sau:
Thứ nhất,

ạt động giám sát của HĐND tỉnh nhằm vào việc thực

hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và việc tuân theo pháp luật
của cơ quan nhà nước, tổ
15


chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, hoạt động giám sát không chỉ
để phát hiện sai phạm của đơn vị chịu sự giám sát mà còn phát hiện những
mô hình sáng tạo, những cách làm hay của đơn vị để biểu dương, nhân rộng,
hoặc kịp thời hỗ trợ đơn vị tháo gỡ khó khăn vướng mắc do cơ chế, hoặc do
sự phối hợp giữa nhiều cấp, nhiều cơ quan thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ.
Thứ hai,

ều trường hợ


Thứ ba, giám sát thể hiệ
Thứ tư,
Thứ năm,
tro
Thứ sáu, giám sát cúa HĐND tỉnh là hoạt độ

Thứ bảy,

16



-


1.2.1.4. Đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát của HĐND
rất phong phú và đa dạng bao gồm tất cả các cơ quan Nhà nước, đơn vị kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương.
Cụ thể gồm: Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; Chủ
tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng
cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND
cùng cấp; Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và công dân ở địa phương.
1.2.1.5. Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được tiến hành thường
xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy
định. Về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND tỉnh bao trùm trên các lĩnh vực
kinh tế, giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, khoa học,
công nghệ, tài nguyên và môi trường, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã

hội, chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, thi hành pháp luật, xây dựng
chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính. Như vậy, nội dung
giám sát của HĐND tỉnh rất rộng, bao quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà
nước trên tất cả lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, quốc phòng-an ninh,
xây dựng và củng cố chính quyền, quản lý đô thị, thực hiện pháp luật, đảm
bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn tỉnh.
1.2.2. Chủ thể, hình thức, phương pháp giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh
1.2.2.1. Chủ thể giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo quy định tại Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân, giám sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND, giám sát
của Thường trực HĐND, giám sát của các Ban của HĐND, giám sát của Tổ
đại biểu HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
17


Như vậy, chủ thể thực hiện hoạt động giám sát của HĐND tỉnh bao
gồm: HĐND (một tập thể các đại biểu HĐND tại kỳ họp), Thường trực
HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND tỉnh.
- Giám sát của HĐND tỉnh
HĐND làm việc tập trung và có hiệu quả nhất trong các kỳ họp của
mình thông qua kỳ họp ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương được
chuyển thành quyết định của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, có
ý nghĩa bắt buộc.
HĐND giám sát thông qua hoạt động tại kỳ họp HĐND như Xem xét
báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác
của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; xem xét văn

bản quy phạm pháp luật của UBND cấp tỉnh, nghị quyết của HĐND cấp
huyện khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND
cấp tỉnh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND tỉnh bầu;
HĐND giám sát giữa hai kỳ họp qua hoạt động thành lập Đoàn giám sát.
- Giám sát của Thường trực HĐND cấp tỉnh
Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND tập trung vào Ủy ban nhân
dân và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân cùng cấp, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành
Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và các Nghị
quyết của HĐND cùng cấp.

18


Hoạt động giám sát của thường trực Hội đồng nhân dân, luật hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND đã quy định rõ hình thức, trình tự thực hiện
giám sát của thường trực Hội đồng nhân dân như giám sát thông qua hoạt
động thành lập Đoàn giám sát, giám sát chuyên đề; xem xét giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân; xem xét kết quả giám sát của các Ban của HĐND
cấp tỉnh, tổng hợp kết quả giám sát trình HĐND; xem xét việc trả lời chất
vấn trong trường hợp người bị chất vấn được HĐND cho phép trả lời bằng
văn bản gửi đến Thường trực HĐND; xem xét văn bản quy phạm pháp luật
của UBND cấp tỉnh, nghị quyết của HĐND cấp huyện khi phát hiện có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh để trình HĐND. Hoạt
động giám sát của Thường trực HĐND được quy định trong Luật hoạt động

giám sát của Quốc hội và HĐND thể hiện được vai trò là cơ quan thường
trực của HĐND, giúp HĐND giữa 2 kỳ họp như: xem xét việc trả lời chất
vấn của người bị chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân
dân, việc giải trình tại phiên họp thường trực Hội đồng nhân dân, việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, việc giải quyết kiến nghị của cử tri và việc
thành lập Đoàn giám sát chuyên đề của thường trực Hội đồng nhân dân
(Điều 60, 68, 69, 70, 71 và 74). Luật hoạt động giám sát bổ sung quy định
Thường trực Hội đồng nhân dân có trách nhiệm điều hòa, phối hợp hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân (Điều 75). Thường trực HĐND, các
ban HĐND có tính độc lập tương đối, tuy nhiên do tính chất hoạt động giám
sát rộng, đồng thời để các hoạt động giám sát không bị chồng chéo, do đó
Thường trực HĐND được giao nhiệm vụ điều hòa, phối hợp các hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân. So với Luật tổ chức HĐND và UBND năm
2003, thì hiện nay, quyền giám sát của Thường trực HĐND cấp tỉnh đã có

19


những bước phát triển vượt bậc, từng bước góp phần vào hoạt động giám sát
chung của HĐND
- Giám sát của các Ban của HĐND cấp tỉnh
Ban của HĐND có trách nhiệm giúp HĐND giám sát thông qua các
hoạt động thẩm tra báo cáo, đề án do HĐND cấp tỉnh hoặc Thường trực
HĐND phân công; giám sát chuyên đề; xem xét văn bản quy phạm pháp luật
của UBND cấp tỉnh, nghị quyết của HĐND cấp huyện khi phát hiện có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; trong trường hợp cần
thiết, yêu cầu UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp báo cáo về những vấn đề thuộc Ban

phụ trách; tổ chức Đoàn giám sát; cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu
quan để xem xét, xác minh về vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ban; tổ
chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân.
- Giám sát của Tổ đại biểu và đại biểu HĐND cấp tỉnh:
Luật hoạt động giám sát lần đầu quy định về hoạt động giám sát của đại
biểu HĐND, Tổ đại biểu HĐND, luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003
không có mục riêng quy định này mà lồng ghép trong các quy định về quyền
và trách nhiệm của đại biểu HĐND. Luật hoạt động giám sát đã bổ sung một
mục quy định các hoạt động giám sát của đại biểu HĐND, trình tự, thủ tục
tiến hành các hoạt động giám sát cụ thể như: chất vấn, giám sát văn bản quy
phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương, giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; đồng thời quy định
về việc Tổ đại biểu HĐND tổ chức để đại biểu HĐND giám sát việc thi hành
pháp luật trên địa bàn đại biểu ứng cử

20


×