Khóa luận tốt nghiệp – 2010
LỜI MỞ ĐẦU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện đất nước trong đó có bộ máy nhà
nước do đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đặt ra, nhất là từ sau Đại hội Đảng
lần thứ VII thực hiện triển khai nghị quyết ban chấp hành trung ương 8 khóa VII
và Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010
của Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành
chính từ Chính phủ, các bộ đến UBND các cấp đã có nhiều thay đổi, từng bước
được hoàn thiện.
Là cấp trung gian giữa trung ương và địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy nhà nước, góp phần đảm bảo
hoạt động được thống nhất. Trong những năm qua cùng với những thay đổi của
nền kinh tế - xã hội, hệ thống văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt
động của Uỷ ban nhân cấp tỉnh cũng không ngừng được hoàn thiện.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới khi nước ta đang chuyển dần sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đang hội nhập khu vực và quốc
tế đặc biệt khi nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới,
…thì tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã bộc lộ nhiều hạn
chế cần được khắc phục bởi vậy đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính
quyền địa phương trong đó có Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là một trong những
nhiệm vụ nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính. Vì thế em đã
chọn đề tài “ Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân tỉnh theo pháp luật
hiện hành ”.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X Ban chấp hành Trung ương
Đảng xác định một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN hiện nay là
“ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản”. Bởi vậy, trong những năm
Bùi Thị Hường – HC31C
1
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
qua tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân nói chung, Uỷ ban nhân dân tỉnh
nói riêng đang từng bước được đổi mới.Và đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về UBND như: Sự cần thiết phải tăng cường hiệu quả hoạt động của
UBND, đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND,…
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định của pháp luật hiện
hành về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân cấp tỉnh. Đề tài được thực hiện
dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Qua việc tìm hiểu, để thấy được những kết quả cũng
như những hạn chế, bất cập cần được khắc phục trong tổ chức và hoạt động của
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh qua đó đưa ra các giải pháp để góp phần hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của UBND cấp tỉnh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn được dựa trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp duy vật biện chứng kết hợp
với phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá,…
KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu của
khóa luận gồm ba chương:
Chương I. . Uỷ ban nhân dân trong cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước ở
nước ta.
Chương II. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh theo pháp luật hiện hành.
Chương III. Giải pháp hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân
cấp tỉnh.
Bùi Thị Hường – HC31C
2
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
Chương I
UỶ BAN NHÂN DÂN TRONG CƠ CẤU, TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ
NƯỚC Ở NƯỚC TA
1.1.Vị trí, tính chất, chức năng của Uỷ ban nhân dân.
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ
quan nhà nước từ trung ương đến địa phương được tổ chức theo những nguyên
tắc chung thống nhất như: nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ,
… tạo thành một thể thống nhất để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước. Trong đó Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh là một mắt xích quan trọng
trong cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước(BMNN).
Ở nước ta, ngay từ thời Văn Lang – Âu Lạc đơn vị hành chính cấp tỉnh đã
bắt đầu được manh nha với hình thức các bộ. Đơn vị hành chính tỉnh thực sự ra
đời cùng với nền hành chính nhà nước ở địa phương bắt đầu được triển khai sau
khi nước ta giành được quyền tự chủ. Thời nhà Khúc (đầu TK 10), đó là lộ, dưới
đó là phủ, châu, giáp, xã. Thời nhà Đinh (từ năm 944), đó là đạo… Trải qua thời
gian đơn vị hành chính cấp tính đã có nhiều thay đổi để phù hợp với mỗi giai
đoạn lịch sử.
Nhà nước Việt Nam là một quốc gia có cấu trúc lãnh thổ theo mô hình nhà
nước đơn nhất. Lãnh thổ được phân chia thành các đơn vị hành chính. Việc phân
chia giúp cho việc quản lý được thống nhất, cũng như để nắm bắt tình hình ở
mỗi địa phương.
Điều 118 Hiến pháp 1992 quy định: “Các đơn vị hành chính của nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
- Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã.
Bùi Thị Hường – HC31C
3
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
- Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường và xã; quân chia thành phường”.
Bộ máy chính quyền của nước ta gồm bốn cấp: Trung ương; tỉnh và thành
phố trực thuộc trung ương; huyện, quận và tương đương; xã, phường và tương
đương. Bộ máy chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và Ủy ban nhân dân do HĐND bầu
ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương.
Như vậy, UBND cấp tỉnh là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, là
một bộ phận trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, là cấp trung gian
giữa trung ương với địa phương. Đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
chủ trương, chính sách của nhà nước, thực hiện, triển khai quyền lực của trung
ương xuống lãnh thổ. Điều 123 Hiến pháp 1992 và Điều 2 Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 quy định: “UBND do HĐND bầu
là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết của HĐND”.
Với quy định này, Uỷ ban nhân dân nói chung, UBND cấp tỉnh nói riêng
được xác định là cơ quan chấp hành của HĐND đồng thời là cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương.
Theo Hiến pháp 1946, Uỷ ban hành chính (UBHC) mặc dù do HĐND bầu
ra và có trách nhiệm thi hành các nghị quyết của HĐND địa phương mình sau
khi được cấp trên chuẩn y, tuy nhiên lại chưa quy định một cách rõ ràng là cơ
quan chấp hành của HĐND. Từ Hiến pháp 1959 UBHC (nay là UBND) được
quy định rõ là cơ quan chấp hành của HĐND tại Điều 87, Điều 121 Hiến pháp
1980, Điều 123 Hiến pháp 1992. Qua đây có thể thấy, về cơ bản vị trí, tính chất,
chức năng của UBND qua các bản Hiến pháp không có sự thay đổi lớn mà đang
dần được hoàn thiện để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của UBND.
Bùi Thị Hường – HC31C
4
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
Thứ nhất, UBND với tư cách là cơ quan chấp hành của HĐND (cơ quan
quyền lực của nhà nước ở địa phương).
+ UBND do HĐND cùng cấp bầu ra gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các
ủy viên dưới hình thức bỏ phiếu kín. Pháp luật hiện hành quy định Chủ tịch
UBND là đại biểu HĐND. Còn các thành viên khác của UBND không nhất thiết
phải là đại biểu HĐND. Đây là một quy định mới so với các văn bản luật trước.
Bởi trước đây “thành viên của UBND phải là đại biểu HĐND”. Quy định này
góp phần đáp ứng nguồn nhân sự khi Uỷ ban nhân dân có sự thay đổi về thành
viên, cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trong phạm vi
lãnh thổ mỗi địa phương. Trong nhiệm kỳ nếu khuyết Chủ tịch UBND thì Chủ
tịch HĐND cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch UBND để HĐND bầu.
+ Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc tổ chức, triển khai
và thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân, đưa những quy định trong
các nghị quyết vào đời sống, biến các nghị quyết đó thành hiện thực. Uỷ ban
nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp và UBND
cấp trên trực tiếp, Uỷ ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủ
+ Uỷ ban nhân dân chịu sự giám sát của HĐND trong việc thực hiện các
nghị quyết của Hội đồng nhân dân, giám sát việc tuân theo pháp luật của các
thành viên UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND, của cán bộ, công chức.
Hội đồng nhân dân có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của UBND,
có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân
bầu. Đồng thời có quyền bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái
pháp luật của UBND cùng cấp. Vì thế văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành
không được trái với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp
+ Nhiệm kỳ của UBND theo nhiệm kỳ của HĐND cùng cấp. Theo quy định
hiện hành là 5 năm. Khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, UBND tiếp tục làm
việc cho đến khi HĐND khóa mới bầu ra Uỷ ban nhân dân khóa mới. Chủ tịch
Bùi Thị Hường – HC31C
5
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ở mỗi đơn vị hành chính không
giữ chức vụ đó quá hai nhiệm kỳ liên tục.
Trước đây, nhiệm vụ, quyền hạn của UBHC (nay là UBND) không chỉ có
thi hành các mệnh lệnh của cấp trên, các nghị quyết của Hội đồng nhân dân,
kiểm soát các HĐND và UBHC cấp dưới… mà Uỷ ban hành chính còn có
quyền triệu tập Hội đồng nhân dân như là cơ quan thường trực của HĐND. Quy
định này làm giảm tính quyền lực của Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên kể từ khi
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1989 quy định việc
thành lập thường trực HĐND thì vị trí, tính chất của Uỷ ban nhân dân trong mối
quan hệ với Hội đồng nhân dân được xác định một cách phù hợp hơn.
Thứ hai, Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Uỷ ban nhân dân là cơ quan trực thuộc hai chiều. Đối với cơ quan này, quan hệ
trực thuộc theo chiều dọc của nó cũng có “sức nặng” không kém gì quan hệ theo
chiều ngang với HĐND cùng cấp, nếu không nói là hơn trong một số trường
hợp.
+ Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương,
góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất bộ máy hành chính nhà nước
từ trung ương tới cơ sở. Chức năng của UBND có những đặc trưng riêng so với
chức năng của các cơ quan nhà nước khác như: Tòa án nhân dân, viện kiểm sát
nhân dân (VKSND),…
- Nếu như chức năng cơ bản của Tòa án là xét xử, của VKSND là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì quản lý hành chính được
coi là chức năng cơ bản của UBND, là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của
UBND. Các cơ quan nhà nước khác như Tòa án, VKSND trong hoạt động của
mình cũng phải thực hiện quản lý hành chính nhưng chỉ mang tính nội bộ và
cũng không phải là hoạt động chủ yếu.
- Hoạt động quản lý của UBND mang tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống: kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng… Và mang tính
thống nhất, bởi hoạt động quản lý của UBND được thực hiện trên cơ sở chấp
Bùi Thị Hường – HC31C
6
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
hành những quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, dưới sự
quản lý thống nhất của Chính phủ.
- Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương UBND thực hiện hoạt
động quản lý trong phạm vi địa phương mình. Cùng phối hợp với các cơ quan
nhà nước, các tổ chức khác để thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu
quả.
+ Theo quy định của pháp luật hiện hành kết quả bầu cử thành viên UBND
cấp dưới trực tiếp phải được nguời đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên phê chuẩn, kết quả bầu các thành viên của UBND cấp tỉnh phải được Thủ
tướng Chính phủ phê chuẩn. Chủ tịch UBND cấp trên có quyền điều động, đình
chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND cấp dưới
trực tiếp, phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của Uỷ ban nhân
dân cấp dưới trực tiếp.
+ Đối với các văn bản trái pháp luật của UBND, người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi
bỏ. Theo Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 UBHC (UBND) cấp trên còn có
quyền sửa đổi đối với quyết định của UBND cấp dưới trực tiếp.
+ Uỷ ban nhân dân chịu sự chỉ đạo của UBND cấp trên, UBND cấp tỉnh
chịu sự chỉ đạo của Chính phủ. Quy định này nhằm bảo đảm tính thống nhất của
quản lý hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở. UBND chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước UBND cấp trên trực tiếp, trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình UBND ra quyết định, chỉ thị đồng thời tổ chức thực hiện,
kiểm tra việc thi hành các văn bản đó.
UBND là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở địa
phương, chức năng của UBND cơ bản là giống chức năng của Chính phủ chỉ
khác nhau ở vị trí, thẩm quyền, cũng như về phạm vi lãnh thổ. UBND nói
chung, UBND tỉnh nói riêng có vị trí, vai trò quan trọng trong cơ cấu, tổ chức
BMNN ở Việt Nam.
Bùi Thị Hường – HC31C
7
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
Qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm
1986, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu. Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đang từng bước được hoàn thiện, tuy nhiên trong giai đoạn
cách mạng mới đòi hỏi cần phải củng cố, kiện toàn hơn nữa BMNN trong đó có
hệ thống các cơ quan hành chính. Vì thế đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh là một điều cần thiết, nó cũng phù hợp Nghị quyết của
Đại hội Đảng IX đã đề ra.
1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Uỷ ban nhân dân
trong lịch sử lập hiến Việt Nam.
Sự hình thành và phát triển của UBND gắn liền với quá trình hình thành và
phát triển của BMNN qua mỗi giai đoạn. Tùy theo từng thời kỳ phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội cũng như yêu cầu lịch sử mà tổ chức và hoạt động của
UBND có sự thay đổi
1.2.1 Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1946.
Ngay từ thời xa xưa, để thuận tiện cho việc quản lý các đơn vị hành chính
với nhiều tên gọi khác nhau đã được thành lập như: các bộ, các châu, lộ, phủ…
Vào năm 1832 ở miền Nam và 1831 ở miền Bắc với cuộc cải cách hành chính
Minh Mạng lần thứ hai cả nước chia thành 29 tỉnh, dưới tỉnh là phủ, huyện, tổng
và xã. Dưới thời Pháp thuộc để thuận lợi cho chính sách cai trị nước ta bị chia
làm 3 kỳ: Bắc Kỳ – Nam Kỳ - Trung Kỳ, mỗi Kỳ với một chế độ khác nhau.
Ngày 22/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh 63 – SL về tổ
chức HĐND và UBHC các cấp ở nông thôn. UBND thời kỳ này có tên gọi là
UBHC được thành lập ở các cấp kỳ, tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên HĐND chỉ được
thành lập ở cấp xã và cấp tỉnh, còn cấp huyện và kỳ không thành lập. Ngày
22/12/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 77/SL về tổ chức
chính quyền ở thị xã, thành phố. Theo đó UBHC do các HĐND bầu ra là cơ
quan hành chính vừa thay mặt cho dân vừa đại diện cho chính phủ. Đối với cấp
huyện và kỳ không có HĐND thì: UBHC cấp huyện do hội viên các HĐND xã
trong huyện bầu ra, UBHC kỳ do hội viên các HĐND tỉnh trong kỳ bầu ra. Thể
Bùi Thị Hường – HC31C
8
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
lệ bầu cử HĐND và UBHC được quy định tại Nghị định số 164 ngày
29/12/1945 của Bộ trưởng Bộ nội vụ và Nghị định số 31 ngày 28/1/1946 của Bộ
trưởng Bộ nội vụ.
UBHC gồm có 5 ủy viên: 3 ủy viên chính thức (1 Chủ tịch, 1 phó Chủ tịch,
1 thư ký) và 2 ủy viên dự khuyết. UBHC thời kỳ này được xác định là cơ quan
hoạt động thường xuyên của HĐND. Mặc dù UBHC do HĐND cùng cấp bầu ra
có trách nhiệm thi hành các nghị quyết của HĐND nhưng chưa được xác định rõ
là cơ quan chấp hành của HĐND. Nhiệm kỳ của UBHC các cấp theo nhiệm kỳ
của HĐND là hai năm.
Tùy thuộc vào UBHC mỗi cấp mà nhiệm vụ, quyền hạn có điểm riêng
nhưng nhìn chung thì UBHC có quyền hạn: thi hành các mệnh lệnh của các cấp
trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp, triệu tập HĐND cùng cấp, cũng như kiểm
soát các cơ quan chuyên môn.
Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
Chính phủ lâm thời đã tiến hành ban bố các văn bản pháp luật làm cơ sở cho
việc xây dựng BMNN kiểu mới. Vì thế, ngày 09/11/1946, Quốc hội đã thông
qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Theo Hiến pháp 1946, Bộ máy nhà nước được phân thành năm cấp: trung
ương; cấp bộ; cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện; cấp xã và
cấp tương đương. Bộ máy chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBHC.
UBHC được thành lập ở tất cả các cấp, là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương.
UBHC do HĐND cùng cấp bầu ra, ở bộ và huyện không có HĐND chỉ có
UBHC. UBHC bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra, UBHC huyện do
Hội đồng các xã bầu ra. UBHC chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với
HĐND địa phương mình, có trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh của cấp trên,
các nghị quyết của HĐND địa phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y.
Đến 1958 khi miền Bắc đang trong công cuộc xây dựng CNXH, miền Nam
vẫn còn nằm dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai, tình hình có nhiều thay
Bùi Thị Hường – HC31C
9
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
đổi, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng chính quyền nhân dân. Quốc hội khóa I
đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 29/4/1958. Theo đó hệ
thống tổ chức chính quyền địa phương gồm có: các khu tự trị, các thành phố trực
thuộc trung ương, tỉnh, châu, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn có
HĐND và UBHC; các huyện có UBHC. Như vậy, UBHC theo Luật Tổ chức
chính quyền địa phương được thành lập ở các cấp. Riêng ở huyện là không có
HĐND. Nhiệm vụ của UBHC cũng được quy định rõ ràng hơn. Các cơ quan
chuyên môn ở địa phương và quan hệ giữa UBHC với các cơ quan đó được quy
định một cách cụ thể. UBHC được xác định là cơ quan chấp hành của HĐND
cùng cấp, là cơ quan hành chính của nhà nước ở cấp ấy.
Như vậy, Hiến pháp 1946 đặt nền tảng cho việc xây dựng BMNN, trong đó
có hệ thống các UBHC.
1.2.2 Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1959.
Ở miền Bắc, sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân căn bản đã hoàn thành và chuyển sang làm cách mạng
XHCN. Trong khi đó ở miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai
vì thế trong giai đoạn mới, đứng trước nhiệm vụ lịch sử mới. Ngày 31/12/1959
Quốc hội đã nhất trí thông qua bản Hiến pháp mới. Ngày 01/01/1960 Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký sắc lệnh công bố Hiến pháp.
So với Hiến pháp 1946, BMNN Việt Nam dân chủ cộng hòa đã có nhiều
thay đổi: hệ thống các cơ quan đại diện được thành lập ở các cấp; Nghị viện
nhân dân được đổi tên thành Quốc Hội; Chính phủ được đổi tên thành Hội đồng
Chính phủ,… Các đơn vị hành chính địa phương được chia thành 3 cấp: Tỉnh,
khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị
xã; xã, thị trấn. Cấp bộ đã bị xóa bỏ. UBHC được thành lập ở các cấp, do
HĐND cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND địa phương và là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương.
UBHC chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cấp mình và
trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp. Nhiệm vụ, quyền hạn của
UBHC các cấp được bổ sung. UBHC các cấp lãnh đạo công tác của các ngành
thuộc quyền mình và của UBHC cấp dưới; có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những
Bùi Thị Hường – HC31C
10
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
quyết định không thích đáng của các ngành công tác, có quyền đình chỉ việc thi
hành những nghị quyết sai trái của HĐND cấp dưới trực tiếp và đề nghị HĐND
cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.
Uỷ ban hành chính gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó chủ tịch, ủy viên
thư ký và các ủy viên. Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân 1962 thì UBHC cấp tỉnh có từ 9 đến 15 người, còn khu tự trị có từ 7 đến 9
người. Nhiệm kỳ của UBHC theo nhiệm kỳ của HĐND đã bầu ra mình.
1.2.3 Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1980.
Đại thắng mùa Xuân 1975, cùng với việc khắc phục hậu quả sau chiến
tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định tình hình chính trị miền Nam thì
nhiệm vụ quan trọng là hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Kỳ
họp thứ I Quốc hội khóa VI đã hoàn thành công việc thống nhất đất nước về mặt
nhà nước. Ngày 18/12/1980 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được Quốc hội thông qua. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
Hiến pháp 1980 đã kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946 và 1959. Đồng
thời có nhiều điểm mới. Về phương diện hành chính Bộ máy nhà nước ta vẫn
gồm bốn cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành
chính tương đương, khu tự trị theo hiến pháp 1959 đã xóa bỏ; cấp huyện, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương; cấp xã, thị trấn và tương đương.
Hệ thống các cơ quan chấp hành có sự thay đổi: Hội đồng Chính phủ được
đổi tên thành Hội đồng bộ trưởng, UBHC trước đây được đổi tên thành UBND
nhằm nhấn mạnh tính dân chủ.
Trên cơ sở Hiến pháp 1980, tổ chức và hoạt động của UBND trong thời kỳ
này còn dựa trên Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1983, sau
đó là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1989. Vị trí, tính chất
của UBND không có gì thay đổi. Uỷ ban nhân dân vẫn được xác định là cơ quan
chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp và trước UBND
cấp trên trực tiếp. Mỗi thành viên UBND chịu trách nhiệm cá nhân về phần công
tác của mình trước HĐND, UBND và cùng chịu trách nhiệm tập thể về hoạt
Bùi Thị Hường – HC31C
11
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
động của UBND trước HĐND. Chính chế độ làm việc tập trung và tập thể chịu
trách nhiệm nên vai trò và trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch UBND các cấp bị
hạn chế, hoạt động của UBND kém hiệu quả.
Theo Hiến pháp 1980, thì UBND có quyền triệu tập hội nghị HĐND cùng
cấp. Bên cạnh đó “giữa hai kỳ họp HĐND, UBND được xét và giải quyết các
vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cùng cấp” (Điều 47 Luật tổ chức
HĐND và UBND 1983). Có thể thấy hoạt động của Uỷ ban nhân dân thời kỳ
này đã vượt ra ngoài phạm vi với tính chất là cơ quan chấp hành của HĐND.
Điều đó đã làm giảm tính “quyền lực” của HĐND. Vì thế đến Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1989 Thường trực HĐND đã được thành
lập, một số nhiệm vụ, quyền hạn của UBND được chuyển giao cho thường trực
Hội đồng nhân dân.
Một quy định mới trong Luật tổ chức HĐND và UBND 1989 là về thành
viên UBND gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó chủ tịch và các ủy viên khác.
Trong đó Chủ tịch UBND là đại biểu HĐND, còn các thành viên khác không
nhất thiết phải là đại biểu HĐND cùng cấp. Số lượng thành viên UBND tùy theo
từng cấp: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương có
từ 11 đến 17 người; UBND huyện và tương đương có từ 9 đến 13 người; UBND
xã, phương, thị trấn có từ 7 đến 9 người.
Những quy định về tổ chức và hoạt động của UBND ngày càng được hoàn
thiện hơn, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
1.2.4 Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp1992 đến nay.
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ 15 – 18/12/1986 tại Hà Nội
là mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh sự
nghiệp cách mạng XHCN tiến lên. Nhiệm vụ chiến lược mà Đảng và Nhà nước
đưa ra không thay đổi nhưng trong điều kiện đất nước có nhiều thay đổi, trên thế
giới hội nhập đang là một xu thế tất yếu. Chúng ta cần có những bước đi phù
hợp, một trong đó là thực hiện cải cách bộ máy nhà nước. Hiến pháp 1980 ra đời
trước đó một thập kỷ đã không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
đất nước. Cần phải có một bản Hiến pháp mới, ngày 15/4/1992 Quốc hội đã nhất
trí thông qua Hiến pháp 1992, trên cơ sở đó tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XI
Bùi Thị Hường – HC31C
12
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
ngày 21/6/1994 đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND 1994, tiếp đó là
Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND 1996 đã được
Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25/6/1996 và Luật tổ chức HĐND
và UBND năm 2003 được thông qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI ngày
26/11/2003. Đây là những văn bản pháp luật quan trọng để hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của UBND.
Theo Hiến pháp 1992, các đơn vị hành chính được tổ chức thành bốn cấp
như Hiến pháp 1980. Tuy nhiên hệ thống các cơ quan trong BMNN có sự thay
đổi: Uỷ ban thường vụ quốc hội được thành lập, là cơ quan hoạt động thường
xuyên của Quốc hội; Hội đồng bộ trưởng đổi tên thành Chính phủ,… Hệ thống
các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương cũng trong xu thế đó theo
hướng: nhiệm vụ, quyền hạn của UBND và Chủ tịch UBND được phân định rõ
ràng hơn trước, vai trò của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được đề cao hơn thông
qua việc bổ sung nhiều quyền hạn như Chủ tịch UBND có quyền điều động,
miễn nhiệm, cách chức đối với Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới
trực tiếp,… cùng với đó trách nhiệm cũng được quy định cụ thể hơn, tổ chức Uỷ
ban nhân dân cũng gọn nhẹ hơn. Vị trí, tính chất, chức năng của UBND về cơ
bản không có sự thay đổi mà đang dần được hoàn thiện về tổ chức và hoạt động.
Như vậy, kể từ khi sắc lệnh đầu tiên thiết lập bộ máy chính quyền địa
phương-Sắc lệnh số 63-SL ngày 23/11/1945 và Sắc lệnh số 77-SL ngày
21/12/1945, tiếp đó là một hệ thống các văn bản pháp luật quy định về tổ chức
và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, gần đây nhất là Luật tổ chức
HĐND và UBND 2003, trải qua hơn 65 năm hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương trong đó có UBND cấp tỉnh đang có nhửng thay đổi góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Bùi Thị Hường – HC31C
13
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
Chương II
THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN
DÂN TỈNH THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Thực trạng về tổ chức của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
2.1.1 Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Bất kì một cơ quan nào cũng đều thực hiện việc sắp xếp, bố trí nhân sự. Tùy
thuộc vị trí, chức năng, nhiệm vụ mà mỗi cơ quan có cách thức tổ chức sao cho
phù hợp.
Cơ cấu, tổ chức của UBND do Quốc hội quy định trong Hiến pháp, Luật tổ
chức HĐND và UBND và văn bản hướng dẫn khác. Và cũng tùy thuộc vào mỗi
giai đoạn mà cơ cấu, tổ chức của UBND có sự thay đổi. Hiện nay cơ cấu tổ chức
của UBND tỉnh được thực hiện theo Luật tổ chức HĐND và UBND 2003, Nghị
định 107/NĐ-CP ngày 1/4/2004 quy định số lượng Phó Chủ tịch và cơ cấu
UBND các cấp; Nghị định 82/2008 ngày 30/7/2008, Nghị định 27 ngày
19/3/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 107 ngày 1/4/2004, Nghị định
13 ngày 04/2/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND hiện hành, UBND gồm:
có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và ủy viên. Nước ta với 63 tỉnh và thành phố trực
thuộc trung ương, mỗi địa phương với những đặc điểm riêng vì thế mà số lượng
Phó chủ tịch, các thành viên khác của UBND tỉnh là không giống nhau.
Điều 119 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “ UBND do
HĐND cùng cấp bầu ra gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên” kết quả
bầu các thành viên của UBND phải được Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp phê
chuẩn; kết quả bầu các thành viên của UBND cấp tỉnh phải được Thủ tướng
Chính phủ phê chuẩn.Thủ tướng chính phủ miễn nhiệm, điều động, cách chức
Chủ tịch, các Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Điều 122 Luật tổ chức HĐND
Bùi Thị Hường – HC31C
14
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
và UBND năm 2003 quy định số lượng thành viên UBND các cấp trong đó
UBND cấp tỉnh có từ 9 đến 11 thành viên quy định này không có gì thay đổi so
với Luật tổ chức HĐND và UBND 1994. Đối với UBND thành phố Hà Nội và
UBND thành phố Hồ Chí Minh không quá 13 thành viên. Như vậy số lượng
thành viên UBND cấp tỉnh hiện nay đã giảm so với số lượng thành viên UBND
tỉnh theo Luật tổ chức HĐND và UBND 1983, Luật tổ chức HĐND và UBND
1989 trước đây có từ 11 đến 17 người. Đây là một sự tinh giản cần thiết qua đó
cơ cấu UBND tỉnh gọn nhẹ hơn.
Nghị định 107 ngày 01/4/2004 của Chính phủ quy định cụ thể về số Phó
Chủ tịch và cơ cấu thành viên UBND các cấp. Theo đó:
- UBND thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có 13 thành viên
gồm 1 Chủ tịch, 5 Phó Chủ tịch và 7 ủy viên.
Tuy nhiên đối với thành phố Hà Nội có một sự thay đổi. Do năm 2008 tỉnh
Hà Tây sáp nhập vào Thành phố Hà Nội nên tạm thời số lượng thành viên
UBND thành phố Hà Nội theo Nghị định 82 ngày 30/7/2008 gồm: 01 Chủ tịch,
không quá 08 Phó Chủ tịch và các ủy viên ( UBND thành phố Hà Nội có 13
thành viên).
Sự gia tăng số Phó Chủ tịch nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết công việc
trong giai đoạn thành phố mở rộng.
- UBND các tỉnh có dân số từ 2.000.000 trở lên hoặc có diện tích từ
10.000km
2
trở lên và thành phố trực thuộc trung ương là đô thị loại I( trừ Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh) có 11 thành viên gồm có 1 Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch
và 6 ủy viên.
- Đối với UBND tỉnh, thành phố thuộc trung ương không thuộc trường hợp
trên có 9 thành viên gồm 1 Chủ tịch, 3 Phó Chủ tịch và 5 ủy viên.
Như vậy tùy vào đặc điểm dân cư, diện tích, vị trí mà số lượng thành viên
UBND tỉnh là khác nhau. Đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
còn xuất phát từ vị trí của hai thành phố lớn này đối cả nước.
Bùi Thị Hường – HC31C
15
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
Bên cạnh đó trong nhiệm kỳ HĐND cấp tỉnh có thể ấn định thêm số lượng
thành viên UBND cấp mình, nhưng tổng số không quá 11 thành viên và phải
được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Quy định này có thể giúp UBND bổ sung
thêm thành viên xuất phát yêu cầu của hoạt động quản lý, tuy nhiên có thể làm
cho bộ máy UBND thêm cồng kềnh.
UBND là cơ quan có thẩm quyền chung, thực hiện hoạt động quản lý một
cách toàn diện, trên hầu hết các lĩnh vực làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách kết hợp với chế độ thủ trưởng.
- Chủ tịch UBND do HĐND cùng cấp bầu ra theo sự giới thiệu của Chủ
tịch HĐND, từ trong số các đại biểu HĐND bằng con đường bỏ phiếu kín.
Tuy nhiên nếu trong nhiệm kỳ mà khuyết Chủ tịch UBND thì người được
bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND đó không nhất thiết là đại biểu HĐND cùng
cấp. Theo quy định Chủ tịch UBND ở mỗi đơn vị hành chính không giữ chức vụ
đó quá hai nhiệm kỳ.
Chủ tịch UBND phụ trách chung, nội chính, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội, quy hoạch, xây dựng. Chủ tịch UBND là người lãnh đạo và điều hành công
việc của UBND, chịu trách nhiệm điều hành công việc của UBND, chịu trách
nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cùng với tập
thể UBND chịu trách nhiệm về hoạt động của UBND trước HĐND cùng cấp và
trước cơ quan nhà nước cấp trên. Chủ tịch UBND có vai trò quan trọng trong
việc tổ chức, thực hiện nhiệm vụ cuả UBND.
- Phó Chủ tịch UBND cấp tỉnh do HĐND cùng cấp bầu ra theo sự giới
thiệu của Chủ tịch UBND, không nhất thiết phải là đại biểu HĐND. Là người
giúp việc cho Chủ tịch được Chủ tịch phân công phụ trách thực hiện những công
việc nhất định và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND về phần công việc
được giao. Thông qua các Phó Chủ tịch, Chủ tịch UBND có thể nắm được toàn
bộ hoạt động của UBND. Theo quy định hiện hành số lượng Phó Chủ tịch ở
UBND cấp tỉnh là từ 3-4 người phụ trách các lĩnh vực:
Bùi Thị Hường – HC31C
16
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
+ Một Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế, thương mại, du lịch, doanh
nghiệp,kinh tế đối ngoại.
+ Một Phó Chủ tịch phụ trách nông nghiệp, phát triển nông thôn, lâm
ngiệp, thủy sản và thủy lợi, nhà đất và tài nguyên-môi trường.
+ Một Phó Chủ tịch phụ trách công nghiệp, giao thông, xây dựng. bưu
chính viễn thông, khoa học công nghê.
+ Một Phó Chủ tịch phụ trách văn hóa-xã hội và các lĩnh vực khác như: y
tế, giáo dục-đào tạo,…
Đây chỉ là những quy định chung mang tính chất định hướng còn tùy thuộc
vào từng địa phương có cách triển khai riêng. Như hiện tại tỉnh Bình Dương có
4 Phó chủ tịch trong đó: 1 Phó Chủ tịch phụ trách khối văn xã; 1 Phó chủ tịch
phụ trách khối kinh tế; 1 Phó chủ tịch phụ trách khối xây dựng công thương; 1
Phó chủ tịch phụ trách khối sản xuất. Trong nhiệm kỳ hoạt động của UBND tỉnh
vẫn có thể bổ sung thêm thành viên như nhiệm kỳ 2004-2009 UBND tỉnh Đồng
Nai đã bổ sung thành viên UBND, hiện tại UBND tỉnh Đồng Nai có 5 Phó Chủ
tịch và 5 ủy viên.
- Các ủy viên UBND tỉnh được Chủ tịch phân công phụ trách quản lý
những ngành, lĩnh vực chuyên môn nhất định. Các thành viên khác UBND tỉnh
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Chủ tịch giao và phải chịu trách nhiệm trước
Chủ tịch UBND về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Các ủy viên UBND
cấp tỉnh thường có từ 5-6 ủy viên được phân công phụ trách các lĩnh vực:
+ Một ủy viên phụ trách công an
+ Một ủy viên phụ trách quân sự
+ Một ủy viên phụ trách nội vụ
+ Một ủy viên phụ trách văn phòng
+ Một ủy viên phụ trách tài chính
+ Một ủy viên phụ trách kế hoạch
Hiện UBND tỉnh Thái Bình bên cạnh 3 Phó chủ tịch còn có 7 ủy viên,
UBND thành phố Hà Nội có 8 phó chủ tịch và 4 ủy viên, UBND thành phố Hồ
Bùi Thị Hường – HC31C
17
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
Chí Minh có 5 phó chủ tịch và 7 ủy viên, UBND tỉnh Lào Cai có 3 phó chủ tịch
và 5 ủy viên,… Do xuất phát từ đặc thù mỗi địa phương mà cơ cấu số Phó Chủ
tịch và UBND cấp tỉnh có sự khác nhau. Số lượng thành viên UBND cấp tỉnh
hiện nay được xác định dựa trên yêu cầu hoạt động, việc phân công nhiệm vụ
đối với mỗi thành viên một cách rõ ràng qua đó nâng cao trách nhiệm của mỗi
thành viên. Bộ máy làm việc của UBND cấp tỉnh cũng đã giảm nhiều dựa trên
những mục tiêu của Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn (2001-
2010). Tuy nhiên, đứng trên quan điểm tăng cường trách nhiệm cá nhân và chế
độ thủ trưởng với những đòi hỏi nhanh nhạy, hiệu quả mà chúng ta đang cố gắng
xây dựng thì số lượng thành viên UBND hiện tại vẫn là đông, nếu không muốn
nói là thừa. Bên cạnh đó là sự tham gia của các ủy viên đồng thời là thủ trưởng
các sở, ban, nghành chuyên môn còn ít hiệu quả, chưa phát huy được tính chủ
động, sáng tạo trong tổ chức và thực hiện công việc. Hiện tại, các ủy viên của
UBND cấp tỉnh thường là người đứng đầu các sở, ban, ngành chuyên môn, điều
này có thể dẫn tới:
+ Đối với lĩnh vực mà thủ trưởng các cơ quan chuyên môn đồng thời là
thành viên UBND thì vấn đề kiểm tra của UBND thường bị buông lỏng hoặc
giảm hiệu lực.
+ Còn đối với những thành viên không phải là người là đứng đầu các sở,
ban, ngành sẽ rất khó phối hợp với người đứng đầu trong các lĩnh vực mà mình
được phân công phụ trách.
Như vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động UBND cấp tỉnh hơn nữa, trên cơ
sở Luật tổ chức HĐND và UBND cần phải hoàn thiện cơ cấu, tổ chức của
UBND cấp tỉnh.
2.1.2 Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh.
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp
UBND cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương; thực hiện
một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND cùng cấp và theo quy
Bùi Thị Hường – HC31C
18
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
định của pháp luật, góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh
vực công tác từ trung ương đến cơ sở.
Trước khi có Nghị định 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008, thì tổ chức các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được
thực hiện theo nghị định 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004. Do sự sắp xếp lại
của các bộ chủ quản (hiện nay tổng số bộ và cơ quan ngang bộ là 22, trong đó có
18 bộ và 04 cơ quan ngang bộ) mà các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cũng
có thay đổi. Theo Nghị định 13/2008 ngày 04/02/2008 các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh được tổ chức thống nhất bao gồm: Sở Nội vụ; Sở Tư
pháp; Sở Tài chính; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn; Sở Công thương; Sở Xây dựng; Sở giao thông vận tải; Sở Tài nguyên và
môi trường; Sở Thông tin và truyền thông; Sở Lao động thương binh và xã hội;
Sở văn hóa- thể thao-du lịch;Sở Khoa học công nghệ; Sở Giáo dục và Đào tạo;
Sở Y tế; Thanh tra tỉnh; Văn phòng Uỷ ban nhân dân.
Bên cạnh đó các cơ quan chuyên môn còn được tổ chức theo đặc thù riêng
của từng địa phương như: Sở Ngoại vụ, Ban dân tộc, Sở Quy hoạch kiến
trúc( được thành lập ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh).
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh gồm có sở và cơ quan
tương đương ( gọi chung là sở) chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và
công tác của UBND cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về nghiệp vụ
của cơ quan chuyên môn cấp trên. Chủ tịch UBND tỉnh bổ nhiệm Giám đốc,
Phó Giám đốc sở theo tiêu chuẩn chức danh do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ quy định và thủ tục do pháp luật quy định, đồng thời Chủ tịch UBND
tỉnh cũng quy định cho Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm trưởng, phó các cơ
quan, đơn vị trực thuộc theo tiêu chuẩn, chức danh do UBND cấp tỉnh ban hành.
Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn vừa phải chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước UBND tỉnh, HĐND cùng cấp vừa phải chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước cơ quan chuyên môn cấp trên.
Bùi Thị Hường – HC31C
19
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
Phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương, UBND cấp tỉnh có thể trình
HĐND tỉnh quyết định thành lập mới hoặc sáp nhập một số cơ quan chuyên
môn. Việc tổ chức các cơ quan chuyên môn phải tính gọn, hợp lý, hiệu lực, hiệu
quả, tổ chức quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, không nhất thiết ở trung ương có bộ,
cơ quan ngang bộ nào thì cấp tỉnh phải sở có tương ứng.
Trong những năm qua thực hiện chủ trương cải cách hành chính bộ máy
nhà nước, thì các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh cũng đang được sắp
xếp, kiện toàn bảo đảm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước
của UBND cấp tỉnh và sự thống nhất, thông suốt quản lý ngành, lĩnh vực công
tác từ trung ương đến địa phương. Tỉnh Quảng Ninh là một ví dụ: Căn cứ Nghị
định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các
cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Sở Nội vụ đã tham mưu, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành các Quyết
định về sắp xếp, quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân tỉnh, trong đó hợp nhất, sáp nhập, thành lập mới, giải thể, đổi tên một số
phòng, ban, Trung tâm, Chi cục...trực thuộc các Sở, ban, ngành, đặc biệt là
thành lập mới Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Quảng Ninh, Chi cục
Dân số- Kế hoạch hoá gia đình tỉnh Quảng Ninh. Đến nay trực thuộc UBND tỉnh
có 19 cơ quan chuyên môn, như vậy sau khi thực hiện việc sắp xếp lại, các cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh đã giảm được 6 cơ quan. Các lĩnh
vực công việc, chức năng, nhiệm vụ mới vừa được giao và bổ sung thêm được
các cơ quan, tập trung giải quyết và kịp thời tham mưu, đề xuất với tỉnh, góp
phần quan trọng vào việc ổn định, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao
của cơ quan nói riêng và của tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Trước năm 2001, một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh nơi ít
nhất là 17 cơ quan ( tỉnh Bắn Kạn), nơi nhiều nhất là 27 cơ quan ( Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh), sau đó rà soát và theo chỉ đạo của Chính phủ, các tỉnh, thành
phố điều chỉnh có giảm xuống tính ra trung bình là 23 cơ quan ( năm 2003).
Theo Nghị định 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 thì cơ quan chuyên môn
Bùi Thị Hường – HC31C
20
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
thuộc UBND cấp tỉnh được quy định có 19 sở và tương đương được quy định
“cứng” thống nhất trên toàn quốc và 8 đầu mối “ mềm” được thành lập tùy theo
đặc thù của từng địa phương như Sở Du lịch, Sở Thủy sản, Sở Ngoại vụ,... Tuy
nhiên khung cơ cấu này cũng bị phá vỡ bởi Nghị định 122/2005/NĐ-CP ngày
04/10/2005 đã cho phép thành lập Ban thi đua khen thưởng là cơ quan chuyên
môn trực thuộc UBND cấp tỉnh [14, tr 60 ].
Còn theo Nghị định 13/2008 ngày 04/02/2008 có 17 sở và có ba cơ quan
được thành lập theo đặc thù riêng của mỗi tỉnh là Sở Ngoại vụ; Ban dân tộc; Sở
quy hoạch kiến trúc.
Hiện nay, việc tổ chức số lượng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
là không giống nhau mà phù hợp với điều kiên tự nhiên, dân số, tình hình phát
triển kinh tế-xã hội của từng địa phương và yêu cầu cải cách hành chính nhà
nước. Một số tỉnh, thành phố có số lượng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân tỉnh cao như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, UBND một số tỉnh như
Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng có 23 cơ quan chuyên môn. Bên cạnh đó một số
tỉnh còn thành lập Ban quản lý các khu công nghiệp- khu chế xuất, Ban quản lý
khu đô thị, Ban quản lý khu kinh tế là cơ quan có chức năng quản lý hành chính
thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh tuy nhiên việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và có cơ cấu tổ chức theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Theo
thống kê năm 2001, số cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh của
61 tỉnh, thành phố là 1.374 cơ quan, đến tháng 8/2005 với 64 tỉnh, thành phố con
số này lên tới 1.536 cơ quan, tăng 162 cơ quan (tính trung bình mỗi tỉnh, thành
phố tăng thêm 1,4 đầu mối cơ quan chuyên môn) [14, tr60 ].
Có thể thấy cơ cấu, tổ chức của các cơ quan vẫn mang nặng dấu ấn của cơ
chế cũ tập trung, quan liêu, việc hình thành cơ cấu tổ chức vẫn theo kiểu cơ học
theo kiểu chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc đến đâu thì thành lập cơ
cấu tổ chức đến đó. Đúng ra thay vì mở rộng quy mô cơ cấu, tổ chức bộ máy để
đối phó với tính chất phức tạp và khối lượng công việc quản lý tăng lên thì phải
Bùi Thị Hường – HC31C
21
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
nâng cao chất lượng của tổ chức thông qua ứng dụng khoa học, đổi mới phương
thức hoạt động, chế độ làm việc.
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh làm việc theo chế độ thủ
trưởng, với người đứng đầu cơ quan chuyên môn là Giám đốc sở, Phó giám đốc
sở là người giúp giám đốc sở chỉ đạo một số mặt công tác và chịu trách nhiệm
trước Giám đốc sở và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Số lượng
phó giám đốc sở không quá ba người, riêng ở UBND thành phố Hà Nội; UBND
thành phố Hồ Chí Minh không quá bốn người.
Pháp luật hiện hành đã quy định một khuôn khổ thể chế thống nhất về tổ
chức và hoạt động của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh theo hướng
tinh gọn, hợp lý. Cũng như xác định rõ nguyên tắc thành lập, tính chất, vị trí,
chức năng, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc, mối quan hệ công tác của các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND, đặc biệt là quy định về việc ủy quyền và đề cao
trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan chuyên môn trong việc giúp UBND thực
hiện quản lý nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thường có số lượng sở, ngành giống nhau trong khi lại có đặc điểm,
quy mô khác nhau. Bên cạnh đó, sự thay đổi các bộ ở trung ương cũng dẫn tới
sự thay đổi các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh. Trong khi đó tổ
chức cơ quan hành chính giữa nông thôn và đô thị chưa có sự phân biệt cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan này.
Với vị trí của mình trong những năm qua các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh đã tổ chức, cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc, bộ máy
gọn nhẹ hơn. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: số lượng các sở
và tương đương vẫn còn nhiều, cơ cấu tổ chức còn cồng kềnh, còn chồng chéo
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn với các tổ chức thuộc bộ, cơ quan ngang bộ đặt
tại địa phương. Vì thế một trong những mục tiêu của chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước là cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương
trong đó có các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
Bùi Thị Hường – HC31C
22
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
2.2. Thực trạng về hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành hiệu quả hoạt động của UBND cấp
tỉnh được đảm bảo bằng hiệu quả hoạt động của tập thể UBND, Chủ tịch UBND
và các thành viên khác của UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND.
UBND thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình thông qua các hình thức hoạt
động chủ yếu sau.
2.2.1 Phiên họp của Uỷ ban nhân dân.
Trong tổ chức và hoạt động của UBND từ trước đến nay luôn quán triệt
nguyên tắc tập thể lãng đạo cá nhân phụ trách kết hợp với chế độ thủ trưởng.
Nguyên tắc này có sự vận động qua mỗi giai đoạn tuy nhiên vai trò tập thể của
UBND luôn được đề cao.
Các phiên họp của UBND là hình thức hoạt động tập thể, có ý nghĩa quyết
định đến toàn bộ hoạt động của UBND cấp tỉnh. Theo quy định của pháp luật
hiện hành UBND họp mỗi tháng ít nhất một lần ngoài ra còn có các cuộc họp
bất thường để giải quyết các công việc cấp bách trên địa phương mình theo yêu
cầu của Chủ tịch UBND hoặc theo đề nghị của ít nhất 1/3 tổng số thành viên
UBND cấp tỉnh. Chủ tịch UBND là người chủ tọa các phiên họp, trong một số
trường gợp Chủ tịch có thể giao cho Phó Chủ tịch chủ tọa các cuộc họp. Các
thành viên UBND phải mặt đầy đủ trong trường hợp vắng mặt phải được sự
đồng ý của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Phiên họp của UBND cấp tỉnh thể hiện trí tuệ của cả tập thể, thảo luận dân
chủ, quyết định những vấn đề quan trọng đồng thời phiên họp còn thể hiện sự
tham gia của người dân đối với các vấn đề ở địa phương thông qua việc: Chủ
tịch ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân
ở địa phương được mời tham dự các phiên họp của UBND tỉnh khi bàn các vấn
đề có liên quan; trưởng ban, phó trưởng ban các ban của Hội đồng nhân dân; thủ
trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND nhưng không phải là thành viên
của UBND tham dự các phiên họp khi bàn các vấn đề có liên quan. Trong việc
tham gia các phiên họp của UBND có thể thấy Chủ tịch ủy ban mặt trận tổ quốc
Bùi Thị Hường – HC31C
23
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
là người được mời tham các phiên họp thường kỳ của UBND. Còn những người
đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương như: chủ tịch Hội nông dân, chủ
tịch Hội cựu chiến binh, chủ tịch Công đoàn,…thì tùy thuộc nội dung của phiên
họp mà được mời. Những người được mời tham dự có thể được phát biểu ý kiến
nhưng không có quyền được biểu quyết những vấn đề nằm trong chương trình
cuộc họp, tuy vậy nó cũng giúp UBND nắm được tình hình thực tế để ra quyết
định, chỉ thị phù hợp. Như vậy chính sự tham gia của các đoạn thể nhân dân đã
góp phần nâng cao chất lượng phiên họp của UBND cấp tỉnh.
Theo điều 124 Luật tổ HĐND và UBND năm 2003 UBND thảo luận tập
thể và quyết định theo đa số các vấn đề sau đây:
“ - Chương trình làm việc của Uỷ ban nhân dân;
- Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách, quyết toán ngân
sách hang năm và quỹ dự trữ của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết
định;
- Kế hoạch đầu tư, xây dựng các công trình trọng điểm ở địa phương trình
Hội đồng nhân dân quyết định;
- Kế hoạch huy động nhân lực, tài chính để giải quyết các vấn đề cấp bách
của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định;
- Các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh tế -xã
hội; thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân trước khi trình Hội đồng nhân dân;
- Đề án thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ
ban nhân dân và việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính ở
địa phương”.
Các quyết định của UBND phải được quá nửa tổng số thành viên của
UBND biểu quyết tán thành nó biểu hiện tính đồng thuận của tập thể UBND
cũng như đảm bảo quyết định có tính khả thi cao nhất khi đưa vào cuộc sống.
Có thể thấy phiên họp của UBND là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng
nhất bởi:
Bùi Thị Hường – HC31C
24
Khóa luận tốt nghiệp – 2010
+ Phiên họp với sự tham gia của tất cả các thành viên của UBND cấp tỉnh
cũng như sự tham dự của các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể.
+ Tại phiên họp phần lớn nhiệm vụ quyền hạn của UBND cấp tỉnh được
thực hiện. Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 Nhiệm vụ quyền hạn
của UBND cấp tỉnh được quy định từ Điều 82 đến Điều 96 bao trùm lên các lĩnh
vực: xây dựng, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội; phát triển ngành,
phát triển đô thị và nông thôn trong phạn vị quản lý; tham gia với các bộ ngành
trung ương trong việc phân vùng kinh tế; lập dự toán thu ngân sách nhà nước
trêng địa bàn; chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng quy
hoạch kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh, xây dựng
và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giao thông của tỉnh cũng
như tổ chực quản lý công trình giao thông; thực hiện quản lý nhà nước ở địa
phương đối với các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hóa thông tinh, thể dục thể
thao, y tế xã hội, khoa học và công nghệ, đảm bảo giữ vững quốc phòng an ninh
và trật tự an toàn xã hội; thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo đảm
bảo thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và thực hiện các nhiệm vụ
quyền hạn của mình trong lĩnh vực thi hành pháp luật, xây dựng chính quyền và
quản lý địa giới hành chính.
Bên cạnh đó đối với các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Cần Thơ,… thì tại các phiên họp của UBND các vấn đề như giao thông đô thị, ô
nhiễm môi trường, sử dụng đất đai, phát triển hạ tầng đô thị…là những vấn đề
luôn được quan tâm thảo luận.
Tuy nhiên trên thực tế hiện nay phiên họp của UBND vẫn còn mang tính
hình thức, nhiều phiên họp chỉ mang tính chất báo cáo, hiệu quả phiên họp chưa
cao. Trước tình hình đó, ngày 25/5/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định
114/2006/QĐ-TTg ban hành chế độ hội họp trong hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước với mục đích làm giảm bớt số lượng, nâng cao chất lượng các
cuộc họp. Có thể thấy rằng UBND là cơ quan chấp hành của HĐND là cơ quan
Bùi Thị Hường – HC31C
25