Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tại tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.58 KB, 98 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu trong
luận văn do tôi thu thập là xác thực và rõ ràng và luận văn này chưa công bố trong
bất kì công trình nghiên cứu nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trước Học viện và pháp
luật.

TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Thùy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT…………………………………………………………………….8
1.1. Tổng quan về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất….....………………….8

1.1.1 Khái niệm thu hồi đất……………………………………………...………...8
1.1.2. Tác động của người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất………...……9
1.1.3. Chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất……………………...…..10

1.2. Khái quát thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất………………………………………............……………..16


1.2.1.Khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà
nước thu hồi đất……………………………………………………………….….16
1.2.2.Đặc điểm của thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………………..17
1.2.3.Nguyên tắc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………………..19
1.2.4.Ý nghĩa của thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất………………………………………………………...…...21
1.2.5.Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử
dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất……………………………………………......23
1.3.Nội dung thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà

nước thu hồi đất…………………………………............……………………......25
1.3.1.Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về bồi thường cho người sử dụng
đất khi Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………..25
1.3.2.Tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà
nước thu hồi đất……………………………………………………………..……28


1.3.3.Xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
về thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi
đất………………………………………………………...………………………30
1.3.4. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật bồi thường cho người
sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất…………………………………………....32
1.3.5. Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo và xử lý vi phạm trong thực hiện
pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất………34
Tiểu kết chương 1 ………………………………………………………...……..37
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
CHO NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH
BÌNH PHƯỚC……………………………………………………………….........38


2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Phước tác động đến thực
hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi
đất………………………………………………………………………………….38
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên……………………………………………….......…….38
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội …………………………………………...........39
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà
nước thu hồi đất………………………………………………………..........41

2.2.1. Về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về bồi thường cho người sử
dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất………………………………………..……...41
2.2.2. Về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………...……...44
2.2.3. Về xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ thực hiện pháp luật về bồi
thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất………………………...
2.2.4. Về giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật khi Nhà nước thu hồi
đất...…………………………………………………………………………..50

2.2.5. Về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo trong thực hiện pháp luật về bồi
thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất……………………...…54


2.3. Đánh giá chung thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất
khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước…………………….........………56

2.3.1. Những kết quả đạt được………………………………………………...…56
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân……………………………………………...…...58
Tiểu kết chương 2 ………………………………………………………...…........66
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH BÌNH PHƯỚC……………………...…….67
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước………………....……………….67
3.2. Giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng
đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước…………………..….............72
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật…………………………...……72

3.2.2. Hoàn thiện công tác chỉ đạo tổ chức và phát triển nhân lực để đảm bảo thực
hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu
hồi………………………………………………………………………………...80
3.2.3. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại,
khiếu kiện và xử lý vi phạm……………………………...………………………81
3.2.4. Đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa quá trình thực thi pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất……………………...…83

3.2.5. Coi trọng công tác tiếp công dân, vận động tuyên truyền phổ biến pháp luật
cho người dân………………………………………………………………….....84
Tiểu kết chương 3 …………………………………………………………...........86

KẾT LUẬN……………..……………………………………………………...….87
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………......90


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thu hồi đất là một trong những cơ chế chuyển dịch quyền sử dụng đất theo
pháp luật đất đai hiện hành. Cơ chế này áp dụng khi rơi vào một trong các trường
hợp quy định tại Điều 61, 62, 63, 64 của Luật Đất đai năm 2013. Trong đó, thu hồi
đất để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng và vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội là chủ yếu. Trong các mục đích thu

hồi đất trên thì việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội
đang diễn ra mạnh mẽ ở hầu hết các địa phương trong cả nước để phục vụ cho mục
tiêu đưa đất nước ta trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thực hiện
mục tiêu chung đó cũng như thực hiện mục tiêu theo Quyết định số 196/2006/QĐTTg về Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước
thời kì 2006 – 2020 đã đề ra “Phát triển kinh tế nhanh và bền vững, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát triển đô thị theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Xây dựng Bình Phước trở thành tỉnh có kinh tế phát triển toàn diện, xã hội
văn minh, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh, quốc phòng được giữ vững;
phấn đấu trở thành tỉnh phát triển mạnh trong khu vực và cả nước”. Để đạt được
mục đích đó thì thời gian qua trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã tiến hành các dự án
phát triển kinh tế - xã hội có tính chiến lược quan trọng và nhu cầu sử dụng đất là
không tránh khỏi. Nhưng hiện nay quỹ đất trống trên địa bàn tỉnh Bình Phước
không đủ để thực hiện cho các mục đích trên và việc thu hồi một phần diện tích đất
để tiến hành các dự án trên là bắt buộc. Song song với việc thực hiện cơ chế thu hồi
đất bắt buộc thì việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người sử dụng đất bị thu hồi
là hệ lụy mà Nhà nước cần giải quyết. Trong thời gian qua ở tỉnh Bình Phước đã có
những quan tâm đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm giải quyết bồi thường
thỏa đáng, ổn định đời sống và tạo điều kiện về việc làm cho người sử dụng đất bị
thu hồi trên cơ sở các quy định của pháp luật ở cấp trung ương và các quy định do
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước ban hành. Mặc dù vậy, những quy định này khi
áp dụng vào

1


thực tế còn nhiều bất cập, hạn chế đặc biệt liên quan đến việc chính sách bồi thường
cho người sử dụng đất bị thu hồi hiện nay vẫn còn một số bất cập nhất định cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật. Hệ quả là tiến độ giải phóng mặt bằng để thực hiện
các dự án bị chậm lại và ảnh hưởng đến các chủ đầu tư còn về phía người sử dụng
đất bị thu hồi không chịu bàn giao đất và đặc biệt là phát sinh khiếu nại, khiếu kiện

liên quan đến thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Xuất phát từ vấn đề lợi ích
giữa các bên trong thu hồi đất mà đặc biệt quyền của người sử dụng đất bị thu hồi
được pháp luật quy định như thế nào bởi đây là chủ thể bị động trong thu hồi đất và
mất đi tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai. Chính vì thế, việc nghiên cứu vấn đề thực
hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ở tỉnh
Bình Phước nói riêng là vấn đề cấp thiết hiện nay một mặt vừa thúc đẩy quá trình
giải phóng mặt bằng diễn ra nhanh chóng vừa giúp cho người sử dụng đất bị thu hồi
sớm có cuộc sống ổn định sau khi thu hồi đất. Bên cạnh đó, việc giải quyết thỏa
đáng các quyền cho người sử dụng đất bị thu hồi còn tạo niềm tin của nhân dân vào
chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xuất phát từ thực trạng
đó, tác giả chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng
đất khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tại tỉnh Bình Phước” làm đề tài luận
văn tốt nghiệp thông qua đề tài vừa nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và pháp
lý cũng như trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng về thực hiện pháp luật bồi
thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước, để đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện về quyền được bồi thường của người sử
dụng đất nói chung và một số giải pháp gợi mở cho chính quyền tỉnh Bình Phước.
2. Tình hình nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu liên quan đến quyền được bồi thường của người
sử dụng đất bị thu hồi hiện nay khá nhiều đề tài nghiên cứu, cụ thể một số công
trình nghiên cứu sau:
Luận văn Thạc sĩ Quyền của người sử dụng đất bị thu hồi ở tỉnh Trà Vinh,
Lương Hoàng Sang - Học viện Hành chính Quốc Gia

2


Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực
tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Lê Thị Yến - Đại học
Quốc gia Hà Nội

Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
qua thực tiễn áp dụng tại Trà Vinh, Lâm Văn Tốt - Đại học Trà Vinh
Luận văn Thạc sĩ Quản lý bồi thường, hỗ trợ và tái định cư với đối tượng bị
thu hồi đất trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Đặng Thị Phương Thủy
- Đại học Thương Mại Hà Nội

Luận văn Thạc sĩ Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án thuộc huyện Thanh Trì, thành
phố Hà Nội, Tạ Thị Hà - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực
tiễn thành phố Hà Nội, Bùi Quang Hậu - Học viện khoa học Xã hội
Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất từ thực tiễn thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, Nguyễn Thị Châu - Học viện
khoa học Xã hội
Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quãng Ngãi, Nguyễn Công Huy - Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội
Luận văn Thạc sĩ Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Bùi Thanh Song - Trường đại
học Kinh tế Quốc dân
Luận văn Thạc sĩ Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện công tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư trên địa
bàn thành phố Nam Định – tỉnh Nam Định, Ngô Thanh Hà - Đại học Quốc gia Hà
Nội
Luận văn Thạc sĩ Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, Cao Đại Nghĩa - Đại
học Quốc gia Hà Nội

3



Trong các đề tài trên thì đề tài mà tác giả chọn gần nhất với Luận văn của tác
giả Ngô Thanh Hà. Tuy nhiên, Luận văn Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng đối với các dự án
đầu tư trên địa bàn thành phố Nam Định – tỉnh Nam Định nghiên cứu chung hết tất
cả về thực trạng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại
trên địa bàn thành phố Nam Định – tỉnh Nam Định. Đề tài luận văn mà tác giả có
những điểm khác nhất định đối với đề tài trên, cụ thể đề tài của tác giả không
nghiên cứu hết tất cả vấn đề thực trạng pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư mà đề tài của tác chỉ chỉ tập trung nghiên cứu sâu về thực hiện pháp luật
trong vấn đề bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất và phạm vi
nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Bình Phước.
Đối với đề tài luận văn của tác giả Đặng Thị Phương Thủy, Tạ Thị Hà nghiên
cứu chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng hướng tiếp cận của hai đề tài đó
trên phương diện quản lý công, trong quản lý đất đai không nghiên cứu trên phương
diện Luật học.
Đối với luận văn của tác giả Lâm Văn Tốt, Lương Hoàng Sang, Bùi Quang
Hậu, Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Công Huy, Bùi Thanh Song, Ngô Thanh Hà, Cao
Đại Nghĩa nghiên cứu về các quy định chung của pháp luật về cả bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư ở góc độ Luật kinh tế và về phạm vi nghiên cứu cụ thể các địa phương
nhất định chưa tập trung nghiên cứu sâu về quyền được bồi thường của người sử
dụng đất đất bị thu. Do đó, đề tài của tác giả trước hết về phạm vi nghiên cứu không
trùng với đề tài của các tác giả trên cũng như hướng tiếp cận trong đề tài của tác giả
là quyền được bồi thường của người sử dụng đất theo hướng tiếp cận của Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu:
-

Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp lý về bồi thường cho người sử

dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

4


- Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước tác giả đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà
nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.
Nhiệm vụ:
+Phân tích các quy định pháp luật liên quan về thu hồi đất và bồi thường cho
người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.
+

Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi
thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu:
+

Các quy định của pháp luật có liên quan về thu hồi đất, thực hiện pháp luật về bồi
thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

+

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử
dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất và cơ sở khoa học đề xuất giải pháp hoàn thiện.
+ Thực tiễn thực hiện thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng


đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
+ Thời gian: Từ năm 2014 đến nay
+ Đối tượng: Đề tài dừng lại ở việc nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nhằm mục đích quốc
phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội quy định tại Điều 61, 62 Luật Đất đai
2013.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin (phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử), tư

5


tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng. Bện cạnh đó, để hoàn thành đề tài
nghiên cứu người viết còn sử dụng các phương pháp:
+

Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp mà tác giả sử dụng xuyên suốt trong
đề tài để phân tích làm rõ cơ sở lý luận, các quy định pháp luật cũng như phân tích
để đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử
dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.
+ Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp so sánh để so sánh các

quy định pháp luật hiện hành với các quy định pháp luật trước đây về thực hiện
pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, cũng như
so sánh với một số địa phương khác.

+

Phương pháp thống kê: Với phương pháp này tác giả sử dụng để thống kê các số
liệu sử dụng trong đề tài để làm căn cứ phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện
pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh
Bình Phước trong Chương 2.
6. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện về thực hiện pháp luật về
bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ở góc độ pháp lý nói
chung một số giải pháp cụ thể áp dụng cho tỉnh Bình Phước. Bên cạnh đó, với hệ
thống cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật bồi thường cho người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất trong đề tài ứng dụng trong việc giảng dạy, nguồn tài liệu
tham khảo cho các đề tài có liên quan sau này.
7. Kết cấu của đề tài
Bên cạnh phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì nội dung
luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về bồi thường cho
người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về thực hiện pháp luật về bồi
thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.

6


Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bồi
thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.

7



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG CHO
NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. Tổng quan về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1 Khái niệm thu hồi đất
Thuật ngữ thu hồi đất được sử dụng từ khi Việt Nam xác lập chế độ sở hữu
toàn dân đối với đất đai và cụ thể được sử dụng trong Luật Đất đai 1987 đến giai
đoạn hiện nay trước đó thì trong Luật cải cách ruộng đất 1953 chưa xuất hiện thuật
ngữ thu hồi đất mà chỉ dừng lại ở các thuật ngữ tịch thu, trung thu, trưng mua. Mặc
dù thuật ngữ thu hồi đất được quy định trong các văn bản Luật Đất đai 1987, 1993,
2003, 2013 nhưng khái niệm thu hồi đất lần đầu tiền được quy định trong Luật Đất
đai 2003 (Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai 2003). Khái niệm thu hồi đất được tiếp tục
khẳng định lại ở Luật Đất đai 2013, nhưng có phần khác so với Luật Đất đai 2003,
cụ thể tại Khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định “Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất
đai”. Với quy định về thu hồi đất trong Luật Đất đai 2013 thì đối tượng trong thu
hồi đất ở đây bao gồm quyền sử dụng đất và đất. Trong đó, Nhà nước thu hồi lại
quyền sử dụng đất trong trường hợp chủ thể này đang sử dụng đất hợp pháp và khi
rơi vào các trường hợp luật định Nhà nước sẽ ra quyết định thu hồi lại đất. Còn đối
với đối tượng thu hồi là đất ở đây là trong trường hợp chủ thể này không có quyền
sử dụng đất mà do sử dụng đất do vi phạm pháp luật. Từ cơ sở lý luận trên thì vấn
đề đặt ra khi nhà nước thu hồi lại “đất” thì nếu chiếu theo khái niệm được quy định
trong Luật Đất đai 2013 hiện hành thì chỉ dừng lại ở việc thu hồi lại đất do người sử
dụng vi phạm pháp luật đất đai còn đối với các trường hợp đất mà nhà nước đã giao
những chủ thể khác quản lý theo quy định của pháp luật thì có thuộc phạm vi thu
hồi theo khái niệm không. Mặc dù trong khái niệm thu hồi đất theo Luật Đất đai


8


2013 chỉ dừng ở thu hồi lại “đất” do người sử dụng vi phạm pháp luật đất đai
nhưng theo quy định của pháp luật hiện nay vẫn có những trường hợp nhà nước thu
hồi lại đất đã giao cho chủ thể khác quản lý, cụ thể tại Điểm b Khoản 1 điều 66 Luật
Đất đai 2013 có quy định về thẩm quyền thu hồi đất trong đó quy định Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã
phường thị trấn, hay trong trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai
2013 có quy định trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất
đối với đất được Nhà nước giao để quản lý. Như vậy, có thể thấy những loại đất mà
Nhà nước đã giao để quản lý trong trường hợp này là hợp pháp không phải do vi
phạm pháp luật. Do đó, khái niệm thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai 2013
hiện hành là chưa đầy đủ và từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm thu hồi
đất như sau:
“ Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định thu hồi lại quyền sử dụng đất
của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất được nhà nước
giao để quản lý, của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.
1.1.2. Tác động của người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất
Quyền sử dụng đất là một trong những loại tài sản quan trọng của người sử
dụng đất. Pháp luật đất đai cho phép người sử dụng đất được quyền định đoạt đối
với quyển sử dụng đất của mình. Nếu việc chuyển quyền sử dụng đất hoàn toàn dựa
trên ý chí tự nguyện của người sử dụng đất làm chấm dứt đi quyền sử dụng đất của
chính mình thì việc nhà nước thu hồi đất cũng là cơ chế chấm dứt quyền của người
sử dụng đất nhưng không phụ thuộc vào ý chí của người sử dụng đất. Do đó, với
việc chấm dứt đi quyền sử dụng đất không phụ thuộc vào ý chí của chính mình thì
tâm lý của người sử dụng đất thường xuất phát theo hướng tích cực (đồng ý với việc
thu hồi đất) hoặc tiêu cực (không đồng ý với việc thu hồi đất), cụ thể:
Thứ nhất, hướng tích cực người sử dụng đất đồng ý với việc thu hồi đất, theo
hướng này thì người sử dụng đất nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của việc thu hồi

đất. Bên cạnh đó, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của nhà nước đảm bảo
cho những thiệt hại của người sử dụng đất bị thu hồi. Một hướng đồng tình với việc

9


thu hồi đất nữa là người sử dụng đất được hưởng lợi từ chính việc nhà nước thu hồi
đất nên họ sẵn sàng chấp nhận việc thu hồi đất mặc dù chính sách bồi thường họ
cảm thấy chưa thỏa đáng. Như vậy, người sử dụng đất đồng tình với việc thu hồi đất
theo hướng này do họ hài lòng với chính sách bồi thường của nhà nước hoặc vì
được hưởng lợi từ việc nhà nước thu đất.
Thứ hai, hướng tiêu cực người sử dụng đất không đồng ý với việc thu hồi đất.
Tác động từ người sử dụng đất theo hướng này xuất phát từ việc chưa nhận thức
được tầm quan trọng của việc nhà nước thu hồi đất. Người sử dụng đất không muốn
cuộc sống hiện tại bị thay đổi hoặc kế sinh nhai bị ảnh hưởng sau khi nhà nước thu
hồi đất hoặc không đồng ý với chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dẫn đến
việc người sử dụng đất không chịu nhận bồi thường thường và không chịu bàn giao
đất cho nhà nước ảnh hướng đến tiến độ thu hồi đất.
1.1.3. Chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trải qua từng thời kì mà quyền của người sử dụng đất bị thu hồi ngày càng
được quan tâm nhưng trước khi Hiến pháp 2013 ra đời thì chính sách bồi thường
cho người sử dụng đất bị thu hồi đã được ghi nhận nhưng chỉ dừng lại trong văn bản
luật và các văn bản dưới luật mà chưa được ghi nhận trong Hiến pháp trong khi đó
việc thu hồi đất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền của những người sử dụng đất bị thu
hồi. Xuất phát từ tầm quan trọng đó cũng như nước ta đang ra sức xây dựng một
Nhà nước Pháp quyền thì vấn đề quyền con người càng được quan tâm. Chính vì
thế, lần đầu tiên chính sách bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi được ghi
nhận trong Hiến pháp (Điều 54 Hiến pháp 2013) điều này thể hiện được sự quan
tâm của nhà nước về bồi thường cho người sử dụng đất được đề cao cũng như sự
quan tâm của Nhà nước trong việc tạo cơ sở để xây dựng các chính sách bồi thường

cụ thể của người sử dụng đất bị thu hồi trong các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Theo quy định pháp luật hiện hành thì chính sách bồi thường cho người sử dụng đất
bị thu hồi bên cạnh được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 còn được cụ thể hóa trong
Luật Đất đai 2013 và các văn bản dưới luật như: Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai

10


2013; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định 84/2013/NĐ-CP
ngày 25/7/2013 của Chính phủ quy định về phát triển và quản lý Nhà ở tái định cư;
Thông tư số 07/2014/TT-BXD ngày 20/5/2014 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số
nội dung của Nghị định số 84/2013/NĐ-CP ngày 25/7/2013 của Chính phủ quy định
về phát triển và quản lý nhà ở tái định cư; Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày
30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định 01/2017/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung
một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai. Bên cạnh các văn bản quy
phạm pháp luật ở cấp Trung ương thì quyền của người sử dụng đất còn được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương ban hành.
Người sử dụng đất bị thu hồi hiện nay theo quy định pháp luật đất đai hiện
hành được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định, cụ thể:
Thứ nhất, được bồi thường về đất
Khi Nhà nước thu hồi đất thì người sử dụng đất được nhà nước bồi thường
theo quy định của pháp luật trong đó đảm bảo được những nguyên tắc:
+

Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường
quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai 2013 thì được bồi thường;
Theo quy định pháp luật hiện hành người sử dụng đất bị thu hồi sẽ được bồi

thường về đất nếu đủ điều kiện được bồi thường quy định trong đó phải thỏa mãn
điều kiện cơ bản sau:
Người có đất bị thu hồi phải là người sử dụng đất hợp pháp, tùy thuộc vào
từng giai đoạn khác nhau mà việc xác định người sử dụng đất hợp pháp theo Luật
đất đai ở từng giai đoạn và trong đó người sử dụng đất hợp pháp phải là người được
phép sử dụng đất dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật đất
đai. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thì một số trường hợp
ngoại lệ thu hồi đất mà người đang sử dụng đất trên thực tế họ không có số giấy tờ
hoặc không đủ điều kiện để cấp thì vẫn được Nhà nước bồi thường về đất, ví dụ: tại
Khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai quy định bồi thường đối với đất nông nghiệp đã sử

11


dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ
điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất.
Bên cạnh điều kiện người sử dụng đất có giấy tờ chứng minh là người sử dụng
đất hợp pháp thì điều kiện nữa là đất mà họ đang sử dụng phải không rơi vào một
trong các trường sau: Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất; thuê
dưới hình thức trả tiền hằng năm; được miễn tiền sử dụng đất; tiền sử dụng đất có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Trong đó, cũng ngoại lệ một số trường hợp vẫn
được Nhà nước bồi thường về đất, ví dụ: Đối với trường hợp giao đất không thu tiền
theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 Luật đất đai đối với hộ gia đình, cá nhân trực
tiếp sản xuất nông nghiệp được giao đất nông nghiệp trong hạn mức tại Điều 129
của Luật Đất đai năm 2013
Thứ hai, được bồi thường về tài sản
Theo quy định pháp luật đất đai hiện hành thì khi Nhà nước thu hồi đất mà tài
sản bị thiệt hại sẽ được bồi thường, trong đó bao gồm những loại tài sản: nhà ở,

công trình xây dựng, cây trồng, vật nuôi, … Theo quy định tại Khoản 1 Điều 88
Luật Đất đai 2013 khi bồi thường về tài sản phải đảm bảo nguyên tắc “Khi Nhà
nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài
sản thì được bồi thường”. Trong thu hồi đất do tài sản là đối tượng chịu ảnh hưởng
bởi việc thu hồi đất do đó tài sản hợp pháp ở đây được bồi thường phụ thuộc vào
tính chất pháp lý của đất bị thu hồi. Khi nhà nước thu hồi đất có những trường hợp:
được bồi thường về cả đất và tài sản; không được bồi thường về đất nhưng được bồi
thường về tài sản; không được bồi thường về đất cũng không được bồi thường về tài
sản. Do vậy, khi bồi thường đối với tài sản hợp pháp gắn liền với đất phải không rơi
vào những trường hợp không được bồi thường về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất
theo quy định tại Điều 92 Luật Đất đai 2013. Bên cạnh nguyên tắc chung thì còn tùy
thuộc từng loại tài sản mà nguyên tắc bồi thường sẽ khác nhau, cụ thể:

12


Thứ nhất, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt, công trình xây dựng
khác mà phần còn lại không bị thiệt hại không đủ để ở, sử dụng theo tiêu chuẩn do
pháp luật quy định sẽ được bồi thường toàn bộ nhà ở, công trình xây dựng. Trường
hợp, phần còn lại đủ để ở hoặc sử dụng thì Nhà nước bồi thường đối với phần thiệt
hại thực tế (Điều 89 Luật Đất đai 2013).
Thứ hai, đối với cây trồng, vật nuôi tại thời điểm thu hồi đã đến thời kì thu
hoạch thì không được bồi thường, nếu việc thu hoạch tại thời điểm thu hồi đất sớm
hơn thì được bồi thường thiệt hại thực tế do thu hoạch sớm (Điều 90 Luật Đất đai
2013).
Thứ ba, đối với những cây trồng, vật nuôi có thể di chuyển được thì không
được bồi thường mà chỉ được bồi thường đối với những thiệt hại thực tế xảy ra
trong quá trình di chuyển tài sản (Điều 90 Luật Đất đai 2013).
Bên cạnh quyền được bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất thì Người sử
dụng đất còn được Nhà nước bồi thường những khoản thiệt hại khác như: chi phí

đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất bị thu hồi
không được bồi thường về đất nhưng trong quá trình sử dụng đất họ đã đầu tư vào
đất để sử dụng nhưng tại thời điểm thu hồi đất còn chưa thu hồi hết nếu có đầy đủ
các minh chứng chứng minh đã đầu tư vào đất (quy định tại Điều 76 Luật Đất đai
2013, Điều 3 Nghị định 47/2014/NĐ-CP); các khoản thiệt hại do việc ngưng hoạt
động sản xuất do việc thu hồi đất (khoản 2 Điều 88 Luật Đất đai 2013); Các khoản
chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 91 Luật Đất đai 2013)…..
Thứ ba, được hỗ trợ, tái định cư
Xét về bản chất của hỗ trợ, tái định cư nhằm giúp cho người sử dụng đất ổn
định cuộc sống sau khi thu hồi đất. Tùy vào từng trường hợp thu hồi đất cụ thể mà
người sử dụng đất bị thu hồi có thể nhận được những khoản hỗ trợ khác nhau hay
được bố trí tái định cư.
Theo quy định Luật Đất đai hiện hành thì người sử dụng đất bị thu hồi được
nhận các khoản hỗ trợ bao gồm hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ tái định cư, cụ thể:

13


+

Hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất. Đây là khoản hỗ trợ cho người sử dụng đất
nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở bị thu hồi nếu thảo mãn các
điều kiện được nhận các khoản hỗ trợ theo quy định của pháp luật, trong đó:

 Hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất khi thu hồi đất nông nghiệp: đây là khoản hỗ trợ

dành cho các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 19 Nghị định 47/2014/NĐ-CP
(được sửa đổi bổ sung bởi Khoản 5 Điều 4 Nghị định 01/2017/NĐCP) và phải thỏa mãn các điều kiện để nhận hỗ trợ theo quy định tại Khoản 2 Điều
19 Nghị định 47/2014/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi (Khoản 5 Điều 4 Nghị

định 01/2017/NĐ-CP). Khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định trên thì người sử
dụng đất sẽ được nhận khoản hỗ trợ này và có thể nhận hỗ trợ bằng tiền (áp dụng
khi Nhà nước bồi thường bằng tiền đối với quyền sử dụng đất bị thu hồi) được tính
bằng tiền tương đương 30kg gạo trong một tháng theo thời giá trung bình tại thời
điểm hỗ trợ của địa phương và tùy thuộc vào diện tích thu hồi mà thời gian hỗ trợ có
thể kéo dài từ 12 đến 36 tháng tùy vào từng trường hợp cụ thể (Khoản 3 Điều 19
Nghị định 47/2014/NĐ-CP). Ngược lại nếu người sử dụng đất bị thu hồi được bồi
thường đất bằng đất có cùng mục đích sử dụng thì được nhận khoản hỗ trợ ổn định
đời sống sản xuất bằng “cây trồng, giống vật nuôi cho sản xuất nông nghiệp, các
dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt,
chăn nuôi” (Khoản 4 Điều 19 Nghị định 47/2014/NĐ-CP).
 Hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất khi thu hồi đất phi nông nghiệp không phải

là đất ở. Khoản hỗ trợ này dành cho người sử dụng đất bị thu hồi mà bị ngừng sản
xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thì được hỗ trợ ổn định sản xuất. Nếu
nhận bồi thường đất bằng tiền thì người sử dụng đất bị thu hồi có thể nhận khoản hỗ
trợ này bằng “tiền với mức cao nhất bằng 30% một năm thu nhập sau thuế, theo
mức thu nhập bình quân của 03 năm liền kề trước đó[…]báo cáo kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh cuối mỗi năm đã gửi cơ quan thuế” (Điểm b Khoản 4 Điều 19
Nghị định 47/2014/NĐ-CP). Trường hợp nhận bồi thường bằng đất có cùng mục
đích sử dụng thì người có đất bị thu hồi được nhận khoản hỗ trợ ổn định đời sống

14


sản xuất bằng “kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh doanh dịch vụ công thương
nghiệp” (Điểm a Khoản 2 Điều 19 Nghị định 47/2014/NĐ-CP).
+

Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Hỗ trợ này đối với trường

hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải
di chuyển chỗ ở
+ Hỗ trợ tái định cư. Khoản hỗ trợ tái định cư là khoản hỗ trợ cho người sử

dụng đất bị thu hồi mà phải di chuyển chổ ở, cụ thể đối với trường hợp khi Nhà
nước thu hồi đất ở mà người sử dụng bị thu hồi không còn đất ở, nhà ở nào khác
trong phạm vi xã, phường, thị trấn nếu thỏa mãn điều kiện khi Nhà nước thu hồi đất
mà số tiền bồi thường về đất nhỏ hơn suất tái định cư tối thiểu nếu nhận bồi thường
bằng đất ở, nhà ở tái định cư hoặc khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất bị
thu hồi tự lo chỗ ở mới. Theo quy định pháp luật thì người sử dụng đất được nhận
hỗ trợ tái định bằng tiền và tùy thuộc vào hình thức tái định cư mà khoản tiền hỗ trợ
được tính khác nhau
Thứ tư, được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Quyền được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phát sinh khi người sử dụng
đất bị thu hồi phải di chuyển chỗ ở cụ thể là sau khi thu hồi đất ở mà không còn đất
ở, nhà ở nào khác trong phạm vi xã, phường, thị trấn. Hiện nay, theo quy định pháp
luật hiện hành nguời sử dụng đất bị thu hồi được tái định cư dưới các hình thức:
+

Tái định cư tập trung. Hình thức tái định cư tập trung là khi Nhà nước thu hồi đất
mà người sử dụng đất ở bị thu hồi được bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái
định cư và họ được nhà nước bố trí chỗ ở mới tại các khu tái định cư đã được tạo
lập trước. Hình thức tái định cư này giúp cho người sử dụng đất bị thu hồi có điều
kiện về kinh tế có thể tạo lập lại chỗ ở mới sau khi thu hồi, bởi nếu số tiền bồi
thường về đất mà tự lo chỗ ở mới có thể sẽ gặp khó khăn bởi số tiền bồi thường về
đất trong một số trường hợp không đủ để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở
mới với giá trên thị trường. Trong khi đó, nếu người sử dụng đất tái định cư dưới
hình thức tập trung mà số tiền bồi thường về đất có sự chênh lệch theo hướng thấp


15


hơn so với đất ở, nhà ở tại khu tái định cư sẽ được Nhà nước hỗ trợ tái định cư đối
với phần chênh lệch đó.
+

Tái định cư phân tán. Đây là hình thức tái định cư theo yêu cầu của người sử dụng
đất bị thu hồi. Khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất ở không có nhu cầu
nhận bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái định cư thì Nhà nước sẽ chi trả bồi
thường về đất bằng tiền để họ tự lo chỗ ở mới. Hình thức tái định cư phân tán có sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất có thể tự do lựa chọn nơi ở mới để có
thể thuận tiện cho các sinh hoạt trong cuộc sống mà không cần di chuyển đến các
khu tái định cư. Bên cạnh đó, việc người sử dụng đất tự lo chỗ ở sẽ giảm nhẹ một
phần gánh nặng cho Nhà nước tập trong việc xây dựng các dự án khu tái định cư.
+ Tái định cư tại chỗ. Đây là hình thức tái định cư trên thửa đất còn lại sau khi

Nhà nước thu hồi. Theo quy định tại Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT về việc quy
định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì điều kiện
để tái định cư dưới hình thức tại chỗ khi thửa đất có nhà ở bị thu hồi còn diện tích
đất nông nghiệp không được công nhận là đất ở và đủ điều kiện để tách thửa theo
quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất bị thu hồi thì người có đất bị thu
hồi được phép chuyển mục đích sử dụng phần diện tích đất nông nghiệp thành đất ở
để tái định cư. Hình thức tái định cư này giúp cho người sử dụng đất bị thu hồi sinh
sống tại nơi ở cũ mà không phải chịu ảnh hưởng bởi những thay đổi của cuộc sống
nếu phải di chuyển chỗ ở, ví dụ về thói quen sinh hoạt, phong tục, văn hóa tại địa
phương, kế sinh nhai hằng ngày……..
1.2. Khái quát thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất
khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

khi Nhà nước thu hồi đất
Thực hiện pháp luật là một trong những khâu quan trọng để đưa những quy
định của pháp luật vào trong cuộc sống. Thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật
góp phần quan trọng để đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật bởi trong quá trình
thực hiện pháp luật sẽ thấy được những bất cập hoặc tính khả thi của của quy định

16


pháp luật khi áp dụng trong thực tế để có hướng hoàn thiện pháp luật. Dưới góc độ
lý luận thì “Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế, hợp pháp có mục đích của các
chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi
vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật” [21, tr.396]. Từ khái niệm trên thì hoạt động thực hiện pháp luật được tiến
hành thống qua những hành vi cụ thể (hành động hoặc không hành động) của các
chủ thể pháp luật bao gồm các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền và những cá nhân,
cơ quan tổ chức khác nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất
khi Nhà nước thu hồi đất hoạt động của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, người
sử dụng đất và những chủ thể khác có liên quan thực hiện nhằm mục đích cụ thể hóa
các quy định của pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi vào trong
thực tế.
1.2.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng
đất khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, thể hiện nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân
Đất đai ở Việt Nam hiện nay được xác lập dưới chế độ sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước tiến hành thực hiện nội dung quyền sở hữu
toàn dân. Trong đó, Nhà nước thu hồi đất là một trong những nội dung thể hiện
quyền định đoạt đối với đất đai và hệ lụy là vấn đề bồi thường cho người sử dụng
đất được đặt ra. Nhà nước là chủ thể tiến hành đại diện cho chủ sở hữu đối với đất

đai trực tiếp thực hiện việc chi trả bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Do
đó, thông qua hoạt động bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi khi nhà nước
thu hồi đất là một trong những nội dung quan trọng Nhà nước đang cụ thể hóa nội
dung của quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai.
Thứ hai, là hoạt động gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước
Theo quy định tại Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 thì “Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Nhà nước là

17


chủ thể thống nhất quản lý đối với đất đai. Hoạt động quản lý của Nhà nước gắn liền
với các hoạt động quy định tại Điều 22 Luật Đất đai năm 2013. Trong các hoạt động
quản lý nhà nước về đất đai tại Khoản 6 Điều 22 Luật Đất đai năm 2013 có quy
định hoạt động“Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất”. Trên
cơ sở đó nhà nước tiến hành ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
để quy định việc bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi và tổ chức thực hiện
các quy định pháp đó vào trong thực tế.
Thứ ba, thực hiện pháp luật bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi là
hoạt động đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị thu hồi
Quyền sử dụng đất là một trong những quyền tài sản có giá trị của người sử
dụng đất. Quyền sử dụng đất chỉ phát sinh khi Nhà nước trao quyền sử dụng đất
thông qua những hình thức do pháp luật quy định và được đăng kí theo quy định của
pháp luật. Theo quy định pháp luật đất đai trong quá trình sử dụng đất thì quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất được nhà nước đảm bảo thực hiện. Trong đó, quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất là một trong những quyền có
vai trò quan trọng đối với người sử dụng đất để đảm bảo những thiệt hại mà người
sử dụng đất phải gánh chịu cũng như đảm bảo được cuộc sống sau khi nhà nước thu
hồi đất. Do đó, thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi

nghiêm túc sẽ góp phần đảm bảo được quyền lợi của người sử dụng đất khi nhà
nước thu hồi đất.
Thứ tư, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng trong thực hiện
pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Việc áp dụng pháp luật về
bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi được tiến hành với cơ quan có thẩm
quyền và mang tính bắt buộc đối với người sử dụng đất bị thu hồi. Người sử dụng
đất bị thu hồi có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về việc bồi thường song song đó người sử dụng đất có thể thực hiện các
quyền khiếu nại, khiếu kiến theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trước những quyết định về bồi thường của cơ quan nhà nước có

18


thẩm quyền nếu có căn cứ cho rằng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
1.2.3. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất
khi Nhà nước thu hồi đất
Nguyên tắc trong thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất
khi nhà nước thu hồi đất được hiểu là những phương hướng chỉ đạo, là nền tảng
pháp lý xuyên suốt thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu
hồi. Pháp luật đất đai hiện nay chưa có điều khoản cụ thể nào quy định về nguyên
tắc trên, nhưng trên tinh thần các quy định của pháp luật đất đai có thể thấy trong
thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi cần tuân thủ một
số nguyên tắc nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân dó Nhà nước đại diện cho
chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với đất đai.
Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở chỗ đất đai ở Việt Nam hiện nay được xây
dựng dưới chế độ sở hữu toàn dân và mỗi người dân không tự thực hiện quyền chủ

sở hữu đối với đất đai mà phải thông qua là chủ thể đại diện là Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Nhà nước với vai trò là chủ thể của quyền sở
hữu toàn dân, thống nhất quản lý đối với đất đai và trong số những quyền đại diện
cho chủ sở hữu toàn dân quy định tại Điều 13, nội dung quản lý đất đai và Điều 22
Luật Đất đai 2013 có quy định Nhà nước có quyền “ Quản lý việc bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi thu hồi đất”. Với vai trò trên thì Nhà nước thông qua những cơ
quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến bồi thường, và trong đó phải làm sao để người sử
dụng đất được hưởng đầy đủ các chính sách bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và
đảm bảo được quyền của người sử dụng đất trong quá trình sử dụng đất, tạo được sự
tin tưởng của nhân dân khi nhà nước thu hồi đất.
Thứ hai, tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong bồi thường cho người sử dụng
đất bị thu hồi

19


Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định
của pháp luật có liên quan đến bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Nếu
việc ban hành các quy định pháp luật về chính sách bồi thường đúng đắn, có tính
khả thi phù hợp với tình hình thực tế thì không đồng nghĩa với việc đảm bảo được
quyền của người sử dụng đất mà còn phụ thuộc vào việc áp dụng nghiêm chỉnh các
quy định này trên thực tế. Nguyên tắc này nếu vi phạm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của người sử dụng đất dẫn đến tình trạng khiếu nại, khiếu kiện kéo dài,
vượt cấp làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự xã hội, mất lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước.
Thứ ba, đảm bảo sự công bằng, công khai minh bạch và dân chủ trong thực
hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất
Nội dung nguyên tắc công bằng, dân chủ và khách quan trong đăng kí quyền
sử dụng đất thể hiện khi Nhà nước bồi thường cho người sử dụng đất phải đảm

bảo sự công bằng giữa các chủ thể là Nhà nước với người sử dụng đất với chủ đầu
tư, giữa những người sử dụng đất với nhau. Việc thực hiện chính sách bồi thường
cho người sử dụng đất phải được tiến hành công khai và đảm bảo cho các chủ thể
có liên quan được biết và được lấy ý kiến, có xem xét đến ý kiến đó.
Đây là nguyên tắc nếu nhìn vào thì rất dễ để thực hiện nhưng cũng là nguyên
tắc có thể khó đảm bảo trong quá trình thực hiện pháp luật. Yếu tố công bằng,
công khai minh bạch và dân chủ xét đến cùng cũng chỉ xuất phát từ yếu tố chủ
quan của các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình xây dựng và thực hiện các quy
định pháp luật về đăng kí quyền sử dụng đất, đặc biệt ở việc xây dựng các quy
định pháp luật nếu không đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
những người sử dụng đất bị thu hồi.
Thứ tư, đảm bảo quyền khiếu nại, khiếu kiện và giải quyết khiếu nại, khiếu
kiện trong thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước
thu hồi đất
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất khi nhà nước thu hồi đất. Hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư

20


được thực hiện thông qua hệ thống cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho
người sử dụng đất bị thu hồi ít nhiều phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người
mặc dù pháp luật có quy định đầy đủ nhưng cũng không thể tránh khỏi những
trường hợp có sai phạm ảnh hưởng đến quyền của người sử dụng đất bị thu hồi.
Do đó, một trong những cơ chế để có thể đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị
thu hồi cũng như hạn chế đến mức tối đa sai phạm của cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền trong thực hiện pháp luật về bồi thường thì cần đảm bảo cho người sử dụng
đất thực hiện quyền khiếu nại, khiếu kiện và đảm bảo mọi khiếu nại, khiếu kiện
được giải quyết kịp thời.

1.2.4. Ý nghĩa của thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất
khi Nhà nước thu hồi đất
Vấn đề thu hồi đất là tất yếu trong giai đoạn hiện nay để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.
Chính vì vậy, để quá trình thu hồi đất diễn ra nhanh chóng thì việc thực hiện pháp
luật về bồi thường cho người sử dụng đất có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đảm
bảo về quyền lợi của người sử dụng đất bị thu hồi mà còn có ý nghĩa đối với nhà
nước và chủ đầu tư, cụ thể:
Thứ nhất, đối với người sử dụng đất bị thu hồi. Đất đai là loại tài sản có giá trị
lớn, mặc dù người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu, nhưng họ được Nhà nước
giao đất để sử dụng, và quyền sử dụng đối với đất đai được người sử dụng đất xem
như tài sản lớn của họ, khi Nhà nước thu hồi lại đất họ mất đi tư liệu sản xuất quan
trọng ảnh hưởng lớn về mặt kinh tế, mất chỗ ở, thậm chí còn bị thiệt hại về tài sản
gắn liền với đất. Nhưng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì mục đích phát triển kinh
tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, họ sẵn sàng giao đi mảnh đất mình
đang sử dụng để phục vụ cho các mục đích trên. Do đó, việc thực hiện pháp luật bồi
thường cho những chủ thể có đất bị thu hồi trước hết coi như là sự đền trả lại những
thiệt hại cho người có đất bị thu hồi, việc bồi thường này giúp ích cho họ có thể
đảm bảo được cuộc sống, ổn định sản xuất sau khi thu hồi đất. Với số tiền được bồi

21


×