Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.98 KB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………../…………..

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THÚY HẰNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐĂK LĂK, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THÚY HẰNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG


TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRƯƠNG QUỐC CHÍNH

ĐĂK LĂK, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công với đề tài “Quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú
Yên” được tác giả viết với sự hướng dẫn của PGS.TS. Trương Quốc Chính.
Khi thực hiện luận văn này, tác giả có tham khảo và kế thừa một số lý luận
chung trong công tác thi đua, khen thưởng và sử dụng những thông tin, số liệu
từ các cơ quan quản lý nhà nước cùng các tài liệu, sách báo, mạng internet...
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi.
Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực; các tài liệu tham khảo có
nguồn trích dẫn; kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố
trong các công trình nghiên cứu khác, nếu có gì sai trái, tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Đăk Lăk, ngày 11 tháng 6 năm
2020
Tác giả luận văn

Trần Thúy Hằng



LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo, các
giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới PGS.TS.
Trương Quốc Chính vì sự tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong quá trình thực
hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Ban Thi đua - Khen thưởng, Sở Giáo
dục và Đào tạo tỉnh Phú Yên, đồng nghiệp và gia đình đã quan tâm, động
viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chương trình học tập và bản
luận văn này.
Mặc dù có nhiều nỗ lực, cố gắng, song luận văn không thể tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế, tôi rất mong nhận được sự chia sẻ và những ý
kiến đóng góp quý báu của quý Thầy, Cô và các anh, chị đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!

Phú Yên, ngày
tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Trần Thúy Hằng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU …………………………………………………………………… 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI
ĐUA, KHEN THƯỞNG…………………………………………………….8
1.1. Lý luận chung về thi đua, khen thưởng………...……………………...8
1.2. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng...…………...…………....15

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng………………………………………………………….…………….31
Tiểu kết chương 1……………………………...……………………….…36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH PHÚ YÊN………………………………………………………...….37
2.1. Khái quát về công tác thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục
trên địa bàn tỉnh Phú Yên…………………..……...………………………...37
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực
giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên……..…………………..…….................50
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong
lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên……………………….………..68
Tiểu kết chương 2………………………………………………………..….78
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO
DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN…………………………...…….79
3.1. Phương hướng ……………………………………………………....79


3.2. Giải pháp………………………………………………………...…..83
Tiểu kết chương 3…………………………………………………….….....100
KẾT LUẬN………………………………………………………………..102


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Thi đua yêu nước là tư tưởng nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm
động viên, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn của toàn dân tộc thành
những hành động cụ thể, thiết thực, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khó
khăn, thách thức, giành những thắng lợi quan trọng trong các giai đoạn cách

mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới phong trào thi đua yêu
nước và luôn nhắc nhở các cấp, các ngành phải coi trọng công tác thi đua.
Trong suố t tiếnriǹ h cách mangg̣ ViêṭNam, nhiều phong trào thi đua yêu nước
đã được phát động và trở thành cao trào cách mạng của quần chúng nhân dân.
Các phong trào như "Bình dân học vụ", "Hũ gạo kháng chiến, "Mỗi người làm
việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt", "Thanh niên Ba sẵn sàng", "Phụ nữ Ba
đảm đang", “Đền ơn đáp nghĩa”, "Tuổi trẻ giữ nước", "Ngày vì người nghèo"
v.v. đã mang lại những hiệu quả to lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì
phải thi đua”, “Công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua”. Thi đua phải
được tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và phải thực hiện
thường xuyên, lâu dài, rộng khắp. Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp phải
tuyên truyền, giải thích, động viên cho mọi người tự nguyện, tự giác tham gia
phong trào thi đua với kế hoạch, mục tiêu cụ thể, rõ ràng; đồng thời, phải có
trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, tổng kết phong trào thi đua. Cán bộ,
đảng viên phải tích cực vận động quần chúng, đi đầu làm gương cho mọi
người. Phải kết hợp chặt chẽ thi đua với khen thưởng, “Thi đua là gieo trồng,
khen thưởng là thu hoạch”. Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ
động viên, giáo dục và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục.

1




từng thời kỳ lịch sử, công tác thi đua, khen thưởng luôn là chủ

trương và chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, luôn là nhiệm vụ chính trị
của đất nước và góp phần to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Trong giai

đoạn cách mạng hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước vẫn còn
nguyên giá trị và có sức sống mãnh liệt. Ngày 21/5/2004, Bộ Chính trị đã ra
Chỉ thị 39/CT-TW về việc “tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”. Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh: “Tổ chức các phong
trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại”; Bô g̣Chi ń h
tri g̣ ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 7/4/2014 về“Tiếp tục đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng”… Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trước những thời cơ và thách thức, công tác thi đua, khen
thưởng là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy nội lực về tinh thần để
động viên, khuyến khích mọi tổ chức, mọi cá nhân phát huy truyền thống yêu
nước, năng động, sáng tạo hăng hái thi đua lập thành tích xuất sắc trên mọi
lĩnh vực, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm học 2013- 2014 đến năm học
2017-2018 phong trào thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng của
ngành giáo dục của tỉnh Phú Yên đã dần đi vào nề nếp, các phong trào thi đua
đã thực sự góp phần vào thực hiện có kết quả các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị
của ngành góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
Bên cạnh những mặt đạt được công tác thi đua, khen thưởng trong lĩnh
vực giáo dục tỉnh Phú Yên vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế như: công tác
thi đua, khen thưởng thiếu cụ thể, phong trào thi đua chưa thật sự tạo được
2


động lực mạnh mẽ, công tác tuyên truyền, giới thiệu, nêu gương điển hình
tiên tiến, nhân rộng chưa tạo sự lan tỏa trong phong trào thi đua của ngành
giáo dục tỉnh Phú Yên trong thời gian qua. Một trong những nguyên nhân cơ

bản của tình trạng trên là do công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng còn nhiều bất cập, hạn chế; coi nhẹ công tác tuyên truyền, phổ biến,
hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen
thưởng. Công tác tổng kết, bình bầu còn tình trạng nể nang chạy theo thành
tích. Tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng còn hạn
chế về chuyên môn.
Vì những lý do như vậy, tôi chọn vấn đề “Quản lý Nhà nước về thi
đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên” làm
đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công .
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Công tác thi đua, khen thưởng ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng và
được mọi cấp, ngành quan tâm. Đã có rất nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về
công tác thi đua, khen thưởng ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau được công bố
trên sách báo, tạp chí và các báo cáo tổng kết Hội thảo, đề tài khoa học tiêu
biểu như:
- Nguyễn Viết Vượng (2006), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi
đua trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản
Lao động. Cuốn sách trình bày, phân tích khá kỹ về nguồn gốc quá trình hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, phân tích nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về thi đua; nêu định hướng và các giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về thi đua;
-

Trần Thị Hà (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen

thưởng trong giai đoạn hiện nay, Đề tài cấp nhà nước, Mã số đề tài: 02/2010,


3


đề tài đã tập trung nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về thi đua, khen
thưởng trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới hoạt động thi đua,
khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Thông qua đó làm
căn cứ để kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng.
-

Bên cạnh đó cũng có nhiều luận án, luận văn nghiên cứu về thi đua,

khen thưởng, tiêu biểu như:
+ Phạm Thị Xuyến (2018), Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk, luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính
Quốc gia. Luận văn nêu lên thực trạng công tác thi đua, khen thưởng của tỉnh
Đắk Lắk, bên cạnh những mặt đã đạt được còn có nhiều hạn chế và đề ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
tại địa phương trong thời gian tới;
+

Nguyễn Thị Kim Hằng (2018), Quản lý nhà nước về thi đua, khen

thưởng của UBND Quận 12, TP Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ Quản lý công,
Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đã phân tích thực trạng của công tác
thi đua, khen thưởng của UBND Quận 12, đồng thời đánh giá lại những mặt
làm được, chưa làm được, tìm ra nguyên nhân khách quan, chủ quan để từ đó
đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng của Ủy ban nhân dân Quận;
+ Nguyễn Thị Hạnh (2017), Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng


tỉnh Bắc Ninh hiện nay, luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính
Quốc gia. Luận văn nêu lên thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng ở tỉnh Bắc Ninh tuy có những bước chuyển biến rõ rệt, đồng bộ và nề
nếp hơn tuy nhiên phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng còn
nhiều hạn chế, yếu kém… Qua đó tác giả đã đề ra những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Bắc


4


Ninh;
+ Nguyễn Vũ Lộc (2017), Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
trên
địa bàn tỉnh Phú Yên, luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính
Quốc gia; Luận văn phân tích thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn
những hạn chế bất cập cần khắc phục. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại tỉnh
Phú Yên;
+

Đào Thị Thùy Dung (2015), “Đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về

thi đua khen thưởng tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc
sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đã phân tích thực
trạng công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước trong công tác này tại địa
phương;

+ Trần Thị Thanh Loan (2014) “Quản lý nhà nước về thi đua khen
thưởng
trên địa bàn thành phố Hải Phòng”, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý
công, Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đề cập đến những vấn đề về
quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng tại thành phố Hải
Phòng trong giai đoạn 2009 – 2014, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng
cường công tác này tại địa phương;
Tuy nhiên, hiện nay chưa có tài liệu nghiên cứu đầy đủ và chính thức về
thực trạng quản lý nhà nước đối với thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo
dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Vì vậy, trong luận văn này tác giả nêu rõ thực
trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên
địa bàn tỉnh Phú Yên từ năm học 2013-2014 đến năm học 2017-2018 và đề


5


xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục của tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích: đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp
phần
tăng cường quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục
trên địa bàn tỉnh Phú Yên và từ đó có thể có được sự đổi mới trong công tác
thi đua, khen thưởng tại địa phương trong thời gian tới.
+


Nhiệm vụ:

Nghiên cứu, hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua,

khen thưởng; hệ thống lại một số vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước
đối với công tác thi đua, khen thưởng.
+

Phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen

thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên trong thời gian qua.
+
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý
nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú
Yên trong những năm tiếp theo.
4.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: Lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục theo quy định pháp luật
hiện hành về thi đua, khen thưởng.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục theo quy định của Luật
Thi đua, Khen thưởng hiện hành.
-

Về không gian: trên địa bàn tỉnh Phú Yên.


-

Về thời gian: từ năm học 2013-2014 đến năm học 2017-2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận
văn


6


Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện dựa trên phương
pháp
luận biện chứng duy vật.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương
pháp
như: phân tích tài liệu; phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu; phương
pháp phân tích, tổng hợp.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận: Góp phần hệ thống lại những cơ sở lý luận của
quản lý
nhà nước đối với thi đua, khen thưởng nói chung và thi đua, khen thưởng
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.
- Về thực tiễn: Nội dung của những giải pháp mà luận văn đưa ra có thể
có ý nghĩa khuyến nghị bổ ích đối với những cơ quan, cán bộ làm công tác thi
đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong
lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Phú Yên.


7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
1.1. Lý luận chung về thi đua, khen thưởng
1.1.1. Khái niệm thi đua
Thi đua là một công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước nhưng đã có
những lúc, những nơi nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề này. Có lúc người ta
tưởng thi đua ra đời là có thể hoàn toàn thay thế cạnh tranh. Lại có lúc có
người cho rằng trong cơ chế thị trường chỉ cần cạnh tranh, không cần thi đua.
Hoặc có người tưởng rằng thi đua chỉ là công việc có tính nhất thời, là công
việc có tính phong trào, hình thức trong các dịp kỷ niệm, chưa coi trọng đúng
mức tầm quan trọng của thi đua.
Khái niệm thi đua được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau:
Theo C. Mác: "Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt
động chung và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và
sự nâng cao theo lối đặc biệt nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực cho riêng
từng người". [12, tr.274].

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “Thi đua là việc cùng nhau đưa hết khả năng
ra làm nhằm thúc đẩy lẫn nhau, đạt được thành tích tốt nhất trong một hoạt
động nào đó” [20, tr.1599].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua là công việc diễn ra hàng ngày, trên
tất cả các mặt hoạt động trong một tập thể, do những cá nhân tiến hành, nhằm
đạt kết quả tốt hơn. Người viết: “Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với
những việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua.
Ví dụ: từ trước đến nay ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, ở, mặc
sao cho sạch, cho hợp vệ sinh, khỏi đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng nay ta
8


thi đua làm cho ruộng tốt hơn, sản xuất nhiều hơn, mọi việc đều thi đua như
vậy” [16, tr. 656].
Thi đua là một hoạt động có tổ chức và có định hướng. Hoạt động thi
đua phải xác định được kế hoạch, mục tiêu, hình thức, đối tượng, tổ chức phát
động, ký kết giao ước, đăng ký, kiểm tra, đôn đốc, bình chọn, sơ kết, tổng kết,
tôn vinh, biểu dương, tri ân, nhân rộng điển hình tiên tiến,...có sự tham gia
của tổ chức Đảng; tổ chức Công đoàn, Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và cá nhân. Người phát động thi đua là người có thẩm quyền được
quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng. Nội dung thi đua được thực hiện
trên cơ sở nguyên tắc theo quy định và khi tặng danh hiệu phải dựa trên căn
cứ, tiêu chuẩn cụ thể theo quy định.
Thi đua là một hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, có mục đích,
có định hướng. Thi đua là nhằm thúc đẩy sản suất lao động, phấn đấu để đạt
được kết quả đã đề ra của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, làm cơ sở cho việc
xem xét, đánh giá toàn bộ quá trình công tác, cống hiến cũng như lao động
sản xuất và học tập của cá nhân và tập thể. Để thực hiện được mục tiêu trên
đòi hỏi các tổ chức, cá nhân phải lấy phong trào thi đua làm đòn bẩy để thúc
đẩy hoàn thành nhiệm vụ trong từng lĩnh vực; coi công tác thi đua là một

nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý nhà nước ở từng địa phương và
từng đơn vị.
Tại Khoản 1, Điều 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi
đua, khen thưởng năm 2013 có định nghĩa khái niệm thi đua như sau: “Thi
đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể
nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” . [22, tr.1].
Như vậy theo nội dung khái niệm trên thì thi đua phải bao gồm 3 yếu tố
là:
9


Thứ nhất: Thi đua là hoạt động có tổ chức vì các phong trào thi đua là
do người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phát động để thực hiện nhiệm
vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoạt động có tổ chức của thi đua được
thể hiện từ khi lập kế hoạch, xác định mục tiêu, hình thức, đối tượng, tổ chức
phát động, ký giao ước thi đua, kiểm tra, sơ kết, tổng kết phong trào thi đua,
biểu dương, nhân rộng điển hình tiên tiến,…
Thứ hai: Thi đua là hoạt động tự nguyện, có tự nguyện thì mới khơi dậy
được sự sáng tạo của con người. Chỉ khi có tập thể cùng nhau hoạt động trên
tinh thần tự nguyện thì thi đua mới có ý nghĩa.
Thứ ba: Thi đua là hoạt động có mục tiêu và hướng đích rõ rệt, mục
đích để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thi đua sẽ giúp cho hiệu quả, chất lượng
và năng suất lao động, học tập và công tác không ngừng được nâng lên, từ đó
thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt.
1.1.2. Khái niệm khen thưởng
Khen thưởng là một trong những công cụ quản lý quan trọng của nhà
nước và là một trong những biện pháp quản lý của cơ quan, tổ chức.
Khen thưởng là một trong những lĩnh vực quan trọng trong quá trình
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước. Đồng thời là biện pháp cơ bản, là cơ sở căn cứ để đánh giá kết quả công
việc, hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch đề ra của tập thể, cá nhân trong quá trình
thực hiện.
Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích của Nhà nước
bằng quyết định của cơ quan đơn vị có thẩm quyền theo luật định, nhằm ghi
nhận, tôn vinh, biểu dương thành tích và nhân rộng điển hình tiên tiến những
tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, chiến đấu,
học tập; giáo dục động viên và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; tạo

10


động lực cách mạng lôi cuốn, động viên khuyến khích mọi người phát huy
truyền thống yêu nước, tính năng động sáng tạo, vươn lên lập thành tích xuất
sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng
giàu mạnh. Đồng thời, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, đẩy lùi cái ác,
cái xấu và xây dựng con người mới.
Ở nước ta, khen thưởng đã được thực hiện từ các triều đại phong kiến
trước đây. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã ghi rõ
những hình thức khen thưởng như: Khen thưởng người có công trong việc đi
sứ; Khen thưởng người phò tá có công lao tài đức; Khen thưởng người tiến
cử,người hiền tài; Khen thưởng người có lời tâu đúng; Khen thưởng người
cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người quyền quý cấp trên; Khen
thưởng người có công làm thủy lợi; Khen thưởng người có tài văn
chương;Khen thưởng người cao tuổi; … Theo Nguyễn Trãi: Một Nhà nước
mà thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời là Nhà nước vững mạnh. Nhà nước
nào phạt nhiều hơn thưởng là Nhà nước đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng
nhiều hơn phạt là Nhà nước phồn vinh.[34, tr. 21]. Qua đó ta có thể thấy được
các triều đại phong kiến đã chú trọng tới việc khen thưởng để khuyến khích,
khích lệ động viên mọi người hăng hái lập công. Đó chính là tinh thần yêu

nước sâu sắc của dân tộc.
Bác Hồ luôn quan tâm đến việc biểu dương, khích lệ động viên người
tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử đẹp là Bác cho đi
kiểm tra ngay để Bác khen thưởng. Bác thường nhắc nhở khen thưởng phải
chính xác và kịp thời để động viên, phát huy mặt ưu điểm, tích cực, khắc phục
và đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con người mới vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

11


Như vậy, ta có thể hiểu Khen là việc nhận xét, đánh giá tốt về một tổ
chức hoặc cá nhân nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Thưởng
là tặng cho bằng hiện vật hoặc bằng tiền. Khen thưởng là hình thức ghi nhận
công lao, thành tích của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm
quyền do luật định. Khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã
hội. Khen thưởng tồn tại cùng với sự tồn tại của Nhà nước, còn Nhà nước là
còn khen thưởng. Khen thưởng vừa có ý nghĩa động viên tinh thần, vừa có ý
nghĩa khích lệ bằng vật chất.
Hiện nay, khen thưởng vẫn có vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy
xã hội phát triển ổn định và bền vững; là biện pháp của người quản lý thực
hiện nhiệm vụ trọng tâm chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương mình nhằm
khuyến khích, động viên các tầng lớp nhân dân trong xã hội tích cực lao động,
sản xuất và công tác. Tại Khoản 2, Điều 3 Luật Thi đua, Khen thưởng năm
2003 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2005, 2013): Khen thưởng là việc ghi nhận,
biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với
cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [22, tr. 1].
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng là hai hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động biện chứng lẫn nhau. Mối quan hệ đó được biểu hiện: Thi đua là động

lực thúc đẩy cá nhân, tập thể thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ, trên cơ sở đó
để thực hiện việc khen thưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu
hoạch” [4, tr.14], việc lấy hình ảnh gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch tại
thời điểm đó là một sự vận dụng vô cùng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khi nói về thi đua yêu nước.

12


Thi đua là cơ sở của việc khen thưởng. Chính nền tảng của phong trào
thi đua yêu nước sôi nổi mới có thể lựa chọn những cá nhân, tập thể tiêu biểu
nhất, xứng đáng nhất, đầy đủ và kịp thời nhất cho việc khen thưởng.
Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời lại có tác dụng động viên,
giáo dục, nêu gương và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục.Thi đua
là cơ sở của việc khen thưởng. Thi đua tốt thì có nhiều thành tích để khen
thưởng. Bình bầu thi đua đúng, công khai, chặt chẽ giúp cho việc khen thưởng
được chính xác. Bình bầu thi đua rộng, nể nang thì dẫn đến việc khen thưởng
tràn lan, khen không đúng sẽ phản tác dụng. Muốn làm tốt công tác khen
thưởng thì phải lãnh đạo tốt công tác thi đua, khen thưởng phải phản ánh đúng
phong trào thi đua. Nơi nào có phong trào thi đua mạnh mẽ, đều khắp thì khen
thưởng nhiều và khen cao.
Nếu thi đua là cơ sở để khen thưởng thì khen thưởng được xem là đòn
bẩy để khuyến khích các phong trào thi đua phát triển. Tuy nhiên không nên
hiểu rẳng thi đua chỉ vì mục đích khen thưởng, nếu thi đua chỉ vì khen thưởng
thì mục đích của thi đua sẽ bị hạn chế, mà cần hiểu rằng khen thưởng chỉ là sự
khuyến khích, động viên tinh thần đối với những thành tích của cá nhân, tập
thể qua quá trình phấn đấu lao động và sáng tạo. Đó là sự công bằng của tổ
chức trong việc quản lý con người, đối với những cá nhân có nhiều đóng góp
cho xã hội.

Đồng thời, muốn thi đua và khen thưởng trở thành động lực tích cực
trong quá trình phát triển thì thi đua phải có sự lãnh đạo đúng. Thi đua mà
không có sự lãnh đạo, tổ chức, thì thường nảy sinh chia rẽ, ganh tỵ, ghét bỏ
nhau, có thể làm những người tham gia thi đua nản lòng. Tránh hiện tượng các
cá nhân, tập thể tham gia thi đua mà chia rẽ, chỉ biết đến lợi ích của cá nhân
mình mà không quan tâm đến lợi ích của người khác, lợi ích của tập thể.
Tránh tư tưởng anh hùng cá nhân, vì thành tích cá nhân.

13


Như vậy, thi đua và khen thưởng là hai hoạt động có quan hệ song hành
nhưng không độc lập, hoạt động này bổ trợ cho hoạt động kia. Thi đua, khen
thưởng được coi là động lực để nâng cao hiệu quả chất lượng trên mọi lĩnh
vực chính trị - kinh tế - văn hóa và xã hội. Có thể khẳng định rằng, trong giai
đoạn hiện nay, thi đua là một biện pháp hữu hiệu xây dựng con người mới và
khen thưởng là biện pháp quản lý Nhà nước, quản lý con người.
1.1.4. Nguyên tắc về thi đua, khen thưởng
Nguyên tắc thi đua gồm:
Tự nguyện, tự giác công khai, đoàn kết, hợp tác và cùng phát
triển.
-

Việc xét tặng các danh hiệu thi đua phải căn cứ vào phong trào thi đua

và có đăng ký thi đua.
-

Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương là Chủ tịch Hội đồng Thi


đua – Khen cấp mình.

Nguyên tắc khen thưởng gồm:
-

Chính xác, công khai, công bằng, kịp thời.

-

Hình thức khen thưởng phải phù hợp với đối tượng, chức năng,

nhiệm vụ được giao của tập thể.
Khen thưởng phải căn cứ vào điều kiện, tiêu chuẩn và thành
tích đạt
được, không nhất thiết phải có hình thức khen thưởng mức thấp mới được
khen thưởng mức cao hơn. Chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ và cá nhân là
người trực tiếp lao động, sản xuất, học tập, công tác hoặc chiến đấu, phục vụ
chiến đấu.
- Không tặng nhiều hình thức cho một thành tích đạt được. Hình thức
khen thưởng theo đợt, theo chuyên đề không tính làm điều kiện, tiêu chuẩn
khen thưởng cấp Nhà nước.


14


×