Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THU HIỀN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA KHEN THƢỞNG ĐỐI VỚI
CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
MÃ SỐ: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRƢƠNG QUỐC CHÍNH

HÀ NỘI – NĂM 2016

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Trƣơng Quốc
Chính.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không
trùng lặp với các đề tài khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2016
Tác giả luận văn



Nguyễn Thu Hiền


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin bày tỏ lời cảm ơn chân
thành, sâu sắc nhất tới PGS. TS. Trương Quốc Chính vì sự tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban Giám đốc, các Thầy, cô giáo của
Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình, chu đáo trong quá trình giảng dạy và
truyền đạt kiến thức cho tôi. Xin cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên của Học viện
Hành chính quốc gia đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời
gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương trình cao học.
Xin chân thành cảm ơn các vị lãnh đạo, đồng nghiệp, bạn bè công tác tại
Ban Thi đua, khen thưởng thành phố Hà Nội, trường Cao đẳng Y tế Hà Nội, trường
Cao đẳng Y tế Hà Đông, trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội và các trường cao
đẳng khác trên địa bàn thành phố đã luôn động viên, quan tâm, tạo điều kiện giúp
đỡ tôi về mặt tài liệu, số liệu, để tôi có thể hoàn thiện luận văn này.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư thời gian và công sức nghiên cứu
hoàn thành luận văn, nhưng do hạn chế về chuyên môn, kiến thức, nên chắc chắn
không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp
ý của các Thầy, cô giáo, của đồng nghiệp và các bạn học viên để luận văn ngày
càng hữu ích hơn.
Xin trân trọng cám ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hiền



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .....................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ..........................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ....................................................................8
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài................................................................................8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................................8
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài................................................................................................9
7. Kết cấu của luận văn ..........................................................................................................9
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA KHEN
THƢỞNG ..................................................................................................................... 10
1.1. Lý luận chung về thi đua khen thƣởng .....................................................................10
1.1.1. Khái niệm thi đua.............................................................................................. 10
1.1.2. Khái niệm khen thưởng ..................................................................................... 12
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng ........................................................ 15
1.2. Quản lý nhà nƣớc về thi đua khen thƣởng ...............................................................17
1.2.1. Vai trò của quản lý nhà nước đối với thi đua khen thưởng .............................. 17
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ........................................ 19
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .............................................................................................. 35
CHƢƠNG 2 QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA KHEN THƢỞNG ĐỐI VỚI
CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY36
2.1. Quản lý nhà nƣớc về thi đua khen thƣởng ở nƣớc ta trong thời gian qua ...........36
2.1.1. Trước khi Luật Thi đua khen thưởng năm 2003 ra đời .................................... 36
2.1.2. Từ khi Luật Thi đua khen thưởng năm 2003 ra đời.......................................... 40
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về thi đua khen thƣởng đối với các trƣờng cao
đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội ...............................................................................42
2.2.1. Khái quát chung về các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội ........... 42
2.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng đối với các
trường cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay ........................................ 45



2.2.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng đối với các trường
cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua ..................................... 66
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .............................................................................................. 71
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ THI ĐUA KHEN THƢỞNG ĐỐI VỚI CÁC TRƢỜNG CAO ĐẲNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................... 72
3.1.Phƣơng hƣớng ..............................................................................................................72
3.1.1. Tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác
thi đua, khen thưởng ................................................................................................... 72
3.1.2. Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng phải tạo động lực cho các trường
hoàn thành nhiệm vụ ................................................................................................... 73
3.2. Giải pháp......................................................................................................................75
3.2.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở các
trường cao đẳng trên địa bàn thành phố .................................................................... 75
3.2.2. Tiếp tục xây dựng, kiện toàn lực lượng làm công tác thi đua, khen thưởng và
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.................................................................. 77
3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen
thưởng phù hợp với thực tiễn của ngành, của trường ................................................ 79
3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến quy định về thi đua khen thưởng ở
các trường cao đẳng ................................................................................................... 81
3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, cải cách thủ tục hành chính
trong việc thực hiện các quy định về công tác thi đua, khen thưởng ......................... 83
3.2.6. Nâng cao chất lượng công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả công tác thi
đua, khen thưởng, tôn vinh điển hình tiên tiến ........................................................... 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .............................................................................................. 87
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 90



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay khi đất nước giành được độc lập ngày 02/9/1945, cuộc họp đầu
tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trì đã xác định những vấn đề cấp bách cần giải quyết trong đó, nhiệm vụ “diệt
giặt dốt” được Đảng và Nhà nước đặt ở vị trí quan trọng thứ hai sau diệt giặc
đói. Bác cũng từng nói “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không,
dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai cùng các cường quốc
năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”
[21, tr.33]. Sau này, nhiều Đại hội Đảng ở nước ta cũng đều đánh giá cao vị
trí và vai trò của giáo dục và đào tạo. Nghị quyết TW 3 khóa VII năm 1993
khẳng định “… đầu tư cho giáo dục và đầu tư cho phát triển”; Nghị quyết TW
2 khóa VIII nêu rõ “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”;
Nghị quyết TW 8 khóa XI một lần nữa khẳng định “Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”. Điều này cho thấy rõ vị trí và vai
trò quan trọng của giáo dục đào tạo đối với sự nghiệp xây dựng đất nước ta và
đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế như
hiện nay.
Để đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo, thúc đẩy vai trò của giáo
dục và đào tạo trong tiến trình phát triển của đất nước, các cơ sở đào tạo trong
hệ thống giáo dục, đào tạo ở nước ta nói chung và ở Hà Nội nói riêng phải
thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ về mọi mặt như cơ sở hạ tầng, chất lượng
và số lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên, hợp tác quốc tế… trong đó không
thể không nói đến vai trò công tác thi đua, khen thưởng.
Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm. Cách đây gần 70 năm, ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ

Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc nhằm động viên, khích lệ, tập trung


2

sức mạnh toàn dân đoàn kết một lòng, phát huy truyền thống yêu nước, vượt
mọi hi sinh,gian khổ để thực hiện mục tiêu lớn của đất nước trong bối cảnh
gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là “Diệt giặc
đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”.
Lời kêu gọi đã trở thành động lực cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
ra sức thi đua, phấn đấu, sáng tạo trong học tập, sản xuất và chiến đấu để
quyết đạt được mục tiêu “Kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết chóng thành
công”. Nhiều hoạt động thi đua sản xuất, thi đua chiến đấu được phát động
trong suốt chiều dài của hai cuộc kháng chiến như “Sóng duyên hải” trong
công nghiệp, “Gió đại phong” trong nông nghiệp, “Cờ ba nhất” trong quân
đội, phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang”… Đối với
giáo dục, phong trào thi đua “Hai tốt – Dạy tốt, Học tốt” được Chủ tịch Hồ
Chí Minh phát động nhanh chóng được lan rộng đến toàn bộ ngành giáo dục
nước nhà. Thắng lợi của phong trào góp phần làm ngành giáo dục của nước ta
đi vào nề nếp, ổn định, cân đối, toàn diện, nạn mù chữ đã cơ bản được xóa bỏ.
Từ khi hòa bình được lập lại, phong trào thi đua “Hai tốt” phát triển lên
một bước mới, đã có nhiều cuộc vận động lớn trong cả nước trong ngành giáo
dục được phát động, phải kể đến cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, cuộc vận động “Hai không – Nói không
với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”… Phong trào
“Hai tốt” cũng được thay đổi về chất khi được bổ sung thêm mục tiêu “Dạy
tốt – Học tốt – Quản lý tốt” nhằm đưa ngành giáo dục vận động phù hợp với
nền kinh tế thị trường hiện nay. Thi đua, khen thưởng đã thể hiện rõ vai trò
quan trọng trong thúc đẩy phát triển của hệ thống giáo dục nước ta gồm giáo

dục cơ sở, giáo dục phổ thông và giáo dục đại học.
Những năm trở lại đây, thi đua khen thưởng tiếp tục trở thành một trong
những nhiệm vụ được Nhà nước ta chú trọng. Luật Thi đua khen thưởng năm
2003 ra đời đã đánh dấu một bước hoàn thiện về thể chế trong quản lý nhà
nước về công tác này ở Việt Nam. Đến nay, qua 2 lần sửa đổi, bổ sung, nhiều


3

nghị định, thông tư hướng dẫn đã được ban hành, công tác thi đua khen
thưởng nói chung và trong ngành giáo dục nói riêng đã có những tiến bộ khởi
sắc, trở thành một hoạt động thường niên, định kỳ của tất cả các cơ sở giáo
dục ở nước ta. Hàng năm, nhiều văn bản hướng dẫn về thi đua khen thưởng
được các đơn vị quản lý nhà nước ban hành, nhằm hướng dẫn các cơ sở giáo
dục thực hiện trên cơ sở hoàn thành và nâng cao hơn nữa chất lượng các
nhiệm vụ chính trị được giao.
Đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp, thi đua khen thưởng thường được
tập trung vào các tiêu chí như tuyển sinh, đào tạo, kiểm định chất lượng, quản
lý học sinh – sinh viên, tổ chức nhân sự, thanh tra giáo dục, hợp tác quốc tế,
nghiên cứu khoa học…trong đó tuyển sinh, đào tạo luôn là hai trong số các
tiêu chí được các cơ quan quản lý quan tâm, đặt lên vị trí hàng đầu trong đánh
giá thực hiện nhiệm vụ. Những nội dung như tỷ lệ tuyển sinh, công tác tư vấn
tuyển sinh, công khai thông tin tuyển sinh, chất lượng học tập, rèn luyện của
sinh viên, tỷ lệ tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp… là những nội dung
được các văn bản hướng dẫn thi đua khen thưởng tập trung quan tâm.
Với vị thế là trung tâm văn hóa – kinh tế - chính trị - giáo dục của cả
nước, Thủ đô Hà Nội là một trong những thành phố có số lượng trường cao
đẳng nhiều nhất trên cả nước, đóng góp một số lượng lớn nhân lực chuyên
môn ở trình độ cao đẳng và các trình độ thấp hơn cho Thủ đô và đất nước.
Tuy nhiên, chất lượng thi đua, khen thưởng ở trường cao đẳng vẫn còn nhiều

hạn chế như tuyển sinh của một số trường vẫn gặp nhiều khó khăn, không đạt
được chỉ tiêu, chất lượng đầu ra đạt chất lượng chưa cao, công tác nghiên cứu
khoa học còn yếu, quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở nhóm trường
này cũng còn nhiều vấn đề cần khắc phục như vẫn còn tình trạng hình thức
trong thi đua và khen thưởng, khen thưởng chưa kịp thời, khen thưởng đột
xuất còn ít, phát hiện và nhân rộng điển hình tiên tiến chưa được thực hiện
thường xuyên.


4

Vì những lý do như vậy, tôi chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng đối với các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau, đã có không ít đề tài nghiên cứu về
thi đua khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng, có thể nêu
một số công trình tiêu biểu như:
* Một số sách chuyên khảo, tham khảo:
- Lê Quang Thiệu, Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu
nước, NXB Thanh niên Hà Nội (2008),. Nội dung gồm 10 bài viết nêu lên tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thi đua khen thưởng như Công
việc hàng ngày là nền tảng của thi đua. Mọi việc đều thi đua; Thi đua là yêu
nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu
nước nhất; Người người thi đua, ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua, Thi
đua phải có mục đích,...
- Phạm Hùng, Những mốc son vàng trong phong trào thi đua yêu nước,
NXB Lao động Hà Nội (2011). Nội dung gồm 4 phần chính:
Phần 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người khai sáng phong trào thi đua ái
quốc;

Phần 2: Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm đẩy mạnh, nhân
rộng, phát huy hiệu quả phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn cách
mạng mới;
Phần 3: Những mốc son vàng trong phong trào thi đua yêu nước;
Phần 4: Giới thiệu một số văn bản pháp quy liên quan đến công tác thi
đua khen thưởng.
* Đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Thị Hà, Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng
trong giai đoạn hiện nay, Đề tài cấp nhà nước (2013). Mã số 02/2010. Đề tài
tập trung nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về thi đua, khen thưởng;


5

trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới
hoạt động thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng,
trực tiếp góp phần kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, khen thưởng.
Nguyễn Thanh Nga, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi
đua, khen thưởng ở trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây, Đề tài sáng kiến cơ
sở năm 2016. Đề tài đi sâu nghiên cứu về một số giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác thi đua, khen thưởng tại trường cao đẳng Cộng đồng Hà Tây.
* Một số luận văn thạc sỹ:
- “Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay” – Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
Hành chính công của Trần Thị Bằng, Học viện Hành chính Quốc gia (2009).
Luận văn đã phân tích những tiêu chí đánh giá năng lực của cán bộ, đối chiếu
với thực trạng cán bộ công chức làm thi đua khen thưởng ở nước ta, từ đó đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức ngành
Thi đua, khen thưởng.
- “Tăng cường quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng giai đoạn 2011

– 2020” – Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý Hành chính công của Lê
Xuân Khánh, Học viện Hành chính Quốc gia (2010). Từ yêu cầu của việc
phải đổi mới về chất quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng, luận văn đã
nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về công
tác này ở nước ta trong giai đoạn 2011 – 2020.
- “Tăng cường quản lý nhà nước với hoạt động thi đua, khen thưởng ở
nước ta hiện nay” – Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý Hành chính
công của Bùi Hồng Thiết, Học viện Hành chính Quốc gia (2011). Luận văn
nêu những vấn đề về quản lý nhà nước ở nước ta về thi đua, khen thưởng ở
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, qua đó đưa ra một số giải
pháp đổi mới công tác này hiện nay ở nước ta.
- “Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
trong giai đoạn hiện nay” – Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý Hành


6

chính công của Nguyễn Công Hoan, Học viện Hành chính Quốc gia (2013).
Luận văn đã đề cập đến tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng và sự cần thiết, khách quan phải hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng để đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực hiện, chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với công tác này.
- “Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng trên địa bàn thành phố Hải
Phòng” – Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công của Trần Thị Thanh
Loan, Học viện Hành chính Quốc gia (2014). Luận văn đề cập đến những vấn
đề về quản lý nhà nước đối với công tác thi đua khen thưởng tại thành phố
Hải Phòng trong giai đoạn 2009 – 2014, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
tăng cường công tác này tại địa phương.
- “Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục đào
tạo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” – Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý

công của Nghiêm Đức Dũng, Học viện Hành chính Quốc gia (2015). Luận
văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng
trong một lĩnh vực cụ thể là giáo dục và đào tạo tại tỉnh Bắc Giang, những kết
quả, hạn chế và nguyên nhân, từ đó có những giải pháp đổi mới và nâng cao
chất lượng công tác này tại Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
- “Đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng tỉnh Bắc
Giang trong giai đoạn hiện nay” – Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
công của Đào Thị Thùy Dung, Học viện Hành chính Quốc gia (2015). Luận
văn đã phân tích thực trạng của công tác thi đua khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước
trong công tác này tại địa phương.
* Các tài liệu khác
- Tập bài giảng tập huấn Nghiệp vụ Thi đua, khen thưởng – Ban Thi đua,
khen thưởng Trung ương (2014). Bài giảng nêu những điểm mới, so sánh với
những vấn đề cũ sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua,
khen thưởng năm 2013 ra đời.


7

- Kỷ yếu Đại hội Thi đua yêu nước thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 –
2015 - Ban Thi đua – Khen thưởng thành phố Hà Nội (2015). Kỷ yếu đã ghi
nhận, tuyên dương thành tích xuất sắc của Đảng bộ, nhân dân thành phố Hà
Nội trong phong trào thi đua yêu nước trong giai đoạn 5 năm từ năm 2010 –
2015. Tổng kết, đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục giai
đoạn tiếp theo.
- Kỷ yếu Kỷ niệm 65 năm Bác Hồ ra lời Kêu gọi Thi đua ái quốc – Ban
Thi đua – khen thưởng thành phố Hà Nội (2013). Kỷ yếu tập hợp các bài viết
về những gương điển hình tiên tiến của thành phố Hà Nội trong phong trào
Thi đua ái quốc theo tinh thần lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong

chiều dài 65 năm qua.
- Kỷ yếu 70 năm nền giáo dục Việt Nam (1945 – 2015) Đại hội Thi đua
yêu nước ngành giáo dục lần thứ VI – Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015). Kỷ
yếu đã ghi nhận những thành tích thi đua, khen thưởng của ngành giáo dục
trong thời gian qua, những tấm gương, điển hình tiên tiến, tiêu biểu đóng góp
lớn cho ngành giáo dục trong suốt 70 năm từ khi thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đến nay.
Nhìn chung các công trình nêu trên đã tập trung làm rõ nhiều khía cạnh
khác nhau về thi đua, khen thưởng như: tổ chức bộ máy, thực trạng đội ngũ,
cơ sở lý luận và thực tiễn về thi đua, khen thưởng, công tác sơ kết, tổng kết,
đánh giá kết quả thi đua, khen thưởng (…) Có thể khẳng định rằng, các công
trình trên là những tài liệu quý để hiểu sâu và có hệ thống hơn về thi đua,
khen thưởng, góp phần đổi mới nhận thức, khẳng định quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thi đua, khen thưởng.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu tình
hình chung của cả nước cũng như ở một số địa phương, và phần nhiều là
thuần túy về thi đua khen thưởng mà ít có những nghiên cứu từ khía cạnh
quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng đối với Hà Nội nói chung và các
trường cao đẳng trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Nghiên cứu đề tài “Quản lý


8

nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng đối với các trƣờng cao đẳng trên địa
bàn thành phố Hà Nội” là một cố gắng theo hướng như vậy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích: Thông qua nghiên cứu công tác thi đua khen thưởng và
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở các trường cao đẳng trên địa bàn
thành phố Hà Nội, xác định và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng quản lý nhà nước về công tác thi đua khen thưởng đối với các trường

cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng;
- Nghiên cứu thực tế quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng đối với
các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi
đua khen thưởng đối với các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng: Công tác quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng đối với
ngành giáo dục.
* Phạm vi không gian: Các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội
* Phạm vi thời gian: giai đoạn 2010 – 2015
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về
thi đua khen thưởng.
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp: phương pháp luận biện
chứng duy vật và các phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa và phương pháp tổng kết kinh nghiệm, so sánh.


9

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo giúp cơ quan Thi đua
khen thưởng thành phố Hà Nội, các bộ ngành liên quan và các trường cao
đẳng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng và tổ chức
thi đua, khen thưởng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận của Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng;
Chương 2. Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng đối với các trường
cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay
Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng đối với các trường cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội.


10

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ THI ĐUA KHEN THƢỞNG
1.1. Lý luận chung về thi đua khen thƣởng
1.1.1. Khái niệm thi đua
* Thi đua là gì
Về mặt lý luận, thi đua được bàn đến từ khá sớm. C.Mác – Ph.Ănghen là
những người đầu tiên nghiên cứu một cách khoa học về bản chất và nội dung
của vấn đề này. Ông đã nghiên cứu vấn đề thi đua khi đặt cạnh với cạnh tranh.
Theo C.Mác, gốc rễ của cạnh tranh là chế độ tư hữu, còn thi đua xuất hiện tất
yếu trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Nếu như cạnh tranh là cố gắng giành lấy
phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức với nhau
nhằm những lợi ích cho riêng mình thì thi đua xuất phát từ lợi ích tập thể, là
sự cộng lại sức mạnh lao động của từng cá nhân trong tập thể đó. Ông cho
rằng “Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung
và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và nâng cao
theo lối đặc biệt tăng thêm nghị lực cho riêng từng người” [10, tr.274].
Kế thừa những tư tưởng, quan điểm của C.Mác – Ph.Ănghen, Lênin cho
rằng thi đua là một hình thức hợp tác giữa người với người nhằm phát triển
năng lực của con người, phát triển tính chủ động, sáng tạo của nhân dân và
của chế độ dân chủ trong xã hội mới, được ra đời trên cơ sở mối quan hệ

tương trợ và hợp tác, đoàn kết đồng chí, giúp đỡ những người lạc hậu dần dần
tiến lên ngang với những người tiên tiến, nâng cao trình độ văn hóa và trình
độ sinh hoạt tinh thần của mọi người.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “Thi đua là việc cùng nhau đưa hết khả
năng ra làm nhằm thúc đẩy lẫn nhau, đạt được thành tích tốt nhất trong một
hoạt động nào đó” [31, tr.1599].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ
bản của Chủ nghĩa Lênin về thi đua, thi đua xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh


11

nước ta và đã nâng quan niệm về thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị,
coi thi đua yêu nước là biểu hiện của lòng yêu nước của Việt Nam. Người
khẳng định rõ “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, những người
thi đua là những người yêu nước nhất”, Người nhấn mạnh rằng “Thật ra công
việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ từ trước đến nay, ta vẫn ăn,
vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, ở, mặc sao cho sạch, cho hợp vệ sinh, khỏi
đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng, nay ta thi đua làm sao cho ruộng tốt hơn,
sản xuất nhiều hơn, mọi việc đều thi đua như vậy” [23, tr.658].
Như vậy, thi đua là một hoạt động có tổ chức dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, được thực hiện theo những nguyên tắc quy định, căn cứ, tiêu chuẩn
cụ thể để phân biệt giữa thi đua có tổ chức và thi đua tự phát.
* Nguyên tắc của thi đua
Nguyên tắc quan trọng nhất của thi đua yêu nước là tự nguyện, đoàn kết,
hợp tác cùng phát triển, phổ biến sáng kiến kinh nghiệm, nhân rộng điển hình
tiên tiến để mọi người cùng học tập, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, không có
đối kháng về lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, mọi người đều mang hết nhiệt
tình và khả năng của mình để cống hiến cho công cuộc kiến thiết đất nước.
* Mục đích của thi đua

Mục đích của thi đua là nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế,
chính trị, xã hội và đặc biệt là giáo dục và bồi dưỡng tư tưởng mới, đạo đức
mới, nhằm rèn luyện nhân cách cao đẹp cho người lao động, làm cho người
phát triển hoàn thiện hơn.
* Mục tiêu của thi đua
Mục tiêu của thi đua là nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến
khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng
tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngày nay, trong nền kinh tế Việt Nam – nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, tổ chức tốt thi đua sẽ là
giải pháp tích cực thủ tiêu sự cạnh tranh tự phát, tàn nhẫn và tiêu diệt lẫn nhau


12

do mặt tiêu cực của kinh tế thị trường gây ra; cùng với đó là khơi dậy, phát
huy các nhân tố tích cực của cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất, tính sáng tạo,
tích cực của người lao động; đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của tổ
chức, nâng cao đời sống của người lao động, cùng với đó, góp phần giáo dục,
đào tạo con người phát triển một cách toàn diện.
Thi đua là quan hệ xã hội, quan hệ thi tài, mọi người được biểu lộ nghị
lực của mình, khả năng sáng tạo của mình, nhưng không biến sự thi tài đó
thành một cuộc chạy đua cạnh tranh trong cuộc đấu tranh sinh tồn mà nó làm
mọi người cùng nhau học tập lẫn nhau, phấn đấu và đoàn kết trong hoạt động
chung để đạt đến mục đích và lợi ích chung.
Khi đó, thi đua trở thành đòn bẩy của tiến bộ kinh tế, xã hội, đặc biệt
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, trước thời
cơ và thách thức mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, thi đua
được xem là nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy động lực tinh thần và vật
chất tạo nên sức mạnh nội sinh, lôi cuốn mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức tạo

thành phong trào quần chúng, phát huy truyền thống yêu nước, năng động,
sáng tạo, vươn lên lập thành tích trên mọi lĩnh vực góp phần vào sự nghiệp
đổi mới, đưa nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Khái niệm khen thưởng
* Khen thưởng là gì
Ở Việt Nam, khen thưởng có từ các triều đại phong kiến từ xa xưa khi
các bậc vua chúa sử dụng đó như một trong những công cụ trong quản lý và
cai trị đất nước có hiệu quả. “Khen” là nhận xét, đánh giá tốt về một con
người nào đó, một tổ chức nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý hài lòng; còn
“Thưởng” là tặng tiền hoặc hiện vật để tỏ ý khen ngợi và khuyến khích cá
nhân hay tổ chức đã có công hay việc làm xuất sắc.
Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên đã kể đến nhiều hình thức khen
thưởng trong thời phong kiến như khen thưởng người có công trong đánh giặc,
người có công trong việc đi sứ, người phò tá có công lao tài đức, người tiến


13

cử người hiền tài, người hiến kế giúp nhà vua trị nước yên dân, người có lời
tâu đúng, người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người quyền quý
cấp trên, người có công làm thủy lợi, người có tài văn chương, người cao
tuổi… [13, tr.226]
* Đối tượng khen thưởng
Đối tượng khen thưởng rất rộng rãi, từ người già đến trẻ em, nam giới
đến nữ giới không phân biệt dân tộc, cứ ai có thành tích đều được khen
thưởng.
* Hình thức khen thưởng
Hình thức khen thưởng cũng rất đa dạng như được ban họ vua, được ghi
công vào sử sách, được dựng bia ghi công, được phong chức, được thưởng
vàng bạc, được cấp ruộng đất, truy phong, cấp ruộng cho con cháu thờ

cúng…
Lịch sử đã ghi nhận những hình thức khen thưởng đã được thực hiện
dưới triều đại phong kiến như trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần
thứ II (1284 – 1285), Vua Trần đã tôn vinh người anh hùng nhỏ tuổi Trần
Quốc Toản (11 tuổi) tử trận “Vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia
phong tước vương…”; thưởng cho Lê Kha Thảm 20 tấm lụa, 10 con ngựa vì
đã đóng góp ba con voi, nhiều vòng vàng, vòng bạc…; khen Mạc Đĩnh Chi có
tài văn chương làm quan sứ. [13, tr.24]
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định “Thi đua là gieo trồng, khen
thưởng là thu hoạch”. Vì vậy, lúc sinh thời, Người rất quan tâm đến việc khen
thưởng. Người nêu rõ “Thưởng phạt phải nghiêm minh, có công thì thưởng,
có lỗi thì phạt; có công mới có huân, phải có công huân mới được thưởng
huân chương, thưởng cái nào đích đáng cái ấy… khen thưởng phải có tác
dụng động viên, giáo dục, nêu gương”. [22, tr.20]
Chính vì vậy, ngay khi giành được Chính quyền năm 1945, ngày
26/01/1946, Người đã ký ban hành Quốc lệnh 10 điều thưởng của Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, gồm:


14

“1. Nhà nào có 3 con tòng quân sẽ được thưởng;
2. Ai lập được quân công sẽ được thưởng;
3. Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng;
4. Ai ra trận can đảm phi thường sẽ được thưởng;
5. Ai làm việc một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng;
6. Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc, được dân chúng mến phục
sẽ được thưởng;
7. Ai bỏ tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường sẽ được thưởng;
8. Ai bắt được những kẻ phản quốc sẽ được thưởng;

9. Ai liều mình về công việc sẽ được thưởng;
10. Ai cứu được người bị nạn sẽ được thưởng”. [22, tr.19]
Đây được xem như văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng xây dựng
ngành khen thưởng của nước ta, có tác dụng động viên, khuyến khích mọi
người làm việc tốt, ích nước, lợi nhà và cảnh báo, răn đe những ai định làm
việc xấu hại dân, hại nước. Người nêu trong Quốc lệnh “Trong một nước,
thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới
thắng lợi, kiến quốc mới thành công”.
Luật Thi đua, khen thưởng lần đầu tiên ra đời năm 2003, qua 2 lần sửa
đổi, bổ sung năm 2005 và gần đây nhất là năm 2013 đã nêu “Khen thưởng là
việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích
vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. [25, tr.1].
Như vậy, mục tiêu của khen thưởng là để ghi nhận, tôn vinh, biểu dương
những thành tích, và nhân điển hình tiên tiến về những tập thể và cá nhân
trong lao động sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác, góp phần giáo dục,
động viên, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước và tạo động lực lôi
cuốn quần chúng nhân dân tham gia vào phong trào hành động cách mạng,
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an
ninh quốc phòng. Qua khen thưởng, sẽ khơi dậy óc sáng tạo, tìm tòi, phát huy


15

trí tuệ, năng lực, tính tích cực, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, đẩy lùi
cái ác và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
* Nguyên tắc khen thưởng:
- Chính xác, công khai, công bằng, kịp thời;
- Một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng;
không tặng thưởng nhiều hình thức cho một thành tích đạt được;

- Bảo đảm thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng;
- Kết hợp chặt chẽ động viên tinh thần với khuyến khích bằng lợi ích vật
chất;
- Bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới trong thi đua, khen thưởng.
* Các chuẩn mực khen thưởng:
- Xác định tiêu chí, tiêu chuẩn khen thưởng;
- Đánh giá kết quả đạt được với mục tiêu, kế hoạch đề ra;
- Đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc;
- Thể hiện tính tiêu biểu, tiên tiến…
Trong giai đoạn hiện nay, khen thưởng có vai trò quan trọng tạo động
lực thúc đẩy xã hội phát triển, là biện pháp của người quản lý thực hiện nhiệm
vụ trọng tâm chính trị của cơ quan, đơn vị mình nhằm khuyến khích, động
viên mọi tầng lớp trong xã hội tích cực hăng hái lập thành tích trong lao động
sản xuất và công tác.
Khen đi đôi với thưởng thỏa đáng cũng là yêu cầu không thể thiếu trong
tình hình hiện nay, nó có tác dụng động viên những cá nhân, tập thể có thành
tích xuất sắc, đóng góp cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ quan hoặc đơn vị. Hình thức khen thưởng bậc cao hơn thì phải
được thưởng bằng vật chất cao hơn, không thể cào bằng các hình thức như
nhau, tuy nhiên cũng không quá nhấn mạnh yếu tố vật chất trong khen thưởng.
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng
lẫn nhau. Mối quan hệ đó được biểu hiện:


16

Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân, tập thể thực hiện và hoàn thành
nhiệm vụ, trên cơ sở đó để thực hiện việc khen thưởng. Thực tế cho thấy, ở
đâu phong trào thi đua được chú trọng đẩy mạnh thì ở đó xã hội phát triển,

quần chúng phấn khởi và khen thưởng chuẩn xác, và ngược lại, ở đâu phong
trào thi đua yếu, hoặc không có phong trào thi đua thì xã hội trì trệ, công tác
khen thưởng không chuẩn xác, thậm chí có biểu hiện tiêu cực.
Khen thưởng là đánh giá kết quả thi đua, là nhân tố thúc đẩy phong trào
thi đua phát triển. Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời, có tác dụng
động viên, giáo dục, nêu gương những tấm gương người tốt, việc tốt, điển
hình tiên tiến từ đó nhân rộng cái tốt, lấn át cái xấu, làm cho xã hội ngày càng
tiến bộ. Thực tế cho thấy, ở đâu khen thưởng thực hiện đúng nguyên tắc
khách quan, công minh thì ở đó quần chúng phấn khởi, và phong trào thi đua
sẽ ngày càng được làm mới và tốt hơn, và ngược lại.
Khen thưởng phải gắn với phong trào thi đua mà ở đó, phong trào thi đua
gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước, của từng địa phương, đơn
vị. Có như vậy, khen thưởng mới chính xác, và tạo điều kiện hơn nữa cho các
đợt thi đua lần sau đạt kết quả cao hơn.
Từ cả hai phương diện đó cho thấy, thi đua và khen thưởng luôn bổ sung
cho nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tinh
thần sáng tạo, nỗ lực vượt mọi khó khăn, vươn lên hoàn thành các mục tiêu
kinh tế - xã hội đề ra, từ kết quả tổng kết phong trào thi đua mà lựa chọn tập
thể và cá nhân xứng đáng để khen thưởng. Khen thưởng chính là đánh giá kết
quả thi đua, có đánh giá chính xác, kịp thời thì phong trào thi đua mới có điều
kiện phát triển sâu rộng. Vì vậy, hình ảnh “gieo trồng” và “thu hoạch” trong
thi đua, khen thưởng chính để nói lên rõ mối quan hệ biện chứng của hai nội
dung này.
Bác coi thi đua là đoàn kết, cải tạo con người, thi đua phải toàn dân, toàn
diện, thường xuyên, đặc biệt thi đua phải gắn với khen thưởng một cách thích
đáng, khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương. Như vậy,
phải tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng mới chính xác,


17


mới có tác dụng giáo dục, nêu gương, do vậy, không coi nhẹ khen thưởng
trong thi đua, ngược lại, không có thi đua thì không có căn cứ đánh giá thành
tích để khen thưởng, thiếu chính xác và ít tác dụng.
Việc thực hiện tốt phong trào thi đua nghĩa là tuân thủ đúng quy trình,
các bước tiến hành như: xây dựng kế hoạch, chuẩn bị nội dung, thang, bảng
điểm, phát động, tuyên truyền, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và
tiến hành khen thưởng. Như vậy, đối tượng thi đua sẽ nắm được mục đích,
yêu cầu, ý nghĩa của các phong trào thi đua để từ đó định hướng cho hành
động cụ thể của mình và các cá nhân, tập thể được khen thưởng phải thực sự
là hạt nhân nòng cốt, điển hình trong phong trào thi đua.
Việc khen thưởng chính là thể hiện sự ghi công của Đảng và Nhà nước
đối với những thành tích mà cá nhân, tập thể đã đạt được, người được khen
thưởng cảm thấy được trân trọng, vinh dự, từ đó cố gắng phát huy tính tích
cực trong các công việc được giao và người chưa được khen thưởng cũng từ
đó mà thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình phải phấn đấu để được ghi
nhận trong thời gian tới, từ đó cá nhân và tập thể sẽ có những định hướng và
hành động đúng để đạt được mục tiêu đề ra.
1.2. Quản lý nhà nƣớc về thi đua khen thƣởng
1.2.1. Vai trò của quản lý nhà nước đối với thi đua khen thưởng
* Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp, tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước.
Hay nói cách khác, quản lý nhà nước là sự tác động mang tính tổ chức và
điều chỉnh của chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới
các đối tượng quản lý nhằm mục đích chấn chỉnh, duy trì trật tự xã hội trên cơ
sở quyền lực nhà nước.
* Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng là sự tác động, điều chỉnh
thường xuyên của nhà nước bằng quyền lực nhà nước đối với hoạt động thi



18

đua, khen thưởng của một quốc gia, để các hoạt động đó diễn ra theo quy định
của pháp luật, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quản lý nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với thi đua khen thưởng,
vì chỉ khi thực hiện tốt quản lý nhà nước thì thi đua, khen thưởng mới phát
huy hiệu quả nội hàm của nó.
Đó là vì:
Thi đua, khen thưởng là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn, tác động đến
số lượng lớn quần chúng nhân dân, huy động nhiều tổ chức trong hệ thống
chính trị xã hội tham gia các phong trào thi đua từ đó phát huy nội lực mỗi
người, mỗi đơn vị, mỗi địa phương để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thi đua, khen thưởng là hoạt động rộng khắp ở hầu khắp các lĩnh vực
của đời sống xã hội từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, văn hóa, thẩm mỹ,
thể thao…; được triển khai ở tất cả các ngành, các cấp; phong phú, đa dạng về
hình thức, biện pháp thi đua.
Vì vậy, có quản lý nhà nước thì công tác thi đua, khen thưởng mới đạt
được sự thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp để trở thành động lực phát triển
chung cho toàn xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước,trước thời cơ và thách thức mới của tình hình quốc tế, trong nước có
nhiều biến đổi tác động như hiện nay, thi đua, khen thưởng vẫn thực hiện
nhiệm vụ quan trọng của mình là huy động sức mạnh tinh thần, vật chất tạo
nên sức mạnh nội sinh của xã hội, lôi cuốn mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức
tạo thành phong trào quần chúng, tích cực vươn lên lập thành tích xuất sắc
trên các lĩnh vực góp phần vào thành công của sự nghiệp chung của đất nước,
đưa nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ lý luận trên, đòi hỏi nhà nước cần nhận thức một cách rõ ràng vị trí
và tầm quan trọng cùng sự quản lý nhà nước đối với hoạt động thi đua, khen

thưởng, có như vậy, công tác này mới phát huy và đóng góp vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


19

1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Xét từ góc độ thi đua, khen thưởng là một lĩnh vực trong đời sống kinh
tế - xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa, đô thị… thì quản lý nhà nước về thi
đua, khen thưởng cũng sẽ tuân theo cũng nội dung cơ bản chung của quản lý
nhà nước, đó là:
- Quản lý thi đua, khen thưởng bằng hệ thống thể chế;
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng;
- Nguồn lực để quản lý thi đua, khen thưởng, bao gồm:
+ Nguồn lực con người làm công tác thi đua, khen thưởng;
+ Nguồn lực tài chính cho thi đua, khen thưởng;
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện thi đua, khen thưởng.
Ngoài ra, với những đặc thù của thi đua, khen thưởng, quản lý nhà nước
đối với thi đua khen thưởng cũng có những nội dung riêng như tuyên truyền,
phổ biến, hướng dẫn tổ chức công tác thi đua, khen thưởng; công tác sơ kết,
tổng kết, đánh giá kết quả đạt được của công tác thi đua, khen thưởng; sự hợp
tác quốc tế trong thi đua khen thưởng;.
1.2.3.1. Quy định pháp lý trong quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Thể chế được hiểu theo nghĩa hẹp là hệ thống các quy định do Nhà nước
xác lập trong hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước, được Nhà nước sử
dụng để điều chỉnh và tạo ra hành vi và mối quan hệ giữa Nhà nước với công
dân và các tổ chức nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội. Đó là toàn bộ văn
bản pháp luật gồm: Hiến pháp, Bộ luật, luật, văn bản dưới luật tạo nên khuôn
khổ pháp luật để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
toàn bộ xã hội, cá nhân, tổ chức.

Như vậy, có thể thấy văn bản pháp luật là công cụ quan trọng nhất để
Nhà nước quản lý xã hội nói chung và quản lý thi đua, khen thưởng nói riêng.
Đối với công tác thi đua, khen thưởng, các văn bản đó là sự thể hiện, cụ thể
hóa quan điểm, đường lối của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng, đồng
thời là sự tập trung nguyện vọng của quần chúng nhân dân trong lao động, sản


20

xuất, công tác, học tập, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Văn bản pháp luật tạo nên hành lang pháp lý cho các tổ chức, tầng lớp nhân
dân và các cá nhân phát huy lòng sáng tạo, nhiệt tình, hăng hái tham gia thi
đua và được nhận những kết quả, phần thưởng xứng đáng; hành lang đó tạo
sự thống nhất về công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp trong cả
nước.
Ngay từ khi nước ta giành được độc lập, để huy động sức mạnh toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân tham gia kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban
hành Quốc lệnh 10 điều thưởng với lời mở đầu “Trong một nước, thưởng phạt
phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến
quốc mới thành công [22, tr.163]”. Đây được xem là văn bản pháp lý đầu tiên
về điều kiện bình xét khen thưởng, đặt nền móng hình thành chính sách khen
thưởng ở nước ta.
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1998, nước ta đã ban hành tổng
cộng 1 quốc lệnh, 15 sắc lệnh, 6 quyết nghị, 5 pháp lệnh và nhiều nghị định,
thông tư, chỉ thị để tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Theo đó,
công tác thi đua, khen thưởng đã bám sát được chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, kịp thời đề ra những phương pháp tổ chức thực hiện phù
hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, đã khơi dậy và phát huy cao
độ lòng yêu nước của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân góp phần bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, thống nhất cả nước đi lên chủ

nghĩa xã hội.
Từ năm 1998 đến nay, khi Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 03/6/1998 của Bộ
Chính trị về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng ra đời, Luật Thi đua, khen
thưởng đầu tiên của Việt Nam đã được Quốc hội khóa 11 thông qua năm 2003,
đánh dấu một bước hoàn thiện về thể chế của Việt Nam đối với công tác này.
Từ đó đến nay, Luật đã được sửa đổi bổ sung 2 lần và mới đây nhất, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, thưởng năm 2013 đã được thông
qua, và từng bước đi vào cuộc sống với nhiều nghị định, thông tư mới hướng
dẫn thực hiện.


×