Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Quan hệ quốc tế: Châu Âu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ thập kỷ đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.69 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
--------------

LÊ LINH LAN

CHÂU ÂU TRONG CHIẾN LƢỢC TOÀN CẦU CỦA MỸ
THẬP KỶ ĐẦU THẾ KỶ XXI

Chuyên ngành : Quan hê ̣ quố c tế
Mã số: 62 31 02 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ

Hà Nội - 2015


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Ngoại giao

Người hướng dẫn khoa học:
1- GS. Vũ Dương Ninh
2- PGS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Phương Bình
Phản biện 2: PGS.TS. Võ Kim Cương
Phản biện 3: PGS.TS. Phan Văn Rân
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại………………………………………………………………
………………………………………………………………………
Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm 2014

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Học viện Ngoại giao


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Châu Âu là một trong những trung tâm của nền chính trị quốc tế
trong nhiều thế kỷ, chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược toàn cầu
của Mỹ cả trong và từ sau chiến tranh lạnh cho đến nay. Thời kỳ sau
chiến tranh lạnh, đặc biệt từ đầu thế kỷ XXI đến nay, thế giới trải qua
những chuyển biến sâu sắc. Đồng thời, nước Mỹ, siêu cường duy nhất
còn lại, đã có những điều chỉnh quan trọng trong chiến lược đối ngoại
nói chung và chiến lược châu Âu nói riêng. Trong bối cảnh Mỹ đang
chuyển dịch trọng tâm chiến lược sang khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, việc đánh giá vai trò và vị trí của châu Âu hiện nay trong chiến
lược toàn cầu của Mỹ càng trở nên có ý nghĩa quan trọng.
Đối với Việt Nam, quan hệ giữa các nước lớn luôn là nhân tố quan
trọng hàng đầu xác định môi trường chiến lược đối với các nước vừa và

nhỏ như Việt Nam. Trong bối cảnh thế giới vẫn đang trong quá trình
quá độ từ một trật tự cũ sang một trật tự thế giới mới đa cực, hợp tác và
đấu tranh luôn đan xen, việc nắm bắt những chuyển động trong quan hệ
giữa các trung tâm quyền lực lớn trên thế giới sẽ giúp Việt Nam chủ
động trong việc triển khai quan hệ với các nước lớn, tranh thủ mặt tích
cực từ quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các nước lớn, đồng thời tránh
rơi vào thế kẹt hoặc bị các nước lớn thỏa hiệp lợi ích. Mỹ và châu Âu là
hai đối tác hàng đầu của Việt Nam, có vị trí hết sức quan trọng trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và do đó, nắm bắt
được chuyển động trong mối quan hệ này sẽ giúp triển khai hiệu quả
hơn quan hệ với Mỹ và châu Âu. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh quyết
định chọn "Châu Âu trong chiến lƣợc toàn cầu của Mỹ thập kỷ đầu
thế kỷ XXI" là chủ đề nghiên cứu của Luận án.
2. Tinh hình nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới và đặc biệt ở Mỹ, có rất nhiều công trình nghiên cứu về


2
chiến lược đối ngoại của Mỹ trong các thời kỳ lịch sử, trong đó bao
gồm cả chiến lược của Mỹ đối với châu Âu, tầm quan trọng của châu
Âu trong chiến lược lớn của Mỹ và quan hệ Mỹ với châu Âu. Về chiến
lược đối ngoại Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, có những cuốn sách
tiêu biểu như "Diplomacy" của Henry Kissinger do Nhà xuất bản Simon
& Schuster phát hành năm 1994; “Does America Need a Foreign
Policy? Toward a Diplomacy for the 21 century” của Henry Kissinger
do Nhà xuất bản Simon & Schuster phát hành năm 2002; "Grand
chessboard" của Zbigniew Brzezinski ; “Chính sách đối ngoại Hoa kỳ:
Động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ 21” do Bruce W. Jentleson chủ
biên xuất bản năm 2000. Đây đều là những cuốn sách quan trọng, đánh
giá một cách hệ thống chính sách đối ngoại và phản ánh rõ nét tư duy

của các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ. Đặc biệt trong cuốn
sách “ Does America Need a Foreign Policy? Toward a Diplomacy for
the 21 century”của Kissinger, nguyên cố vấn an ninh quốc gia và Bộ
trưởng Ngoại giao dưới chính quyền Nixon và Ford, đã phác họa một
bức tranh đầy tính hiện thực về những cơ hội và thách thức đối với nước
Mỹ trong một thế giới với những thay đổi hết sức sâu sắc do tác động
hai mặt của toàn cầu hóa. Tư tưởng hiện thực, cân bằng chiến lược của
Kissinger cũng thể hiện trong chiến lược củng cố liên minh với các
đồng minh châu Âu, coi NATO là trụ cột trong chiến lược an ninh của
Mỹ ở châu Âu, EU là đối tác chính trị của Mỹ thay vì là đối thủ cạnh
tranh về kinh tế.
Ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu có giá trị về chiến lược
đối ngoại của Mỹ như Nguyễn Thái Yên Hương, Tạ Minh Tuấn (đồng
chủ biên) (2011), Các vấn đề nghiên cứu về Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội; Nguyễn Thái Yên Hương (chủ biên) (2008), Hoa kỳ Văn
hóa và Chính sách đối ngoại, Nxb Thế giới, Hà Nội; Nguyễn Thiết Sơn
(2002) Mỹ điều chỉnh chính sách kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
Lê Bá Thuyên ( 1997) Hoa Kỳ cam kết và mở rộng, Nxb Khoa học Xã


3
hội, Hà Nội. Trong cuốn sách, TS Lê Bá Thuyên đã phân tích những nội
dung chính trong ba trụ cột chủ yếu trong chiến lược an ninh quốc gia
“Can dự và mở rộng” là : an ninh kinh tế, an ninh quân sự và thúc đẩy
dân chủ, nhân quyền. Ngoài ra, cũng có một số đề tài nghiên cứu chưa
được xuất bản của Vụ Châu Mỹ, Bộ Ngoại giao trong đó phải kể đến
đề tài trọng điểm cấp Bộ (2004) Điều chỉnh chiến lược an ninh quốc gia
của Mỹ sau sự kiện 11/9/2001 và tác động tới quan hệ quốc tế trong
thập kỷ đầu thế kỷ XXI". Đây là công trình nghiên cứu công phu, đánh
giá những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ và đề xuất kiến

nghị chính sách của Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu, có hệ thống nào về chủ đề Châu Âu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ
thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này sẽ là một đóng
góp thiết thực, kịp thời vào công tác nghiên cứu quan hệ quốc tế nói chung,
về Mỹ và châu Âu nói riêng trong bối cảnh tình hình thế giới và quan hệ
các nước lớn chuyển biến nhanh chóng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của Luận án là nhằm định vị Châu Âu trong chiến lược toàn cầu
của Mỹ dưới chính quyền Bush II và Obama, bản chất và nội dung của chiến
lược của Mỹ đối với châu Âu. Với mục tiêu như vậy, luận án nhằm thực hiện
các nhiệm vụ sau: (i) làm rõ những nhân tố chủ yếu chi phối hoạch định chiến
lược đối ngoại của Mỹ; (ii) đánh giá điều chỉnh chiến lược của Mỹ và chuyển
biến ở châu Âu có tác động như thế nào đối với vị trí của châu Âu trong chiến
lược toàn cầu của Mỹ và quan hệ Mỹ-châu Âu; (iii) phân tích chính sách của
Mỹ đối với châu Âu và tác động đối với quan hệ các nước lớn ở châu Âu và hệ
lụy đối với tập hợp lực lượng trên thế giới.

4. Phạm vi nghiên cứu.
Luận án đặt các giới hạn sau: (i) về khung thời gian, phạm vi nghiên
cứu của Luận án sẽ chủ yếu tập trung vào thập kỷ đầu thế kỷ XXI, giai
đoạn hết sức quan trọng, có tính chất định hình cho quan hệ quốc tế


4
trong những thập niên đầu thế kỷ XXI; (ii) về phạm vi địa lý, châu Âu ở
trong khuôn khổ đề tài được giới hạn trong 28 nước quốc gia thành viên
của EU hiện nay. Do Liên bang Nga là một chủ thể lớn ở châu Âu
nhưng là một cường quốc Á-Âu và không bao gồm trong khái niệm
châu Âu của Mỹ nên không nằm trong phạm vi chủ thể châu Âu của đề

tài mà được phân tích từ góc độ nhân tố tác động; (iii) về lĩnh vực
nghiên cứu, do chiến lược châu Âu của Mỹ là một cấu trúc phức tạp
gồm nhiều thành phần, để tránh dàn trải, Luận án tập trung phân tích
qua hai kênh chủ yếu là EU (chính trị, kinh tế) và NATO (an ninh, quân
sự).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, nghiên cứu sinh sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm cơ sở lý luận và phương pháp luận chủ yếu trong quá trình nghiên
cứu đề tài. Do ảnh hưởng chủ nghĩa hiện thực và tự do đối với việc
hoạch định chiến lược đối ngoại của Mỹ và châu Âu, nghiên cứu sinh
cũng phân tích các bài phát biểu chính sách, các tư liệu gốc từ góc độ
tiếp cận các trường phái lý luận chủ yếu trong quan hệ quốc tế.
6. Đóng góp của Luận án.
Luận án sẽ góp phần làm rõ điều chỉnh chiến lược của Mỹ trong thập
kỷ đầu thế kỷ XXI, vị trí của châu Âu và quan hệ liên minh đặc biệt
giữa hai chủ thể lớn trong chính trị quốc tế.Thông qua việc phân tích
một cách hệ thống sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ và vị trí
của châu Âu trong chiến lược đối ngoại của Mỹ thập kỷ đầu thế kỷ
XXI, luận án sẽ cung cấp thêm cơ sở khoa học đối với việc đánh giá sự
chuyển dịch trọng tâm chiến lược mới của Mỹ, chiều hướng chiến lược
của Mỹ và tác động đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói
chung và Việt Nam nói riêng. Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho cán bộ nghiên cứu, đối ngoại và sinh viên
ngành quan hệ và chính trị quốc tế.


5
7. Bố cục của Luận án
Chƣơng 1: Cơ sở hoạch định chiến lƣợc của Mỹ và vai trò của

Châu Âu. Chương 1 phân tích những khái niệm cơ bản, tạo cơ sở,
khuôn khổ lý luận để phân tích chiến lược đối ngoại Mỹ; đánh giá khái
quát vai trò của châu Âu trong chiến lược của Mỹ thời kỳ chiến tranh
lạnh, sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ trong những năm đầu sau khi
Chiến tranh lạnh kết thúc và những nhân tố chủ yếu chi phối việc hoạch
định chiến lược của Mỹ nói chung và châu Âu nói riêng.
Chƣơng 2: Định vị Châu Âu trong chiến lƣợc toàn cầu của Mỹ
thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Chương 2 tập trung phân tích một cách hệ
thống nội dung chiến lược toàn cầu của các chính quyền Mỹ trong thập
kỷ đầu thế kỷ XXI, xác định vị trí và tầm quan trọng của châu Âu trong
tổng thể chiến lược thông qua việc phân tích nội dung và triển khai
chiến lược châu Âu của Mỹ.
Chƣơng 3: Tác động của việc triển khai chiến lƣợc châu Âu của Mỹ
và triển vọng. Chương 3 đánh giá tác động của việc triển khai chiến lược
châu Âu của Mỹ và triển vọng, đặc biệt là chiến lược Đông tiến, quá trình
mở rộng và điều chỉnh chiến lược của NATO, đối với quan hệ Mỹ-châu
Âu, quan hệ Nga- NATO. Chương 3 cũng phân tích tác động của triển khai
chiến lược của Mỹ ở châu Âu thông qua phân tích tình huống khủng hoảng
Ukraine 2014.


6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƢỢC CỦA MỸ VÀ VAI TRÒ
CỦA CHÂU ÂU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm “Chiến lược an ninh quốc gia” và các quan niệm về
an ninh quốc gia
Các văn bản chiến lược an ninh quốc gia của các chính quyền Mỹ là tài
liệu và căn cứ cơ bản nhất để đánh giá và phân tích chiến lược đối ngoại

của Mỹ. Báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia nêu bật lợi ích của Mỹ trên
toàn thế giới, những mục đích và mục tiêu sống còn đối với an ninh quốc
gia của Mỹ cũng như chính sách đối ngoại và quốc phòng và phương cách
sử dụng sức mạnh, kinh tế, chính trị cũng như quân sự của nước Mỹ để bảo
vệ và thúc đẩy lợi ích của Mỹ. Việc xây dựng chiến lược an ninh quốc gia
của mỗi chính quyền Mỹ đều xuất phát từ nhận thức và đánh giá môi
trường quốc tế, thế và lực của nước Mỹ, những cơ hội và thách thức đối với
những mục tiêu và lợi ích quốc gia cơ bản của nước Mỹ và quan niệm về
an ninh qua mỗi thời kỳ.
1.1.2. Các trường phái lý luận quan hệ quốc tế chủ yếu chi phối
hoạch định chiến lược đối ngoại Mỹ
Hai trường phái lý luận quan hệ quốc tế chủ yếu có tác động chi phối
hoạch định chiến lược đối ngoại Mỹ là chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự
do. Thuyết hiện thực có ảnh hưởng lớn trong giai đoạn Chiến tranh lạnh,
nó đưa ra giải thích đơn giản nhưng có sức thuyết phục về chiến tranh,
liên minh và các hiện tượng khác trong quan hệ quốc tế, và đặc biệt
nhấn mạnh tính cạnh tranh, phản ánh đặc tính chủ đạo của xung đột Mỹ
- Xô. Trên thực tế, sự lựa chọn chính sách của các quốc gia ngày nay,
đặc biệt là Mỹ, gần với quan điểm chủ nghĩa hiện thực, lấy sức mạnh
làm trung tâm và lợi ích quốc gia là cơ sở để giải thích chính sách của
một quốc gia. Dưới tác động của toàn cầu hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau,
ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do đối với khái niệm sức mạnh quốc gia


7
ngày càng lớn. Một trong những quan điểm của chủ nghĩa tự do về sức
mạnh quốc gia được đề cập đến nhiều từ sau chiến tranh lạnh là sức
mạnh mềm, bao gồm những yếu tố như ảnh hưởng, sức thu hút của thể
chế chính trị, mô hình phát triển, ảnh hưởng về văn hoá v.v...Sức mạnh
thông minh bao gồm cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm là khái niệm

có ảnh hưởng lớn đến chính sách đối ngoại của chính quyền Obama..
1.1.3. Vị trí của châu Âu trong tính toán chiến lược của Mỹ qua lăng
kính các trường phái lý luận quan hệ quốc tế
Châu Âu là một thành tố trong chiến lược đối ngoại toàn cầu của
Mỹ. Vì vậy, có thể nói chính sách của Mỹ đối với châu Âu là sự kết hợp
giữa quan điểm của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do. Từ góc độ
hiện thực, Mỹ có lợi ích chiến lược trong việc duy trì cân bằng quyền
lực mới, một trật tự khu vực ở châu Âu do Washington chi phối, kiềm
chế các nước đối thủ tiềm tàng, ngăn không cho bất cứ cường quốc nào
nổi lên, thách thức vai trò và lợi ích của Mỹ. Từ góc độ tự do, Mỹ có lợi
ích kinh tế thiết yếu trong việc duy trì không gian kinh tế mở toàn cầu,
thúc đẩy quan hệ kinh tế với châu Âu, trung tâm kinh tế hàng đầu trên
thế giới nhằm thực hiện ưu tiên hàng đầu của Mỹ là chấn hưng nền kinh
tế, thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ. Sự phụ thuộc lẫn nhau rất
chặt chẽ giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới tất yếu cũng là cơ sở
hoạch định chính sách của Mỹ đối với châu Âu. Trên cơ sở tư duy của
chủ nghĩa tự do, việc duy trì và phổ biến những giá trị của phương Tây
về dân chủ, nhân quyền, kinh tế thị trường, xã hội dân sự ở châu Âu là
thành tố quan trọng trong chiến lược châu Âu của Mỹ, đặc biệt thông
qua việc mở rộng EU và NATO.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Châu Âu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ chiến tranh
lạnh
Do tầm quan trọng của Châu Âu đối với cả Liên Xô và Mỹ, trong suốt
thời kỳ chiến tranh lạnh, Châu Âu luôn là địa bàn tranh giành ảnh hưởng


8
của hai bên. Đường phân tuyến hai cực và đối đầu Mỹ-Xô chủ yếu diễn
ra ở châu Âu và chính vì vậy, châu Âu là trọng tâm chiến lược toàn cầu

của Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh. Châu Âu có vai trò quan trọng hàng đầu
cả về an ninh quân sự, chính trị và kinh tế trong chiến lược toàn cầu của
Mỹ. Châu Âu trở thành những đồng minh thân cận nhất của Mỹ trong
khuôn khổ NATO, tổ chức an ninh quân sự lớn nhất thế giới và là một
công cụ hữu hiệu giúp Mỹ theo đuổi những mục tiêu chiến lược ở châu
Âu - đó là, mở rộng quyền lực sang châu Âu, nắm giữ và khống chế được
Tây Âu trong vòng kiểm soát và dưới sự lãnh đạo của Mỹ, không để xu
hướng độc lập đi quá xa, ngăn chặn “nguy cơ cộng sản” lan ra toàn châu
Âu.
1.2.2. Điều chỉnh chiến lược của Mỹ thập niên sau chiến tranh lạnh
(1991-2000)
Sau Chiến tranh Lạnh, nước Mỹ đứng trước những cơ hội và thách
thức đan xen. Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất với cơ hội khuếch
trương mô hình kinh tế thị trường và dân chủ nhân quyền theo kiểu
phương Tây. Tổng thống Mỹ B.Clinton theo đuổi “Chiến lược Can dự
và Mở rộng”, chiến lược an ninh quốc gia chính thức đầu tiên của Mỹ
kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc. Ba trụ cột chủ yếu trong chiến lược
“Can dự và mở rộng” là: an ninh kinh tế, an ninh quân sự và thúc đẩy
dân chủ, nhân quyền. Ba trụ cột này gắn bó hữu cơ, có tác động thúc
đẩy lẫn nhau và phục vụ mục tiêu bao trùm của Mỹ là thiết lập vai trò
lãnh đạo thế giới, nắm bắt thời cơ chiến lược khi Mỹ là siêu cường duy
nhất còn lại, những giá trị cơ bản của Mỹ; dân chủ và kinh tế thị trường;
đã được truyền bá ở nhiều nơi trên thế giới.
1.2.3. Những nhân tố chủ yếu chi phối chiến lược châu Âu của Mỹ
thập kỷ đầu thế kỷ XXI
Các xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế: Chiến lược của Mỹ trong
những năm đầu thế kỷ 21 chịu sự chi phối mạnh mẽ của bốn xu thế chủ
đạo trong quan hệ quốc tế, bao gồm xu thế hoà bình, hợp tác và phát



9
triển; xu thế toàn cầu hoá; xu thế đa cực hóa và sự gia tăng của các
thách thức an ninh phi truyền thống.
Thế và lực của Mỹ trong tương quan với các nước lớn trên thế giới:
là nhân tố cơ bản chi phối điều chỉnh chiến lược của Mỹ. Trong hai đến
ba thập kỷ tới, Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, không có đối thủ cạnh
tranh toàn cầu cân xứng. Sức mạnh quốc gia tổng hợp của Mỹ vẫn
chiếm vị trí hàng đầu, kể cả về sức mạnh cứng và sức mạnh mềm. Tuy
nhiên, Mỹ không thể thực hiện chính sách bá chủ thế giới, cũng không
thể một mình giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Lợi ích quốc gia của Mỹ: Một trong những cơ sở xây dựng chiến
lược là lợi ích quốc gia của Mỹ trước mắt cũng như lâu dài: lợi ích kinh
tế, chính trị và an ninh. Lợi ích lâu dài và xuyên suốt của Mỹ vẫn là
“lãnh đạo thế giới”, giữ vững vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ, phổ
biến giá trị Mỹ trên toàn thế giới. Lợi ích chiến lược của Mỹ sau Chiến
tranh Lạnh là duy trì vị trí siêu cường số 1, thiết lập một trật tự thế giới
mới do Mỹ lãnh đạo, ngăn chặn không để cho bất cứ một nước nào có
thể trở thành đối thủ có khả năng đe doạ vị trí, vai trò và nền an ninh
của Mỹ.
Tiến trình nhất thể hóa châu Âu và vai trò của châu Âu: Sau hơn 60
năm phát triển và qua nhiều đợt mở rộng, EU đã trở thành một trung
tâm kinh tế, chính trị lớn trên thế giới và là một ðối tác toàn cầu của
Mỹ. Tuy nhiên, cho dù EU là mô hình hợp tác khu vực thành công nhất
với những liên kết thể chế ở mức cao nhất so với các khu vực khác,
những hạn chế lớn về thể chế bên trong cũng như những thách thức từ
bên ngoài vẫn là những yếu tố tác động làm hạn chế vai trò và tiếng nói
của EU. Ngoài ra, EU cũng có năng lực quân sự yếu kém, chưa tự chủ
trong đảm bảo an ninh, khả năng giải quyết khủng hoảng còn hạn chế.
EU là đối tác quan trọng tại địa bàn Châu Âu, nhưng hạn chế trong tư
cách đối tác toàn cầu.



10
Vai trò ngày càng tăng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương: và
sự chuyển dịch cán cân sức mạnh toàn cầu chuyển dịch từ Tây sang
Đông đã manh nha từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc nhưng phải đến
thập kỷ đầu thế kỷ XXI mới trở thành xu thế lớn trong quan hệ quốc tế.
Sự chuyển dịch sức mạnh toàn cầu thể hiện trước hết và rõ nét nhất
trong một thay đổi có tính thời đại là sự hồi sinh của Trung Quốc và
cùng với nó là sự hồi sinh của châu Á trong thế kỷ XXI. Cùng với
Trung Quốc, Ấn Độ ở châu Á cũng đang nổi lên như một trung tâm
quyền lực của thế giới trong thế kỷ XXI.
CHƢƠNG 2
ĐỊNH VỊ CHÂU ÂU TRONG CHIẾN LƢỢC TOÀN CẦU CỦA
MỸ THẬP KỶ ĐẦU THẾ KỶ XXI
2.1. Chiến lƣợc An ninh quốc gia của Chính quyền Bush
2.1.1. Sự kiện ngày 11/9/2001 và tác động đối với chiến lược của Mỹ
Trong những tháng đầu dưới chính quyền Bush II, chính quyền
Cộng hòa với bộ máy hoạch định chính sách có thiên hướng chủ nghĩa
hiện thực, chính sách đối ngoại của Mỹ có những biểu hiện cứng rắn
hơn trên một loạt các vấn đề, gây căng thẳng trong quan hệ của Mỹ với
nhiều nước. Tuy nhiên, trước những phản ứng không thuận từ đồng
minh và quốc tế, chính quyền Bush đã có những điều chỉnh chính sách
theo hướng ôn hoà hơn.
Sự kiện ngày 11-9-2001 đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tân
bảo thủ tăng cường ảnh hưởng trong chính quyền Mỹ. Tầm nhìn của
chủ nghĩa tân bảo thủ mới thể hiện rất rõ sự kết hợp, phần nào mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa hiện thực chính trị và chủ nghĩa tự do. Sử dụng ưu
thế sức mạnh của nước Mỹ, đặc biệt là sức mạnh quân sự để truyền bá
những cái gọi là giá trị dân chủ. Họ cho rằng nước Mỹ đang ở trong giai

đoạn đỉnh cao sức mạnh, vì vậy, nước Mỹ cần phải thay đổi luật chơi


11
cho phù hợp với ưu thế sức mạnh vượt trội và vai trò bá chủ thế giới của
Mỹ.
2.1.2. Chiến lược an ninh quốc gia mới dưới chính quyền G.W. Bush
Mục tiêu bao trùm của chiến lược an ninh quốc gia mới là tập trung
củng cố thực lực nước Mỹ và vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ, thiết
lập một trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo mà ở đó giá trị của Mỹ
được phổ biến, ngăn chặn không cho bất cứ nước nào nổi lên đe doạ vị
trí của Mỹ.
Những nội dung điều chỉnh đáng chú ý trong Chiến lược an ninh
Quốc gia mới dưới chính quyền G.W.Bush bao gồm: Thứ nhất, chiến
lược an ninh quốc gia mới của Mỹ phản ánh rất rõ việc xác định lại thứ
tự ưu tiên các mối đe doạ đối với nước Mỹ; Thứ hai, các nước “bất trị”
cũng được “nâng cấp” về thứ bậc trong đánh giá về những mối đe doạ
đối với lợi ích của Mỹ; Thứ ba, Học thuyết đánh đòn phủ đầu lần đầu
tiên được chính thức đưa vào Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ. Iraq
thực chất là sự thử nghiệm đầu tiên của Học thuyết tấn công phủ đầu,
cốt lõi của Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ. Sự thử nghiệm này để
lại cho Mỹ những hậu quả nặng nề cả về mặt kinh tế và chính trị. Đặc
biệt, đối với châu Âu, cuộc chiến ở Iraq đã đẩy mâu thuẫn và rạn nứt
trong liên minh xuyên Đại Tây dương tới mức nghiêm trọng.
2.2. Điều chỉnh Chiến lƣợc dƣới chính quyền Obama
2.2.1. “Sức mạnh thông minh” và chủ nghĩa đa phương
Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc tế tự do tương tự như Clinton,
chính sách đối ngoại dưới chính quyền Obama khác biệt so với Bush
trên 4 khía cạnh: Một là, nếu "cường quyền và đơn phương" là thương
hiệu của chính sách đối ngoại dưới chính quyền Bush thì " sức mạnh

thông minh" trở thành thương hiệu của chính quyền Obama; Hai là,
chính quyền Obama đã chính thức từ bỏ thuyết “đánh đòn phủ đầu”,
học thuyết đối ngoại chủ đạo dưới chính quyền Bush; Ba là, từ bỏ cách
nói về “cuộc chiến chống khủng bố” của chính quyền Bush, giới hạn


12
hơn về kẻ thù của nước Mỹ, không quy kết tất cả các tổ chức thánh
chiến hay các tín đồ Hồi giáo,
2.2.2. Chiến lược “tái cân bằng” của Obama
Chính sách "tái cân bằng" hay xoay trục của Mỹ được xây dựng
trên cơ sở sự ủng hộ lưỡng đảng và quan trọng hơn hết, nó xuất
phát từ thực tế địa chiến lược thập kỷ đầu thế kỷ XXI và được
hoạch định trên cơ sở những tính toán chiến lược lâu dài. Một là, Châu
Á là khu vực ngày càng trở nên quan trọng đối với các lợi ích quốc gia
của Mỹ. Hai là nhân tố Trung Quốc. Ba là sự can dự lớn hơn ở Đông
Nam Á.
2.3. Tầm quan trọng của châu Âu trong chiến lƣợc của Mỹ
2.3.1. Cục diện khu vực châu Âu.
Thập kỷ đầu thế kỷ XXI chứng kiến những chuyển biến chính trị xã
hội mạnh mẽ ở Châu Âu. Bức tranh khu vực châu Âu đầu thế kỷ XXI
nổi lên sáu đặc điểm lớn: Thứ nhất, các cuộc cách mạng màu được sự
hậu thuẫn của Mỹ và phương Tây tạo ra sự bất ổn về an ninh, chính trị ở
một số quốc gia Đông Âu và Trung Á; Thứ hai, tranh chấp lãnh thổ,
tranh giành ảnh hưởng tại khu vực diễn ra quyết liệt; Thứ ba, lực lượng
cực hữu có tư tưởng dân tộc cực đoan, bài ngoại, dành được ủng hộ khá
cao của bộ phận cử tri vốn bất bình với chính sách của chính phủ. Thứ
tư, bước vào thế kỷ 21, tính chất các vấn đề an ninh tại châu Âu cũng có
nhiều thay đổi; Thứ năm là vai trò và hạn chế của các cơ chế hợp tác an
ninh tại châu Âu; Thứ sáu là tiến trình mở rộng và nhất thể hóa của EU.

2.3.2. Lợi ích cơ bản của Mỹ ở châu Âu.
Mục tiêu chiến lược của Mỹ ở châu Âu là thiết lập trật tự thế giới
mới ở châu Âu do Washington chi phối, kiềm chế các nước đối thủ tiềm
tàng, ngăn không cho bất cứ nước nào, đặc biệt là Nga nổi lên, thách
thức vai trò lãnh đạo của Mỹ, ủng hộ công cuộc cải cách ở Nga, các
nước SNG và các nước Đông Âu, thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường. Cho dù châu Á đang ngày càng trở nên quan trọng trong


13
chiến lược toàn cầu của Mỹ, châu Âu vẫn giữ một vị trí quan trọng
trong chiến lược đối ngoại của Mỹ, bởi với vị thế của một siêu cường,
Mỹ có lợi ích toàn cầu và vẫn phải can dự vào tất cả các khu vực trên
thế giới. Lợi ích chiến lược là duy trì cân bằng quyền lực mới, một trật
tự khu vực ở châu Âu do Washington chi phối, kiềm chế các nước đối
thủ tiềm tàng. Lợi ích kinh tế là duy trì không gian kinh tế mở toàn cầu,
thúc đẩy quan hệ kinh tế với châu Âu, trung tâm kinh tế hàng đầu trên
thế giới nhằm thực hiện ưu tiên hàng đầu của Mỹ là chấn hưng nền kinh
tế, thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ. Lợi ích chính trị là duy trì và
phổ biến những giá trị của phương Tây về dân chủ, nhân quyền, kinh tế
thị trường, xã hội dân sự... Để làm được điều này, các đồng minh của
Mỹ ở châu Âu đóng vai trò then chốt. Ngoài ra, Mỹ cũng có lợi ích thiết
thực trong hợp tác với châu Âu đối phó với cách thách thức an ninh
toàn cầu.
2.3.3 Ưu tiên chiến lược của châu Âu
Trong khuôn khổ mục tiêu chiến lược lớn, Tây Âu triển khai 3
hướng ưu tiên chiến lược chính là: đẩy mạnh quá trình nhất thể hóa
châu Âu; duy trì và củng cố quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ
trong NATO; và từng bước thúc đẩy hợp tác và lôi kéo Nga hội nhập
vào châu Âu.

2.4. Chiến lƣợc của Mỹ đối với châu Âu
2.4.1. Mục tiêu và nội dung chiến lược
Chiến lược của Mỹ đối với châu Âu kể từ sau Chiến tranh lạnh
hướng tới những mục tiêu chủ yếu là: (i) Duy trì sự tuân thủ nguyên tắc
dân chủ của các đồng minh, tăng cường các mối quan hệ kinh tế có tầm
quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng của Mỹ, duy trì quan hệ
hợp tác an ninh chặt chẽ để giải quyết các vấn đề toàn cầu; (ii) Ngăn
chặn và bảo vệ các thành viên NATO trước các mối đe doạ về lãnh thổ;
(iii) Củng cố và hỗ trợ quá trình cải cách thị trường và dân chủ ở các
nước Đông Âu, góp phần thúc đẩy sự ổn định ở châu Âu, thông qua


14
việc lôi kéo các nền dân chủ mới châu Âu vào mạng lưới quan hệ an
ninh song phương và đa phương ngày càng phát triển; (iv) Ngăn chặn
việc phổ biến vũ khí giết người hàng loạt thông qua sự hợp tác với các
nước có tiến bộ kỹ thuật ở châu Âu; (v) Phát triển khả năng hiệu quả
nhằm kiềm chế và giải quyết các cuộc xung đột khu vực, bao gồm cả
khả năng quân sự cho việc giữ gìn hoà bình; (vi) Duy trì và củng cố
hiệu quả của các tổ chức an ninh châu Âu, đặc biệt là NATO, làm
phương tiện cơ bản, chủ yếu cho Mỹ duy trì vai trò lãnh đạo và ảnh
hưởng đối với các vấn đề an ninh châu Âu.
Sáu nguyên tắc cơ bản trong chính sách của Mỹ đối với khu vực
châu Âu bao gồm: (i) chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia
là nền tảng an ninh châu Âu ; (ii) An ninh châu Âu là không thể chia
cắt; (iii) Mỹ tiếp tục duy trì cam kết đối với Điều 5 của NATO, tức một
nước bị tấn công có nghĩa là tất cả bị tấn công; (iv) Mỹ ủng hộ việc trao
đổi các thông tin quân sự, kể cả các chuyến thăm tới các căn cứ quân
sự, quan sát các hoạt động quân sự và tập trận. (v) nguyên tắc không
phổ biến vũ khí hạt nhân. ; (vi) dân chủ nhân quyền là thành tố bất biến

trong chính sách của Mỹ đối với các khu vực. Mỹ ủng hộ mạnh mẽ tiến
trình dân chủ ở các nước Đông Âu và Liên xô cũ, thể hiện rõ nét qua vai
trò của Mỹ trong các cuộc cách mạng màu.
2.4.2. Chiến lược mở rộng NATO
Mặc dù lý do của sự tồn tại chủ yếu của NATO không còn với sự
tan rã của Liên Xô cũ, mục tiêu của Mỹ trong việc mở rộng NATO vẫn
là mục tiêu ban đầu nhằm "duy trì sự có mặt của Mỹ, ngăn chặn Nga và
kiềm chế Đức". Mở rộng là một bộ phận trong chiến lược bao trùm của
Mỹ là xây dựng một châu Âu dân chủ và không chia cắt, đồng thời giúp
cho Mỹ thực hiện việc tăng cường chia sẻ trách nhiệm giữa các nước
đồng minh, tranh thủ sự hỗ trợ của các nước thành viên mới trong các
hoạt động của NATO.


15
Về cơ bản, việc mở rộng NATO và duy trì sự có mặt của quân đội
cùng vũ khí hạt nhân của Mỹ ở châu Âu phục vụ những lợi ích chiến
lược của khu vực này do nhiều nước châu Âu đặc biệt là những nước
Đông Âu cũ mới gia nhập NATO, vẫn coi Nga là một thách thức tiềm
tàng đối với an ninh của mình. Bên cạnh đó, việc duy trì và mở rộng
NATO được coi là một phương cách hữu hiệu để các nước châu Âu có
thể đối phó với những thách thức mới và giúp cho châu Âu hạn chế và
ngăn chặn các mâu thuẫn nội bộ.
CHƢƠNG 3
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRIỂN KHAI CHIẾN LƢỢC CHÂU ÂU
CỦA MỸ VÀ TRIỂN VỌNG
3.1. Tác động đối với quan hệ Mỹ - châu Âu
3.1.1. EU thúc đẩy chính sách an ninh và phòng thủ châu Âu (ESDP)
ESPD ra đời nhằm tăng cường năng lực và vai trò của EU trong các
vấn đề an ninh khu vực, giảm dần lệ thuộc vào Mỹ. Nhìn chung, Mỹ

ủng hộ việc EU đóng vai trò tích cực hơn trong đảm bảo an ninh tại
châu Âu và cơ bản không phản đối việc EU triển khai ESDP. Tuy
nhiên, Mỹ không muốn ESDP làm giảm vai trò của NATO và đòi EU
phải tôn trọng “nguyên tắc 3D”: tránh chia rẽ ESDP và NATO (no
decoupling), không lặp lại các cơ chế của NATO trong ESDP (no
duplication) và không phân biệt đối xử với các nước thành viên NATO
không thuộc EU (no discrimination). Sự hình thành và phát triển của
ESDP là một bổ sung quan trọng cho nỗ lực xây dựng chính sách đối
ngoại chung của EU. Với ESDP, EU đã có thêm “công cụ” thực hiện
chính sách đối ngoại của mình bên cạnh các tuyên bố chính trị và các nỗ
lực ngoại giao, tăng vai trò và uy tín của khối trong tham gia giải quyết
các vấn đề quốc tế và toàn cầu.
3.1.2. Tác động đối với quan hệ xuyên Đại Tây Dương.
Với sự mở rộng và tăng cường nhất thể hóa cùng với chính sách an


16
ninh và phòng thủ châu Âu, châu Âu muốn có vai trò lãnh đạo lớn hơn
trong NATO, nhấn mạnh cải tổ NATO để biến NATO thành một thực
thể có hai trụ cột cân bằng và hai đối tác bình đẳng, từ đó tạo nên vị thế
lớn trong việc giải quyết các vấn đề an ninh, chính trị của châu Âu.
Trong khi đó, Mỹ muốn châu Âu chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng
trong giải quyết công việc của NATO. Tuy nhiên, Mỹ vẫn muốn duy trì
vị trí lãnh đạo toàn bộ hoạt động của NATO. Sự tranh giành vai trò chi
phối thể hiện qua những bất đồng giữa hai bên, cụ thể là bất đồng trong
vấn đề nắm quyền chỉ huy NATO; trong việc kết nạp thành viên mới;
bất đồng về chia sẻ trách nhiệm trong quá trình mở rộng và trong việc
xác định chiến lược mới của NATO.
3.2. Tác động đối với quan hệ Nga - Mỹ và Nga - NATO
3.2.1. Đối với quan hệ Nga - Mỹ.

Triển khai chiến lược châu Âu của Mỹ tác động đáng kể đến quan hệ
giữa Nga và Mỹ, đặc biệt làm bộc lộ rõ những yếu tố khác biệt lợi ích
chiến lược giữa hai bên. Một là, sự khác biệt về lợi ích chiến lược giữa
Nga và Mỹ. Hai là, cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực "hậu Xô-viết". Ba
là, vấn đề lá chắn tên lửa, vốn là nguồn gốc mâu thuẫn chủ yếu trong
quan hệ Mỹ-Nga trong những năm gần đây, tuy phần nào đã được hóa
giải nhưng chưa triệt để và có khả năng quay trở lại gây phức tạp cho
quan hệ Nga-Mỹ. Bốn là, quan điểm của hai bên còn nhiều khác biệt về
tương lai của Nam Ossetia và Abkhazia cũng như vấn đề công nhận độc
lập của Kosovo. Năm là, sự khác biệt về nhiều vấn đề khu vực và quốc
tế, đặc biệt là các vấn đề Iran, Triều tiên, Lybia và Trung Đông.
3.2.2. Đối với quan hệ Nga – NATO.
Chiến lược Đông tiến của NATO là một trong những mâu thuẫn lớn
nhất giữa Nga và phương Tây. Nga cho rằng mở rộng NATO thực chất là
mở rộng ảnh hưởng của phương Tây, thu hẹp không gian chiến lược và
xâm phạm khu vực đặc quyền lợi ích của Nga. Nga phản đối quyết liệt
quyết định mở rộng NATO sang phía Đông. Mỹ và NATO bất chấp sự


17
phản đối quyết liệt của Nga vẫn tiếp tục đẩy mạnh quá trình mở rộng
NATO. Tình thế bất lợi này buộc Nga phải có những điều chỉnh mới
mạnh mẽ hơn trong chiến lược đối ngoại trên cơ sở đánh giá cụ thể tương
quan lực lượng và khả năng phát huy những tiềm lực có thể có trong đó
có sức mạnh quân sự.
3.3. Nghiên cứu tình huống: Quan hệ Mỹ - châu Âu trong cuộc
khủng hoảng Ukraine 2014.
Khủng hoảng tại Ukraina đầu năm 2014 là khủng hoảng nghiêm
trọng nhất, làm rung chuyển nền tảng an ninh khu vực, tác động mạnh
mẽ đến quan hệ quốc tế và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn. Xét từ

góc độ NATO và quan hệ với Nga, có thể nói đây là thất bại trong chiến
lược của NATO trong hai thập kỷ sau chiến tranh lạnh. Mặt khác,
khủng hoảng nghiêm trọng và kéo dài ở Ukraine cho thấy châu Âu vẫn
là một trong những khu vực chiến lược trọng yếu của Mỹ, tâm điểm
chính sách của Mỹ, ít nhất là trong ngắn hạn. Khủng hoảng Ukraine còn
có tác động hết sức quan trọng đối với tập hợp lực lượng trên thế giới,
đặc biệt là quan hệ giữa Nga và Trung Quốc.
3.4. Triển vọng quan hệ Mỹ - châu Âu
Trên cơ sở những nhân tố chủ yếu tác động đến chính sách và quan
hệ của Mỹ với EU trong thời gian tới như: i) so sánh lực lượng giữa Mỹ
và châu Âu; sự phụ thuộc chặt chẽ giữa Mỹ và EU cả về an ninh và
kinh tế; (ii) lợi ích và ưu tiên chiến lược của Mỹ ; (iii) tầm vóc và ảnh
hưởng của châu Âu sau khủng hoảng khu vực đồng Euro; iv) tầm quan
trọng và ảnh hưởng của Nga ngày càng tăng lên ở châu Âu; có thể thấy
một số mặt thuận lợi và thách thức trong triển khai chính sách châu Âu
của Mỹ trong thời gian tới.
Về mặt thuận lợi, so sánh lực lượng giữa Mỹ và châu Âu, sự gắn bó
chặt chẽ và chia sẻ lợi ích chiến lược giữa Mỹ và châu Âu tiếp tục là
yếu tố thuận lợi cho việc triển khai và theo đuổi các mục tiêu và lợi ích
của Mỹ ở châu Âu. Cho dù suy yếu tương đối, Mỹ vẫn là siêu cường


18
duy nhất với vai trò toàn cầu và chủ đạo đối với an ninh châu Âu. Mỹ là
nước duy nhất có đủ sức mạnh cứng và sức mạnh mềm để cùng EU lôi
kéo nước Nga vào các công việc của thế giới và châu Âu. Mỹ cũng là
nước duy nhất có thể đảm bảo về an ninh đối với những nước EU mới,
vốn vẫn còn coi Nga là mối đe dọa. Bên cạnh đó, EU vẫn chưa là một
cường quốc theo nghĩa truyền thống với một tiếng nói chung trong các
vấn đề an ninh cũng như trong quan hệ với Nga. EU tiếp tục phụ thuộc

vào Mỹ trong việc giải quyết các công việc an ninh lớn của mình.
Về mặt thách thức, trong thời gian tới đặc biệt dưới chính quyền
Putin, sự trở lại của nước Nga, với tư cách là một cường quốc quân sự
hạt nhân, khẳng định vị trí "'độc tôn" của mình ở khu vực "lợi ích đặc
quyền", là một thách thức lớn đối với ý đồ bá quyền và việc theo đuổi
lợi ích của Mỹ ở châu Âu. Nước Nga sẽ không chấp nhận để Mỹ và
phương Tây "chèn ép", thu hẹp không gian chiến lược. Đây là nhân tố
hết sức quan trọng tác động tới chiến lược châu Âu của Mỹ và quan hệ
Mỹ - châu Âu trong thời gian tới. Bên cạnh đó, khủng hoảng khu vực
đồng Euro đã tác động đáng kể đến vai trò và vị thế của châu Âu nói
chung và trong chiến lược của Mỹ nói riêng. Đây cũng là mặt thách
thức trong chính sách của Mỹ đối với châu Âu, trong bối cảnh vai trò
"đối tác toàn cầu" và sự chia sẻ gánh nặng của châu Âu ngày càng trở
nên quan trọng trong chiến lược của Mỹ.


19
KẾT LUẬN
1. Thập kỷ đầu thế kỷ XXI chứng kiến những chuyển biến to lớn
trong nền chính trị quốc tế, đặc biệt là với sự chuyển dịch cán cân sức
mạnh toàn cầu từ Tây sang Đông. Mặc dù suy yếu tương đối, Mỹ vẫn là
cường quốc toàn cầu, một cực nổi trội trong một thế giới ngày càng trở
nên đa cực. Mục tiêu xuyên suốt của Mỹ là duy trì và củng cố vai trò
lãnh đạo thế giới, ngăn không để một cường quốc hay một trung tâm
quyền lực nào nổi lên thách thức địa vị siêu cường của Mỹ. Để đạt được
mục tiêu này, một mặt Mỹ phải duy trì ưu thế tuyệt đối về sức mạnh
kinh tế, quân sự. Mặt khác, Mỹ phải kiểm soát được các địa bàn có các
vị trí chiến lược quan trọng trên thế giới trong đó châu Âu và châu ÁThái Bình Dương là hai khu vực chiến lược trọng yếu. Như vậy, mục
tiêu lâu dài của Mỹ ở châu Âu là duy trì hòa bình và ổn định, kiềm chế
không cho bất kỷ nước nào hay nhóm nước nào nổi lên thách thức vai

trò lãnh đạo của Mỹ, thiết lập trật tự thế giới mới ở châu Âu do Mỹ lãnh
đạo.
2. Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ đã có những điều chỉnh hết
sức quan trọng dưới chính quyền Bush và Obama. Đặc biệt, sự kiện
ngày 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ là một bước
ngoặt trong chiến lược an ninh quốc gia của chính quyền Bush. Mặc dù
mục tiêu lâu dài và xuyên suốt là yếu tố bất biến, nội dung chiến lược
có những thay đổi quan trọng trong xác định mối đe dọa đối với lợi ích
quốc gia và biện pháp triển khai chiến lược. Cuộc chiến chống khủng
bố trở thành sợi chỉ xuyên suốt, ngọn cờ tập hợp lực lượng và học
thuyết “đánh đòn phủ đầu” trở thành biện pháp chiến lược quân sự mới
trong chiến lược an ninh quốc gia của chính quyền Bush. Dưới chính
quyền Obama, chính sách đối ngoại của Mỹ đã có những thay đổi quan
trọng so với chính quyền tiền nhiệm của Tổng thống Bush. Chiến lược
đối ngoại trên cơ sở "quyền lực thông minh" đã thay thế cho chính sách
đối ngoại cường quyền, đơn phương, vốn là nguyên nhân gây rạn nứt


20
nghiêm trọng quan hệ của Mỹ với các đồng minh bên kia bờ Đại Tây
Dươngcũng như quan hệ Mỹ-Nga. Điều chỉnh chiến lược đối ngoại
dưới chính quyền Obama theo hướng chú trọng "quyền lực thông
minh", nhấn mạnh vai trò của ngoại giao, chủ nghĩa đa phương, tạo ra
những tác động tích cực đối với quan hệ xuyên Đại Tây dương. Một
nước Mỹ bớt cường quyền, cân bằng hơn trong việc sử dụng các công
cụ phi quân sự như ngoại giao, kinh tế, văn hóa v.v.. để thực hiện các
mục tiêu đối ngoại của mình sẽ gần hơn với tư duy chiến lược đối ngoại
của châu Âu. Đồng thời, xu hướng Mỹ điều chỉnh trọng tâm chiến lược
sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, manh nha từ thời kỳ đầu sau
chiến tranh lạnh, đã được khẳng định và ngày càng trở nên rõ nét. Đây

là một xu hướng lâu dài, có tác động lớn đối với vị trí của châu Âu
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và quan hệ Mỹ-châu Âu.
3. Trong bối cảnh Mỹ tái cân bằng chiến lược sang khu vực châu ÁThái Bình Dương, châu Âu vẫn có một tầm quan trọng hàng đầu trong
chiến lược của Mỹ. Trên thực tế, cho dù Mỹ tái cân bằng chiến lược tại
châu Á vì những lý do địa chính trị, kinh tế và yếu tố "cân bằng chiến
lược" và châu Âu không giữ vị trí trọng tâm trong chiến lược toàn cầu
của Mỹ như thời kỳ chiến tranh lạnh, nước Mỹ và châu Âu vẫn ràng
buộc bởi những liên hệ khăng khít về lịch sử và văn hóa lâu đời [25] và
quan trọng hơn hết, Mỹ vẫn có những lợi ích chiến lược sống còn ở
châu Âu. Thứ nhất, Châu Âu vẫn là khu vực chiến lược trọng yếu của
Mỹ với những đồng minh thân cận nhất và Liên bang Nga, một cường
quốc Á-Âu hết sức quan trọng trong bàn cờ chiến lược quốc tế. Chính
vì vậy, Mỹ vẫn là cường quốc có vai trò chủ đạo đối với an ninh châu
Âu thông qua NATO. Thứ hai, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa
Mỹ và châu Âu hết sức chặt chẽ. Châu Âu có vai trò hết sức quan trọng
đối với thịnh vượng của nước Mỹ. Thứ ba, châu Âu là đối tác toàn cầu
của Mỹ trong việc ứng phó với những thách thức an ninh mới, phi


21
truyền thống và những vấn đề toàn cầu vẫn là mối ràng buộc an ninh
giữa hai châu lục.
4. Vai trò của châu Âu nói chung và trong chiến lược của Mỹ nói
riêng có những hạn chế đặc biệt trong bối cảnh khủng hoàng khu vực
đồng Euro vừa qua. Châu Âu chủ yếu vẫn là một thực thể kinh tế lớn,
một "cường quốc dân sự" nhưng có ảnh hưởng hạn chế trong lĩnh vực
chính trị quốc tế và an ninh quốc phòng do không có chính sách đối ngoại
chung cũng như không sở hữu sức mạnh quân sự, quốc phòng. Mặc dù
EU có bước phát triển quan trọng về thể chế sau Hiệp ước Lisbon (2009)
với mục tiêu chủ yếu là tăng cường hiệu quả của quá trình hoạch định

chính sách, nhằm mở rộng và củng cố vai trò của EU với tư cách là một
thực thể chính trị trên thế giới, EU vẫn không phải là Hợp chủng quốc
châu Âu, một cường quốc theo nghĩa truyền thống. Châu Âu vẫn là tập
hợp các quốc gia riêng rẽ với những lợi ích và tính toán chiến lược riêng.
EU mở rộng với 28 thành viên chưa có một tiếng nói thống nhất và vì
vậy, vẫn phụ thuộc vào Mỹ trong việc giải quyết các công việc an ninh
lớn của mình. Đặc biệt cuộc khủng hoảng nặng nề nhất trong lịch sử của
EU đã ảnh hưởng đến những nỗ lực xây dựng có một chính sách đối
ngoại và an ninh chung của EU, tiếng nói cũng như vị thế của tổ chức
này. EU mở rộng tiếp tục bị chia rẽ về cả chính sách đối với Mỹ, Nga và
các vấn đề an ninh ở khu vực. Sự chia rẽ của EU cũng như vai trò và
phản ứng bị động của EU vừa qua trong khủng hoảng ở Ukraine đã bổ
sung thêm một bằng chứng nữa về vai trò và vị thế của tổ chức này.
5. Chính sách của Mỹ đối với châu Âu là sự kết hợp giữa quan điểm
của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do. Chiến tranh lạnh kết thúc
hơn hai thập kỷ nhưng tư duy chủ nghĩa hiện thực thời kỳ Chiến tranh
lạnhvẫn hiện hữu và chi phối chính sách của Mỹ đối với châu Âu. Chiến
lược của Mỹ và châu Âu duy trì và mở rộng NATO nhằm thu hẹp
không gian chiến lược của Nga, kiềm chế sự phục hồi của Nga là minh
chứng rõ nét nhất. Kể từ năm 1999 đến năm 2009, mười hai qu ốc gia


22
Đông Âu đã tr ở thành thành viên NATO, đưa biên giới của tổ chức này
tới sát biên giới Nga . Điều chỉnh chiến lược của NATO thời kỳ sau
Chiến tranh lạnhvề hai phương diện vai trò chiến lược và phạm vi chiến
lược thông qua ba Khái niệm chiến lược mới dẫn đến hai hệ lụy hết sức
quan trọng: một là, chuyển vai trò của NATO từ một tổ chức quân sự
phòng thủ sang một tổ chức quân sự tấn công; hai là, từ một tổ chức
phòng thủ khu vực thành “s en đầ m quố c tế ” v ới quá trình m ở rộng

phạm vi trách nhiệm của NATO và sự can thiệp của NATO vào các
cuộc xung đột mới trên thế giới. Việc NATO tham gia cuộc chiến tranh
Afghanistan đã hình thành vai trò mới ở bên ngoài khu vực châu Âu.
6. Chiến lược mở rộng NATO sang phía Đông đã tác động đáng kể đến
quan hệ giữa Nga và phương Tây cũng như tập hợp lực lượng giữa các
nước lớn trên thế giới đặc biệt là quan hệ Nga-Trung. Một đường phân
tuyến mới, tuy không rõ nét như thời kỳ Chiến tranh lạnh, đang hình thành
theo hướng có lợi cho Mỹ và Tây Âu do NATO mở rộng về phía Đông, thu
hẹp dần khu vực ảnh hưởng của Nga. Khủng hoảng Ukraina đã đẩy mâu
thuẫn tiềm tàng giữa Nga và phương Tây lên đến đỉnh điểm và trở thành
cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất giữa Nga và phương Tây kể từ khi
Chiến tranh lạnh kết thúc. Ở mức độ nào đó, khủng hoảng Ukraina cũng
cho thấy châu Âu vẫn là khu vực chiến lược trọng yếu của Mỹ
7. Từ những nhận định trên có thể rút ra một số gợi ý chính sách của
Việt Nam đối với hai đối tác quan trọng hàng đầu là Mỹ và châu Âu:
Thứ nhất, mối quan hệ khăng khít và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Mỹ và
châu Âu là yếu tố thuận lợi để Việt Nam có thể tranh thủ hợp tác với cả
hai đối tác lớn này, phục vụ cho mục tiêu phát triển của Việt Nam. Mỹ
và châu Âu đều là hai đối tác hàng đầu, có tiềm lực mạnh cả về công
nghệ, tài chính, thương mại, đầu tư và ODA. Châu Âu và Mỹ đã trở
thành hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hiệp định
thương mại tự do giữa Việt Nam và EU cùng với Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương TPP sẽ mở ra những cơ hội to lớn cho thương


23
mại và đầu tư giữa các bên. Trong bối cảnh Mỹ và châu Âu đều bước
vào giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng, Việt Nam có thể tranh thủ thời
kỳ sắp tới, đẩy mạnh hợp tác kinh tế với hai đối tác phát triển hàng đầu
này để cân bằng lại sự mất cân đối trong quan hệ kinh tế của Việt Nam

với Trung Quốc. Thứ hai, ở một góc độ nào đó, chính sách "xoay trục"
của Mỹ về khu vực châu Á-Thái Bình Dương và mối quan hệ hợp tác
chặt chẽ giữa hai bờ Đại Tây Dươngcó tác động thuận đối với Việt Nam
từ góc độ lợi ích chiến lược. Những nỗ lực phối hợp giữa Mỹ và châu
Âu với vai trò dẫn dắt của Mỹ nhằm lôi kéo EU quan tâm và chia sẻ với
Mỹ trong chính sách tái cân bằng ở khu vực giúp Việt Nam tranh thủ
hơn nữa tiếng nói ủng hộ của quốc tế trong vấn đề Biển Đông. Tháng
7/2012, bên lề Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), hai nước lần đầu tiên
đưa ra Tuyên bố chung về Đối tác Thái Bình Dương giữa Mỹ và châu
Âu (America and Europe's Pacific Partnership). Tuyên bố chung đề cập
đến những "điểm nóng" về an ninh ở khu vực, cụ thể là vấn đề hạt nhân
của Bắc Triều Tiên, tiến trình dân chủ ở Myanmar và đặc biệt là vấn đề
Biển Đông. Đây là lần đầu tiên hai nước đưa ra một Tuyên bố chung
riêng về hợp tác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, lần đầu
tiên châu Âu cam kết ủng hộ Mỹ thúc đẩy những nỗ lực tìm kiếm giải
pháp hòa bình trong tranh chấp ở Biển Đông. Mẫu số chung của hợp tác
giữa Mỹ và châu Âu về Biển Đông là hai bên chia sẻ lợi ích chiến lược
trong việc bảo đảm an ninh và tự do hàng hải ở khu vực này. Thực chất,
Tuyên bố chung này đánh dấu sự khởi đầu cho việc gia tăng hợp tác và
phối hợp giữa Mỹ và châu Âu ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và
đây là một xu hướng ta có thể tranh thủ trong quá trình tìm kiếm sự ủng
hộ quốc tế đối với việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện
pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Thứ ba, trong một thế giới
toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng, những
chuyển động trong quan hệ giữa Mỹ và châu Âu với Nga và Trung
Quốc có những hệ lụy hết sức quan trọng đối với khu vực châu Á-Thái


×