Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở HÀ TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.39 KB, 40 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC
KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở HÀ TÂY
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG KHU
VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở HÀ TÂY.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội.
* Đặc điểm tự nhiên.
- Vị trí địa lý, địa hình .
Hà Tây nằm ở phía Tây - Tây Nam thủ đô Hà Nội, bên phía hữu ngạn
sông Hồng và sông Đà. Phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Nam là tỉnh Hà
Nam, phía Đông đối diện bờ tả ngạn sông Hồng là tỉnh Hưng Yên và phía
Tây tiếp giáp với tỉnh Miền núi Hoà Bình.
Hà Tây là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng nhưng có địa thế, địa hình
đa dạng với ba vùng sinh thái: đồng bằng, bán sơn địa và miền núi. Mỗi tiểu
vùng có những thuận tiện và khó khăn riêng, ảnh hưởng trực tiếp đến phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Vùng đồng bằng rộng chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh với 95.389ha
thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng có điều kiện thâm canh cây lúa nước
cho năng suất cao, vừa có khả năng trồng các loại cây lương thực ngắn ngày,
rau màu và cây công nghiệp.
Dải bán sơn địa với hàng ngàn hécta gò đồi trải dài phía Tây, cùng lên
phía Tây Băc tỉnh, dải bán sơn địa đó càng trải rộng. Đây là tiềm năng lớn về
gieo trồng hoa màu, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, trồng rừng.
Vùi Núi Ba Vì ở địa đầu phía Tây Bắc tỉnh, Ngọn Ba Vì có độ cao
1.281m, Rừng Quốc gia Ba Vì có nhiều tre, gỗ, cây thuốc quý và nhiều loại
lâm sản khác như: đá vôi, đá ong, đá đỏ.. là những tài nguyên có giá trị lớn
với nghề xây dựng. Vùng núi và vùng bán sơn địa có độ dốc cáo, đất đai dần
bị phong hoá, mùa đông lại bị khô cạn.
Đất đai :
Đất đai là tư liệu sản suất quan trọng, cơ bản của sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội Hà Tây gắn liền với các hoạt
động công nghiệp, dịch vụ, do đó đất đai không chỉ được sử dụng để trồng


trọt chăn nuôi mà còn sử dụng ngày càng nhiều để phát triển các ngành nghề
khác. Vì vậy quá trình phát triển kinh tế gắn liền với quá trình chuyển dịch
dần diện tích đất đai từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác. Điều đó phản
ánh sự tiến bộ của phát triển kinh tế - xã hội song lại là mối đe doạ đối với
loài người. Do đó cần phải sử dụng một cách có hiệu quả đất đai, chú ý nâng
cao độ mầu mỡ của đất.
Hà Tây có diện tích 2.193km
2
, chiếm 17,2% diện tích các tỉnh và đồng
bằng Sông Hồng 0,65% diện tích cả nước. Diện tích đất nông nghiệp Hà Tây
gần 143.500ha, trong đó đất trồng cây hàng năm 112.000ha, đất trồng cây lâu
năm 31.500ha. Hiện nay vẫn còn hơn 5.600ha, chiếm 4% số đất nông nghiệp
hiện có chưa được sử dụng, chủ yếu là đất xấu (đất dốc, xói mòn, thoái hoá,
phèn, úng...)
Bình quân diện tích đất nông nghiệp đang khai thác ở Hà Tây rất thấp
khoảng 0,06 ha/người trong khi đó bình quân cả nước khoảng 0,1 ha/người
bình quân trên thế giới là 0,34ha/người. Thực trạng đó đòi hỏi tinh phải tiết
kiệm và bảo vệ đất nông nghiệp là chính sách hàng đầu.
* Khí hậu, thời tiết :
Hà Tây nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do ảnh hưởng gió
mùa, hàng năm có mùa mưa và mùa khô, lượng mưa hàng năm khá thời gian
có ánh sáng mặt trời nhiều, cường độ bức xạ lớn, độ ẩm cao 85%. Đó là
những điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp toàn diện.
Tuy nhiên, cũngcó những yếu tố không thuận lợi như sương mù rét đậm
vào mùa đông, giông bão, lũ lụt gây khó khăn, cho quá trình sinh trưởng của
sinh trưởng của động thực vật, ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp và đời
sống dân cư. Cuộc đấu tranh chống chống thiên tai khắc nghiệt để khai phá
mảnh đất Hà Tây, tạo dựng quê hương được phản ảnh trong truyền thuyết Sơn
Tinh - Thuỷ Tinh từ ngàn xưa đến nay vẫn còn tiếp diễn.
Mặt khác do phá dừng bừa bãi, phát triển công nghiệp thiếu chọn lọc,

không có quy hoạch và các hoạt động của các phương tiện giao thông... đã
gây ô nhiễm môi trường không khí, nguồn nước, làm thay đổi thất thường và
duy giảm nguồn tài nguyên thời tiết khí hậu vốn có của Hà Tây. Vì vậy phát
triển kinh tế xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ tài nguyên môi trường sinh
thái.
- Nguồn nước :
Nguồn nước ngọt sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất ở Hà Tây khá dồi
dào. Toàn tỉnh có 6 con sông chảy qua với tổng chiều dài 436km, 14 đầm hồ
lớn có diện từ từ trên 40ha trở lên và hàng ngàn hecta mặt nước ở vùng chiêm
trũng là tiềm nưng đáng kể về nuôi và đánh bắt thuỷ sản. Ngoài nguồn nước
ngọt mặt sông, hồ, ao, Hà Tây còn có nguồn nước ngầm phong phú, phân bổ
rải rác ở các vùng. Song nguồn nước cũng thay đổi theo mùa, mùa mưa tập
trung tới hơn 80% lượng mưa cả năm, ngược lạimùa khô, lượng mưa chỉ 1 -
2% lượng mưa cả năm nên có những tháng lụt, có những tháng khô hạn ảnh
hưởng đến sinh hoạt và canh tác.
Với những đặc điểm tự nhiên trên, Hà Tây có nhiều lợi thế phát triển kinh
tế, mà thế mạnh là sản xuất lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp.
* Đặc điểm kinh tế :
Từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế Hà Tây có tốc độ tăng trưởng liên
tục. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân hàng năm thời kỳ 1991
- 1995 là 9,5% thời kỳ 1996 - 2000 là 7,3%; năm 2001, 2002 liên tiếp đạt
7,9%.
Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành
công nghiệp dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, sự chuyển
dịch này còn chậm so với nền kinh tế cả nước và nhất là so với một số vùng
kinh tế trọng điểm. Nông nghiệp từ 48,03% năm 1995, xuống 35,9% năm
2002 công nghiệp - xây dựng từ 25,3%, năm 1995 lên 34,5%, năm 2002, du
lịch dịch vụ từ 26,3%, năm 1995 lên 29,5% nam 2002.
Sản xuất nông nghiệp :
Nông nghiệp là ngành sản xuất chính của Hà Tây. Trong 6 năm 1996 -

2002 giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4,6% năm. Năm 2002 tổng
sản lượng lương thực đạt 1,03 triệu tấn, lương thực bình quân đầu người
414kg.
Ngành trồng trọt đã chuyển dịch, cơ cấu theo hướng năng suất, chất
lượng cao. Năng suất lúa xuân năm 2000 đạt 54,56tạ/ha. Sản lượng cây màu
tốc độ tăng bình quân hàng năm 6,3%, diện tích tăng bình quân 4,3%/năm.
Năm năm qua đã trồng 250ha chè, 2.500ha cây ăn quả, 2.192ha rừng tập
trung, 4,8 triệu cây phân tán, làm tốt công tác khoanh nuôi bảo vệ rừng. Hệ
số sử dụng đất của ngành trồng trọt đạt 2,5 lần/năm, khả năng khai thác tăng
vụ còn nhiều.
Ngành chăn nuôi Hà Tây đang được chú trọng và phát triển đặc biệt là
chăn nuôi lợn hướng nạc và bò lấy sữa. Đàn lợn năm 2002 là 90 vạn con với
sản lượng hơn 75.300 tấn, tăng bình quân 8%/năm. Đàn bò có 128.000 con
trong đó 35% là bò laisin, 1.120 con bò sữa. Tỷ trọng chăn nuôi hiện chiếm
31% giá trị sản xuất nông nghiệp.
Vấn đề cơ bản của sản nxuất nông nghiệp Hà Tây hiện nay làquy hoạch
vùng, xác định cây, con có hiệu quả nhất ở từng khu vực đồng thời tổ chức
tốt đầy vào, đầu ra, đưa khoa học kỹ thuật vào cả quá trình sản xuất và chế
biến. Hợp tác xã nông nghiệp với tư cách là đơn vị kinh tế tựchủ sẽ góp phần
giải quyết tốt vấn đề này.
- Công nghiệp - xây dựng :
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng Hà Tây được tổ chức
tại và bước đầu đạt được kết quả khả quan.
Từ năm 1996 đến nay, giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng
bình quân hàng năm 16%. Năm 2002 đạt giá trị 4.304 tỷ đồng, trong đó
doanh nghiệp Nhà nước tăng 14,3% ( Cả Trung ương và địa phương), doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tăng 8,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 61,3%. Sản xuất công nghiệp tập trung vào chế biến nông dản thực
phẩm và khai thác vật liệu xây dựng. Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp năm
2002 là :

+ Quốc doanh (Trung ương và địa phương : 12,27%
+ Ngoài quốc doanh : 55,22%
+ Khu vực có vốn đầu tư của nước ngoài 32,51%
Nhìn chung công nghiệp Hà Tây có tiến bộ, một số doanh nghiệp đã
mạnh dạn đầu tư thay đổi thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh so
hiệu quả như xi măng, bia, thuốc tân dược, dệt may, đã ốp lát... Kinh tế hộ
gia đình và các làng nghề phát triển nhưng phần lớn đứng trước sự hạn chế về
quy mô nhỏ, trang bị kỹ thuật lạc hậu, thị trường tiêu thụ không ổn định,
thiếu vốn đầu tư, xây dựng cơ bản còn dàn trải, quản lý chưa chặt.
- Thương mại - du lịch :
Trong những năm gần đây, những ngành này đều cố gắng vươn lên
trong cơ chế thị trường mặc dù chịu sức ép cạnh tranh mạnh của thị trường
thủ đô, đã nâng cao chất lượng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Tổng giá trị hàng hoá tiêu thụ trên địa bàn 2002 tăng 2 lần so với 1996,
tổng mức bán lẻ bình quân tăng 15,8%/năm. Nhìn chung, thị trường hàng hoá
phong phú, đa dạng. Công tác quản lý thị trường được tăng cường, kiểm tra,
kiểm soát chặt chẽ chống hàng giả và gian lện thương mại. Công tác an toàn
vệ sinh thực phẩm bước đầu được quan tâm chỉ đạo.
Kim ngạch xuất khẩu của Hà Tây còn nhỏ, giá trị xuất khẩu năm 2002 đạt
57 triệu USD, tốc độ tăng trung bình 20%/năm trong 10 năm qua. Các mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu là: Thủ công mỹ nghệ, nông sản, lụa, thảm, may mặc, đá ốp
lát... hiện chưa có mặt hàng mũi nhọn, khối lượng lớn.
Nhập khẩu tăng nhanh. Giá trị nhập khẩu năm 1994 đạt 2,3 triệu USD
năm 2002 thực hiện hiện 63 triệu USD, tốc độ tăng bình quân 33%/năm. Các
mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: Thiết bị vật tư, nguyên vật liệu dược, ô tô, xe
máy, sắt thép, sợi....
Hà Tây là tỉnh có nhiều cảnh quan, di tích lịch sử với hơn 2000 di tích
lịch sử và gần 400 di tích được Nhà nước được sếp hạng, trong đó có 12 di
tích đặc biệt quan trọng.
Du lịch Hà Tây đầy tiềm năng nhưng chưa được phát huy, sự đóng góp

của ngành cho ngân sách không đáng kể. Khách du lịch trong và ngoài nước
đến tham quan lễ hội, giải trí những năm gần đây có tăng. Tỉnh đã xây dựng
quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2010 và qui hoạch những cụm
điểm du lịch ở Sơn Tây, Ba Vì, Hương Sơn (Mỹ Đức).
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng :
+ Hệ thống thuỷ lợi: là tỉnh có nền văn minh lúa nước lâu đời nên hệ
thống thuỷ lợi Hà Tây rất được coi trọng. Hệ thống thuỷ lợi được chú trọng
đầu tư nâng cấp; quản lý và khai thác tốt các công trình đã có; xây dựng một
số công trình trọng điểm để giải quyết cơ bản tiêu úng cho vùng trũng.
Chương trình cứng hoá kênh mương đang được phát triển ở khắc các vùng
nông thôn và đã xây kiên cố được 214km. Tỉnh đã có kế hoạch làm trạm bơm
Khai Thái (Phú Xuyên); củng cố hệ thống đê sông Nhuệ, sông Hồng,
sông Đà; nghiên cứu sử dụng kinh tế tổng hợp hồ Đồng Mô và các hồ chứa
nước khác.
+ Hệ thống điện: Lưới điện quốc gia đã có tất cả các xã trong tỉnh cung
cấp đủ điện phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt dân cư. Những năm qua đã
đặt thêm các trạm biến áp 120KV và 35KV tăng công suất 147.800KVA. hạ
tổn thất điện năng từ 18,3% năm 1995 xuống 7,8% năm 2000. Nhiệm vụ đặt
ra cho ngành điện là nâng cao chất lượng, cấp điện,hạ thấp tổn thất điện trên
mạng lưới điện hiện có xây dựng thêm các trạm trung gian 120KV và 35KV
cùng hệ thống đường dây.
+ Hệ thống thông tin liên lạc: Hệ thống thông tin liên lạc ở Hà Tây
phát triển khá nhanh. Với mức tự động hoá toàn bộ, 100% số xã có điện
thoại. Tỉnh đã cú tiến xây dựng 3 tổn đài ở Hà Đông, Xuân Mai, Sơn Tây tình
hình mạng lưới thông tin khép kín trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên so với yêu cầu
còn hạn chế, thiết bị thông tin thiếu.
+ Hệ thống giao thông: Trên địa bàn, tỉnh có 42,5Km đường sắt
436Km đường sông và nhiều đường bộ quan trọng. Đường quốc lộ 1A được
cải tạo và nâng cấp, quốc lộ 6 mở rộng đoạn qua Hà Đông, tu bổ đường 32,
nâng cấp đường 22. Đường huyện, xã dùng phương thức Nhà nước và nhân

dân cùng làm được tu bổ thường xuyên. Năng lực bốc dỡ cảng Hồng Vân và
Sơn Tây được nâng một bước.
+ Hệ thống cơ sở giáo dục, y tế,văn hoá: Nhìn chung được chú y nâng
cao về số lượng và chất lượng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
nhân dân. Hầu hết ở các xã đều có trường mẫu giáo, trường tiểu học, trạm y
tế, nhà văn hoá ngói hoá trên cơ sở động viên nhân dân đóng góp là chính.
Hiện nay tỉnh đang hoàn chỉnh quy hoạch các thị xã, thị trấn, hướng dẫn quy
hoạch nông thôn.
* Đặc điểm xã hội :
Hà Tây là tỉnh đông, theo số liệu điều tra 1/4/2001 là 2.386.770 người
chiếm khoảng 3% dân số cả nước. Mật độ dân số 1088 người/km
2
. Do thực
hiện tốt chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình nên trog những năm gần đây
dân số của Hà Tây tăng vừa phải, tỷ lệ tăng hàng năm giảm 0,9%o. Tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên hiện nay là 1,31%. Dân số sống chủ yếu ở nông thôn, chiếm
90,8% dân số toàn tỉnh, dân số thành thị chiếm 9,2%, nam giới 48,9%, nữ
giới chiếm 51,1%.
Dân số trong độ tuổi lao động gần 1.490.000 người. Lao động đang làm
việc khoàng 1,4 triệu người, trong đó lao động nông nghiệp 75%, lao động công
nghiệp 13,5%, lao động trong ngành dịch vụ 11,5%. Cơ cấu phân công lao động
theo ngành nghề thể hiện trình độ kém phát triển của kinh tế Hà Tây.
Trình độ của nguồn lao động cũng chưa cao. Số người có trình độ từ
cao đẳng trở lên có hơn 70.000 người, chiếm 5% lao động xã hội, lao động đã
qua đào tạo khoảng 228.000 người, chiếm 16%.
Lao động Hà Tây cần cù, có truyền thống và kinh nghiệm đấu tranh với
thiên nhiên, khai thác đất đai tạo dựng quê hương, phát triển nền sản xuất
nông nghiệp đa dạng đóng góp phần tạo nên nền văn minh rất sớm của châu
thổ sông Hồng. Trong cái nõi của nền văn minh đó, những cư dân trên mảnh
đất Hà Tây đã xây dựng cho mình một bản sắc riêng, bản sắc văn hoá của đất

trăm nghề.
Đại bộ phận nhân dân trong tỉnh là người kinh. Một số đồng bào dân
tộc ít người (Mường, Thái, Dao...) sinh sống chủ yếu ở một số xã thuộc các
huện Ba Vì, Chương Mỹ và Mỹ Đức. Các dân tộc có truyền thống đoàn kết
giúp nhau cùng nhau xây dựng quê hương.
Mặc dù có nhiều biện pháp tích cực nhưng vẫn còn một bộ phận lao
động chưa có việc làm. Năm 1999 riêng hai thị xã Hà Đông Và Sơn Tây có
hơn 6.000 lao động chưa có việc làm. ở nông thôn, lao động không đủ việc
làm tới gần 30%, tương đương 358.500 người. Tình trạng thiếu việc làm và
không có việc làm thường xuyên là nguyên nhân của nhiều tiêu cực về kinh
tế - xã hội. Thực tiễn này đòi hỏi tỉnh phải tập trung các biện pháp giải quyết
việc làm, nâng cao chất lượng nguồn lao động, phân công lại lao động giữa
các ngành, vùng trong tỉnh.
Công tác văn hoá - xã hội luôn được các ngành, các cấp qua tâm, nhờ
vậy cùng với sự ổn định về kinh tế, trình độ dân trí, đời sống văn hoá tinh
thần của nhân dân ngày càng tăng. Giáo dục - đào tạo những năm gần đây
được coi trọng và phát triển, số lượng học sinh tăng ở tất cả các cấp học,
ngành học. nam 2000 số học sinh phổ thông có 579.000 em, tăng 1,7%. Có
13/14 huyện thị xã được công nhận hoàn thành phổ cập cấp 2. Công tác đào
tạo nghề cho thanh niên được chú trọng. Đội ngũ giáo viên đang dần được
chuẩn hoá, chất lượng giáo dục - đào tạo có những bước chuyển biến. Song
việc đa dạng hoá các loại hình giáo dục còn hạn chế.
Công tác chăm sóc khám chữa bệnh cho dân được tổ chức tốt. Tỷ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng còn 30%. Chất lượng và tinh thần trách nhiệm phục vụ
khám chữa bệnh cần được chú trọng hơn nữa.
Trong công tác xoá đói giảm nghèo, Hà Tây đã tập trung mọi nỗ lực
cho 20 xã khó khăn nhất của tỉnh. Số hộ đói nghèo từ 9,12% năm1995 còn
5,3% năm 2000. Trong 5 năm (1997 - 2001) đã giải quyết việc làm cho trên
10 vạn lao động và 9 vạn lao động có thêm việc làm.
Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn được đông đảo

các tầng lớp nhân dân hăng hái thực hiện. Hầu hết các gai đình chính sách có
mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình ở địa phương.
Các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, phát thanh truyền hình, báo
chí phát triển mạnh mẽ. Đến nay mặc dù chưa vững chắc nhưng đã được
công nhận 200 làng văn hoá, khu phố văn minh: 251.450 hộ gia đình văn hoá,
đạt 60%. Nhiều di tích lịch sử, văn hoá được bảo quản, tôn tạo, 100% số xã,
phường, thị trấn có đài truyền thanh, sóng truyền hình phủ.
2.1.2. Thực trạng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD) ở Hà Tây.
Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành ngày 21/12/1990 đã
tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh,
là một mốc quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Sau hơn tám
năm thi hành, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hai luật trên đã bộc lộ những
nhược điểm và bất hợp lý cần được bộ sung sửa đổi.
Ngày 12/6/1999 quốc hội khoá X kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật
Doanh nghiệp thay thế Luật Công ty (sửa đổi) và Luật doanh nghiệp tư nhân
(sửa đổi). Và tiếp đó Chính phủ ban hành một số văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành. Sau hơn 2 năm thi hành luật doanh nghiệp, (trên phạm vi
cả nước) đã có 35.000 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng số vốn
đăng ký là 4 tỷ USD, các doanh nghiệp đã tạo công ăn việc làm cho trên
700.000 lao động, nâng tổng số lao động các doanh nghiệp dân doanh đang
sử dụng, tính đến thời điểm hết năm 2002 là trên 1,6 triệu người, tương
đương với số lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước và gấp 4,5 lần số
lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài.
Ở Hà Tây, trong thời gian vừa qua, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã
phát triển mạnh mẽ về số lượng, đa dạng về loại hình kinh doanh, đa dạng về
ngành nghề và đã có những đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, góp
phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân
sách trên địa bàn tỉnh.
Có thể thấy rõ thực trạng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh qua từng mặt
như sau:

- Về số lượng.
Theo số liệu thống kê, tính đến hết ngày 31/12/2002, trên địa bàn tỉnh đã
có 1293 cơ sở doanh nghiệp ngoài quốc doanh (bao gồm: 71 công ty cổ phần,
558 công ty trách nhiệm hữu hạn, 339 doanh nghiệp tư nhân, 253 hợp tác xã, 72
tổ hợp tác) 15.827/133.382 hộ cá thể kinh doanh đã đăng ký kinh doanh hoạt
động với tổng số vốn đã đăng ký là: 2.950.821 triệu đồng. Trong đó, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh 1.615.821 triệu đồng chiếm 54,7%; hộ cá thể kinh
doanh:1.335.000 triệu đồng chiếm 45,3%.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đặc biệt phát triển mạnh kể từ khi Nhà
nước ban hành luật doanh nghiệp (1999) cùng với việc thực hiện bãi bỏ 84 loại
'giấy phép con" trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo quyết định số
19/2000/QĐ-TTg ngày 3/2/2000 và nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày
11/8/2000 chỉ tính riêng 2 năm (2001 - 2002) trên địa bàn tỉnh Hà Tây đã có
thêm 41.537 hộ cá thể bằng 45,2% và 387 doanh nghiệp bằng 56,9% so với cả
thời gian trước cộng lại. Trong các loại hình doanh nghiệp, công ty, trách nhiệm
hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh nhất. Năm 1992 toàn tỉnh có
53 công ty TNHH, 133 doanh nghiệp tư nhân đến nay (2002) có 558 công ty
TNHH, 339 doanh nghiệp tư nhân tăng 10 lần và 2,5 lần.
Biểu 1: Số lượng doanh nghiệp tư nhân,
hộ cá thể kinh doanh qua các năm
Loại hình ĐV
T
1998 1999 2000 2001 2002
Hộ cá thể KD (số điều tra) Hộ 77.858 83.666 91.845 97.140 133.382
Doanh nghiệp NQD DN 263 315 680 704 1293
Nguồn [6]
Các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ hầu khắp các địa
bàn trong tỉnh. Tuy nhiên số lượng phân bố đồng đều giữa các huyện thị. Qua số
liệu điều tra cho thấy, nhìn chung số lượng chủ yếu tập trung ở 2 thị xã lớn (Sơn
Tây, Hà Đông) và các huyện có điều kiện thuận lợi về giao thông và vốn có

nghề truyền thống như: Chương Mỹ, Thạch Thất, Hoài Đức, Thường Tín, Phú
Xuyên.
Biểu 2: Số lượng các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh
phân theo địa bàn hoạt động.
Địa bàn
huyện thị
Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh Số hộ cá thể KD
DNTN
TNHH CP HTX
Tổ hợp
tác
Số hộ theo
điều tra
Số hộ đã
ĐKKD
Tổng cộng 339 558 71 253 72 133.382 15827
1 Hà Đông 66 154 13 24 8 8607 2589
2 Sơn Tây 41 34 12 5 - 5210 2061
3 Thanh Oai 16 30 8 14 1 14374 648
4 ứng Hoà 16 13 - 11 - 11633 953
5 Thường Tín 33 27 4 11 1 11736 978
6 Phú Xuyên 14 18 3 10 - 12730 1043
7 Mỹ Đức 11 17 1 13 13 7797 882
8 Chương Mỹ 44 72 7 29 32 15701 915
9 Quốc Oai 14 28 5 12 3 9061 7073
10 Hoài Đức 19 57 6 51 8 9500 1350
11 Đan Phượng 27 35 4 32 3 7130 594
12 Phúc Thọ 8 4 1 17 - 7352 940
13 Thạch Thất 22 46 3 13 - 6381 750
14 Ba Vì 8 23 4 7 3 6170 1051

Nguồn [4]
- Về cơ cấu ngành nghề.
Với đặc điểm quy mô nhỏ, vốn ít dễ thích nghi trong cơ chế thị trường,
kinh tế ngoài quốc doanh đã làm nên một bức tranh hết sức đa dạng, phong phú
về ngành nghề kinh doanh ở Hà Tây. Song có thể nói việc điều tra, phân loại,
đánh giá một cách chính xác, chi tiết, cơ cấu từng nhóm ngành nghề là một việc
làm gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp. Bởi vì, trong cơ chế thị trường hầu hết
các cơ sở kinh doanh đều thực hiện kinh doanh tổng hợp, đăng ký kinh doanh
cùng lúc nhiều ngành nghề, sản xuất chủ yếu chạy theo sự khan hiếm trên thị
trường do đó mang rất nhiều yếu tố tự phát và ngành nghề có sự thay đổi.
Qua số liệu của Sở kế hoạch đầu tư tỉnh, cơ cấu ngành nghề kinh doanh
của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh khái quát như sau: Trên 75% cơ sở tập
trung chủ yếu ở 2 lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thương mại -
dịch vụ; các ngành như giao thông vận tải, xây dựng và một số ngành nghề khác
chiếm không quá 25% cụ thể.
+ Đối với 1293 cơ sở doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Ngành thương mại
- dịch vụ có 591 doanh nghiệp chiếm 45,7%. Ngành công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp có 383 nhân dân chiếm 29,6%; ngành xây dựng có 216 doanh nghiệp
chiếm 16,7%; vận tải có 52 doanh nghiệp chiếm 4,06%, còn lại các ngành khác
có 51 doanh nghiệp chiếm 3,8%. [6]
+ Đối với 15.887 hộ cá thể kinh doanh đã đăng ký kinh doanh hoạt động:
79% số hộ (12.503) hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, tiểu thủ
công nghiệp, còn 29% số hộ (3324) hoạt động trong lĩnh vực vận tải, xây dựng
và các ngành khác. [6]
Như vậy, số cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh phân bố không đồng đều
giữa các ngành, các lĩnh vực.
- Về quy mô vốn.
Luật doanh nghiệp đã không quy định vốn pháp định là một điều kiện để
thành lập doanh nghiệp, trừ một số doanh nghiệp đặc thù được quy định trong
các luật chuyên ngành. Đây là một điểm mới của luật đã thực sự xoá bỏ các thủ

tục phiền hà, hình thức, thực sự tạo cơ hội kinh doanh cho một số nhà đầu tư có
điều kiện sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc quy định như vậy không có nghĩa
là không cần vốn vẫn thành lập được doanh nghiệp, mà các doanh nghiệp phải
đăng ký số vốn tự có khi thành lập và định kỳ báo cáo, cập nhật những thông tin
về vốn với cơ quan đăng ký kinh doanh. Song thực tế ở Hà Tây cho thấy (do
nhiều nguyên nhân) thời gian qua công tác thẩm định hồ sơ đăng ký kinh doanh
còn lỏng lẻo, vốn đăng ký kinh doanh chỉ là hình thức và nhiều cơ sở doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh không báo cáo, không cập nhật thông tin.
Do những thông thoáng của luật cùng với sự tăng lên về số lượng, quy mô
vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây cũng tăng lên gấp bội.
+ Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ 45 doanh nghiệp (1992)
với số vốn 11.025 triệu đồng đến nay (2002) đã có 1293 doanh nghiệp với tổng
số vốn đăng ký là 2950.821 triệu đồng tăng 28,7 lần về số lượng doanh nghiệp,
tăng 267 lần về vốn. [6]
Trong tổng số 1293 doanh nghiệp, có 857 doanh nghiệp (66,4%) vốn dưới 1
tỷ. 378 doanh nghiệp (29,4%) vốn từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ. 42 doanh nghiệp (3,3%)
vốn từ 5 tỷ đến 10 tỷ, 7 doanh nghiệp (0,6%) vốn trên 10 tỷ. Trong 7 doanh nghiệp
có vốn trên 10 tỷ, công ty cổ phần (6), công ty TNHH (1). [6]
Như vậy quy mô vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu
là dự vừa và nhỏ (95,8%). Đây cũng là điều phản ánh rõ tiền thâm của các
doanh nghiệp là từ các hộ cá thể, tiểu chủ phát triển lên.
+ Đối với hộ cá thể kinh doanh.
Quy mô vốn của các hộ các thể kinh doanh rất đa dạng và rất khó xác
định mức bình quân chung. Vì nhiều loại ngành nghề có nhu cầu vốn rất khác
nhau. Nhưng nhìn chung thấp khoảng vài triệu đồng trên hộ. Tuy nhiên, trong
một số lĩnh vực lượng vốn bình quân cao hơn - chẳng hạn trong tiểu thủ công
nghiệp vốn khoản trên dưới 100 triệu đồng.
- Về quản lý Nhà nước.
Với mục tiêu, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thành
lập doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với

doanh nghiệp, luật doanh nghiệp đã chuyển trọng tâm sự quản lý của Nhà nước
từ "Tiền kiểm" sang "hậu kiểm" thực hiện sự giám sát của Nhà nước cùng với
xã hội công luận theo nguyên tắc minh bạch, công khai. Xuất phát từ mục tiêu
đó, Chính phủ đã ban hành nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 về đăng
ký kinh doanh. Theo quy định tại nghị định này, cơ quan đăng ký được tổ chức
ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (thuộc Sở kế hoạch đầu tư) gọi là phòng
đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, ở huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh (trực
thuộc UBND), gọi là phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện. Trong đó phòng
đăng ký kinh doanh cấp huyện có nhiệm vụ đăng ký kinh doanh cho hộ kinh
doanh cá thể, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh có nhiệm vụ đăng ký kinh
doanh cho doanh nghiệp.
Như vậy, chức năng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp các hộ
cá thể kinh doanh thuộc cơ quan đăng ký kinh doanh các cấp.
Thực tế ở Hà Tây cho thấy công tác quản lý Nhà nước đối với khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh tuy đã thu được rất nhiều kết quả song vẫn còn những
hạn chế bất cập, cụ thể:
+ Số hộ cá thể đăng ký kinh doanh thấp so với tổng số hộ theo điều tra.
15.827 hộ/133.382 bằng 11,8%. [6]
+ Công tác thẩm định hồ sơ đăng ký kinh doanh còn hình thức đặc biết sự
phối hợp với các cơ quan chức năng (thuế - quản lý thị trường) quản lý sau đăng
ký kinh doanh còn lỏng lẻo.
Đơn cử: Năm 2002 có 32 doanh nghiệp (2,4%) không tìm thấy địa chỉ,
+ Nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật trong sản xuất
kinh doanh nhưng không kịp thời xử lý.
Tóm lại: Hệ thống quản lý Nhà nước từ tỉnh tới cơ sở đối với khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh còn thiếu và yếu, phân công trách nhiệm chưa rõ ràng,
đặc biệt công tác quản lý sau sau đăng ký kinh doanh còn buông lỏng, chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tế.
* Đánh giá vai trò của khu vực kinh tế NQD ở Hà Tây.
- Những đóng góp chủ yếu

Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây
thời gian vừa qua đã khơi dậy nguồn tiềm năng về đất đai tài sản, tiền vốn, sức
lao động và trí tuệ, kinh nghiệm của mọi tầng lớp nhân dân vào sản xuất kinh
doanh góp phần cho sự phát triển kinh tế xã hội chung của tỉnh. Những đóng
góp của khu vực kinh tế này có thể khái quát như sau:
+ Đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động bình quân khoảng
20% so với tổng số lao động toàn tỉnh.
Cụ thể: [6] + Năm 1998: 161.143 người chiếm 16,9%
+ Năm 2000: 190.972 người chiếm 19,5%.
+ Năm 2002: 218.947 người chiếm 21,2%.
+ Tạo ra nhiều sản phẩm trong nước và xuất khẩu có giá trị cao góp phần
khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống.
+ Huy động được nguồn vốn to lớn trong nhân dân vào sản xuất kinh
doanh và đóng góp một phần đáng kể cho nguồn thu các ngân sách.
Như vậy, trong những năm qua, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà
Tây đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế giải quyết việc làm, tăng
thu ngân sách trên địa bàn tỉnh.
- Những hạn chế và khó khăn.
Bên cạnh những đóng góp to lớn trong thời gian qua, đánh giá tổng quan,
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây còn có những hạn chế và khó khăn
như sau:
Thứ nhất: Quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu đầu tư vào lĩnh vực
sản xuất chế biến nông sản thực phẩm còn ít, sản xuất chủ yếu chạy theo nhu
cầu thị trường do đó mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu quả sản xuất kinh doanh và
sức cạnh tranh còn hạn chế.
Thứ hai: Sự hiểu biết về chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước, trình độ quản lý kinh tế quản trị kinh doanh và tay nghề của chủ doanh
nghiệp và người lao động còn thấp chưa tương xứng với yêu cầu thực tế.
Thứ ba: Sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh cũng như vai trò của các đoàn thể xã hội đã có nhiều chuyển biến tích

cực song nhìn chung mới dừng lại ở việc đề ra các chủ trương, chưa có các biện
pháp cụ thể. Theo số liệu điều tra năm 2001 ở 394 doanh nghiệp chỉ có 42
doanh nghiệp có tổ chức chi bộ Đảng bằng 10,6% và 557 Đảng viên bằng
2,34% số lao động trong các doanh nghiệp có 50 doanh nghiệp có tổ chức công
đoàn bằng 12,7% với số đoàn viên 6.634 người chiếm 27,3% số lao động trong
các doanh nghiệp. [4]
Thứ tư: Hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước từ tỉnh đến huyện đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn thiếu và yếu, phân công trách nhiệm
chưa rõ ràng. Đặc biệt sự phối hợp giữa các ngành chức năng quản lý sau đăng
ký kinh doanh còn lỏng lẻo, chưa đáp ứng với tình hình phát triển của khu vực
kinh tế này.
Thứ năm: Việc thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh còn chậm và chưa làm được nhiều do vậy chưa có tác dụng
khuyến khích, hỗ trợ thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển.
Tóm lại:
Tronghơn 10 năm qua (đặc biệt từ khi có Luật doanh nghiệp) khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất
lượng đã huy động được một nguồn vốn to lớn của mọi tổng hợp dân cư vào
đầu tư phát triển góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc
làm thực hiện xoá đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng thu ngân
sách trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, những kết quả chưa tưng xứng với tiềm năng thực có của khu
vực kinh tế này mà nguyên nhân chủ yếu là: Nhận thức chỉ đạo của các cấp các
ngành còn nhiều hạn chế, đặc biệt công tác quản lý Nhà nước còn chưa đồng bộ,
chưa chặt chẽ, chưa tương xứng với yêu cầu thực tế.
2.2. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NQD Ở HÀ
TÂY NHỮNG NĂM QUA.
2.2.1. Xây dựng bộ máy quản lý ngành thuế.
Cùng với 2 cuộc cải các thuế, bộ máy quản lý ngành thuế ở Hà Tây cũng
được sắp xếp lại tăng cường cả về số lượng và chất lượng.

Từ năm 1990 đến nay, bộ máy quản lý của ngành được kiện toàn trên cả
2 mặt, con người, cơ sở vật chất và cơ cấu tổ chức.
* Về đội ngũ cán bộ và nhân viên thuế.
Hiện nay, ngành thuế Hà Tây có tổng số 1100 cán bộ, công chức, nhân
viên công tác ở tất cả các đơn vị từ cục đến các chi cục. Trong đó: Cục thuế tỉnh
(120), 14 chi cục (780).
Từ năm 1998 đến nay, mặc dù khối lượng công việc tăng lên do khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh song biên chế của ngành không tăng
mà có phần giảm do yêu cầu giảm biên và thực hiện chủ trương "Khoán thu"
của ngành. Đặc biệt, trong số thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn chỉ chiếm
tỷ trọng 12% tổng số thu nhưng số cán bộ, công chức ngành thuế có liên quan
và trực tiếp quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, lại chiếm trên 70% tổng số cán
bộ công chức toàn ngành.
Thực tế cho thấy, những năm gần đây, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và
phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong ngành đã được nâng lên
một bước. Năm 1998 với tổng số 1135 số có trình độ Đại học chỉ chiếm 25%
đến nay đã tăng lên 38% trên tổng số 1100 người. Tuy nhiên số cán bộ có trình
độ Đại học lại không phân bố đều ở tất cả các đơn vị trong ngành mà chỉ tập
trung chủ yếu ở cục và một số chi cục có số thu lớn là Hà Đông, Sơn Tây,
Chương Mỹ.
Có được kết quả trên đây là do từ nhiều năm nay ngành thuế Hà Tây đã
đặc biệt chăm lo đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ cả về phẩm chất đạo
đức và chuyên môn nghiệp vụ.
Cụ thể ngành đã quy định.
- Tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một tiêu
chí để bình xét Đảng viên đánh giá công chức hàng năm và là một tiêu chí xem
xét đề bạt cán bộ.
- Hỗ trợ tiền học phí cho người được cử đi học.
- Đặt ra yêu cầu cán bộ từ cấp tổ trưởng, đội trưởng thuế đến trưởng phó
phòng ban cấp cục phải có trình độ Đại học.

- Định kỳ hàng năm mở từ 2 đến 3 lớp tập huấn cho tất cả cán bộ quản lý
của ngành từ cấp tổ trưởng trở lên về chính sách, pháp luật và chuyên môn
nghiệp vụ thuế.
Cùng với việc quan tâm đào tạo từng bước nâng cao phẩm chất đạo đức,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công chức ngành thuế Hà
Tây đã có nhiều cố gắng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm từng bước
ứng dụng tin học hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế.
Từ năm 1994 việc trang bị máy vi tính, ứng tin học và quản lý thuế lần
đầu tiên được thực hiện ở cục và 3 chi cục có số thu hàng năm lớn là Hà Đông,
Sơn Tây và Chương Mỹ. Tuy nhiên do hạn chế về trình độ, máy vi tính trong
LÃNH ĐẠO CỤC
Các hộ cá thể nộp thuế theo kê khai
Các hộ cá thể ổn định thuếCác doanh nghiệp NQD
Phòng thuế NQDPhòng máy tínhPhòng tổ chức cán bộ Phòng nghiệp vụPhòng thanh traPhòng kế hoạch kinh tếPhòng quản lý ấn chỉChi cục thuế
giai đoạn này mới chỉ dược sử dụng với mục đích đánh văn bản và lưu giữ
những dữ liệu về đối tượng nợ thuế là chính.
Năm 1998, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, đáp ứng việc thực
hiện các luật thuế mới, cục thuế tỉnh đã thành lập phòng máy tính và 100% số
chi cục thuế trực thuộc được trang bị máy tính. Song cho đến nay, trong 14 chi
cục mới chỉ có 3 chi cục (Hà Đông - Sơn Tây - Chương Mỹ) bước đầu ứng dụng
tin học có hiệu quả, giảm được nhiều thao tác, tính toán thủ công trong công tác
quản lý thuế.
Tóm lại: Trong những năm qua, ngành thuế Hà Tây đã có nhiều cố gắng
từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ tăng cường cơ sở vật chất
kỹ thuật nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ thu của ngành. Tuy
nhiên so với yêu cầu phát triển, kết quả mới chỉ là bước đầu, chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tế.
* Về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thu ngoài quốc doanh.
Từ năm 1998 trở về trước, quản lý thu thuế ngoài quốc doanh do các chi
cục thuế huyện thị đảm nhiệm. Thực hiện quy trình thu mới do tổng cục thuế

quy định cục thuế tỉnh thành lập phòng thuế ngoài quốc doanh (chính thức hoạt
động từ ngày 01/01/1999) trực tiếp quản lý các đối tượng doanh nghiệp ngoài
quốc doanh thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ bao gồm các công ty
TNHH, công ty cổ phần doanh nghiệp tư nhân, các HTX, tổ hợp tác (kể cả các
doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý nộp thuế theo phương pháp trực
tiếp).
- Mô hình tổ chức bộ máy quản lý thuế Cục thuế tỉnh Hà Tây.

×