Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng và giải pháp.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.47 KB, 106 trang )

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. GTGT : Giá trị gia tăng
2. KTNQD : Kinh tế ngoài quốc doanh
3. NQD : Ngoài quốc doanh
4. NSNN : Ngân sách Nhà nước
5. TNCT : Thu nhập chịu thuế
6. TNDN : Thu nhập doanh nghiệp
7. TSCĐ : Tài sản cố định
8. TTĐB : Tiêu thụ đặc biệt
9. UBND : Uỷ ban nhân dân
10. XDCB : Xây dựng cơ bản
11. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
12. XNK : Xuất nhập khẩu
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều
thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía
sau quá trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số
thuế thu được trong hiện tại và tương lai, ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh
doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội, thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã
hội…
Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ thuế không chỉ thể hiện ra
là những vấn đề kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế
không những đòi hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật
định mà còn cần đến nghệ thuật tinh tế trong hành thu.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN - hàng năm số thu về thuế chiếm
khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu
chỉnh các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ
thống thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp
bước chuyển của nền kinh tế thì công tác quản lý thuế cần phải thay đổi và


hoàn thiện nhằm đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như
các cam kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những
uy lực vốn có của thuế để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển
sản xuất kinh doanh của mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo
thực hiện đúng nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Ở Việt Nam, hoạt động của khu vực KTNQG đã và đang ngày càng mở
rộng trên khắp các địa bàn trong từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ
sách kế toán, chứng từ hoá đơn còn thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện
tượng khai man trốn thuế, lậu thuế còn nhiều từ đó tạo ra sự bất bình đẳng và
sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy quản lý
thu thuế đối với khu vực KTNQG phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm
thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ thống thuế đặt ra.
Hà Tây là một tỉnh thuộc đồng bằng - trung du Bắc bộ, số thu về thuế
không nhiều, chưa đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong
đó KTNQG đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân
sách địa phương. Nhiều năm qua ngành thuế tỉnh Hà Tây nói chung, thuế
2
NQD nói riêng đã hoàn thành kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao. Nhưng
với tính chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quản lý
thuế ở tỉnh Hà Tây cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm
bảo nuôi dưỡng nguồn thu, thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ tình hình trên, luận văn với đề tài “Quản lý thuế khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây -Thực trạng và giải pháp” hy vọng đưa
ra được một số giải pháp đáp ứng những yêu cầu bức xúc của đời sống kinh
tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có không ít đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về
thuế và công tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối
tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.
- Vũ Công Nhĩ: "Thất thu thuế ở Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân

và giải pháp". Luận án PTS khoa học kinh tế - 1995.
- Nguyễn Thị Hiền: "Một số vấn đề về hoàn thiện hệ thống thuế ở Việt
Nam". Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế - 1997.
- Vũ Thị Toản: "Công tác quản lý thu thuế NQD trên địa bàn Hà Nội".
Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế - 1996.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết thiết thực,
nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức...
Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thuế
NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây.Vì vậy, luận văn nghiên cứu là cần thiết, qua
đó chỉ những nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế NQD, trên cơ
sở đó đề xuất những giải pháp khả thi ở địa bàn tỉnh Hà Tây, nhằm thực hiện
được mục tiêu của hệ thống thuế tại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ.
- Mục đích: Làm rõ những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý thu thuế khu
vực kinh tế NQD ở Hà Tây; đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm tăng cường,
hoàn thiện quản lý thu thuế NQD trên địa bàn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế – xã hội của Hà Tây.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thuế và quản lý thu thuế đối
với khu vực KTNQD.
3
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh
Hà Tây.
+ Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và
tăng cường quản lý thu thuế NQD tại tỉnh Hà Tây
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Ở Việt Nam KTNQD là một khu vực kinh tế đang hình thành và phát
triển, cách hiểu về nó cũng còn nhiều vấn đề chưa thống nhất. Vì vậy, nghiên
cứu về quản lý thu thuế khu vực KTNQD, đề tài chỉ tập trung tìm hiểu công
tác quản lý thuế đối với các đơn vị trong các hoạt động sản xuất kinh doanh -

dịch vụ gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp
tư nhân, Hộ kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ.
Cũng do điều kiện và mục đích nghiên cứu, luận văn chỉ giới hạn việc
khảo sát, đánh giá khu vực KTNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong một số
năm gần đây- chủ yếu là từ năm 2000, khi Luật doanh nghiệp được thực hiện
đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn kết hợp sử dụng nhiều
phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
thống kê, so sánh để rút ra những kết luận cần thiết.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Chỉ ra thực trạng, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những
tồn tại trong công tác quản lý thuế đối với khu vực KTNQD ở tỉnh Hà Tây.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác
quản lý thu thuế NQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Tổng quan về thuế và quản lý thuế ngoài quốc doanh
4
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh ở Hà Tây.
Chương 3: Những quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện công
tác quản lý thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Hà Tây
những năm tới.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ
KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ
1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế
- Khái niệm - bản chất:
Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng
thời cũng là một phạm trù lịch sử – thuế ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự
ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Trong thời kỳ Cộng sản nguyên
thuỷ, khi điều kiện lao động của con người còn thô sơ, con người lao động đủ
để duy trì sự sống của mình, chưa có Nhà nước lúc đó xã hội chưa biết thuế là
gì. Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, xã hội loài người có sự phân
chia thành giai cấp và đấu tranh giữa các giai cấp, Nhà nước ra đời. Để duy trì
bộ máy Nhà nước, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, quốc phòng – an
ninh .., đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn tài chính để chi tiêu. Nguồn tài chính
này có được là do sự đóng góp của mọi thành viên trong xã hội và sự đóng
góp này mang tính bắt buộc. Theo Ph.Ăngghen: “Để duy trì quyền lực công
cộng cần phải có sự đóng góp của những người công dân cho Nhà nước, đó
thuế má” (14, tr.552). Với tiến trình phát triển của xã hội loài người, Nhà
nước xuất hiện, thuế cũng từ đó ra đời, tồn tại và phát triển
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ
làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
ở chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có
5
thêm nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày
càng nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm công việc chăm lo đời
sống, văn hoá, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với
nhiều sắc thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế
Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở
rộng, đòi hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng
lên. Điều đó, không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tổ chức
kinh tế, đó là thuế.
Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước

và thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra
sản phẩm thặng dư. Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, sự chuyển
dịch giá trị sản phẩm thặng dư từ thành phần kinh tế này sang thành phần
kinh tế khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác rất đa dạng và phức tạp. Cho
nên, đứng trên giác độ toàn xã hội, đòi hỏi phải có hệ thống thuế để điều tiết
thoả đang số sản phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công bằng.Vì
vậy, khi xã hội càng văn minh thì thuế khoá lại càng đa dạng và phát triển.
Tóm lại, quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy,
thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại
tất yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của Nhà nước.
Trên các sách báo kinh tế, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt
đối khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra
mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh
đầy đủ bản chất chung của phạm trù này. Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển
thì thuế được quan niệm rất đơn giản: “Thuế khoá là cái vú sữa của Chính
phủ” [13, tr317].
Sau này khái niệm về thuế được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn
Từ điển Kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes
cho rằng: “Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải
và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc
chi tiêu hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản”.
Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn
“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ như sau:
6
Thuế nhà nước là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc
hàng hoá, dịch vụ) của các Công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ, mà
trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá
hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp thuế đó không phải là tiền phạt mà toà
án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật” [31, tr.10].

Ở nước ta cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo
một số nhà nghiên cứu: Thuế là hình thức động viên, phân phối và phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo pháp luật của
Nhà nước quy định, nhằm đáp ứng những khoản chi tiêu cần thiết của
Nhà nước. Đó là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức (chủ yếu là
tổ chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính
bắt buộc không hoàn trả trực tiếp [11, tr.1].
Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu về thuế, các nhà kinh tế
cho rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật các
khía cạnh sau đây: Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ
tiền tệ giữa Nhà nước với pháp nhân và thể nhân; những mối quan hệ dưới
dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc
biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh Nhà
nước, xét theo khía cạnh luật pháp thuế là khoản nộp cho Nhà nước được
pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về thuế kể
trên có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một
khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho
Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, nhằm sử
dụng cho mục đích công cộng [31, tr.11].
- Đặc điểm của thuế:
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có
của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển.
Nghiên cứu về thuế người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt
với các công cụ tài chính khác.
+ Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong
xã hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự:
7
Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó
phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc

điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được
hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc
động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước mà kết quả của quá trình
đó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà
nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác
trực tiếp cho người nộp thuế.
Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn
từ những lý do sau:
Thứ nhất: hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không
gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương
pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công
cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối
tượng có thu nhập phải chuyển giao.
Thứ hai: trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng
về hàng hoá công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó thì thu
nhập về hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các
chi phí bỏ ra. Nhưng hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không
thể phân bổ theo “khẩu phần” để sử dụng và người thụ hưởng cũng không
muốn sử dụng theo “khẩu phần”. Mặt khác, hàng hoá công cộng không có
tính cạnh tranh và không thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp
các chi phí. Chính vì vậy trong việc cung cấp hàng hoá công cộng đã xuất
hiện những “người ăn không”, nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc
thụ hưởng hàng hoá công cộng. Do đó, để đảm bảo cung cấp hàng hoá công
cộng, Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc “người ăn
không” phải chuyển giao thu nhập từ khu vực tư sang khu vực công.
Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là
hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có
biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa
vụ của người công dân.
Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài

chính khác của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền.
8
Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ
xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại
đến lợi ích Nhà nước hoặc cộng đồng. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói
chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và
lệ phí chỉ xảy ra khi người trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do
Nhà nước cung cấp.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính hoàn
trả trực tiếp:
Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính
chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà
nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch
vụ hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế cũng không
có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực
tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước; mặt
khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết
ngang bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ
căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội
cũng như nhu cầu tài chính cung của Nhà nước.
Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được
hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một
phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng,
giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ
nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế và
các khoản phí, lệ phí.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước
bằng luật pháp:
Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác

phản ánh sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tuỳ tiện mà dựa trên
những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong các luật
thuế, pháp lệnh thuế, đó là: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế
phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
9
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh
hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất
định:
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả thị trường (trong nước
và quốc tế), sự biến động của NSNN, ….
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị
của Nhà nước, tâm lý, tập quán của tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã
hội của dân tộc…
Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội nên
người ta thường nói đến thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được
giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà
nước đối với con người và tài sản:
Các đạo luật về thuế chỉ có tác dụng điều tiết các hoạt động kinh tế và
sự chuyển giao thu nhập trong khuôn khổ biên giới của mỗi quốc gia, nơi
mà quyền lực pháp lý của nhà nước được duy trì. Điều này cũng có nghĩa
là, trong các hoạt động kinh tế quốc tế, các giao dịch diễn ra ở nước ngoài
phải chịu sự chi phối của luật pháp nói chung, những quy định về thuế nói
riêng của nước ngoài. Chính vì điều này, trong quá trình hội nhập quốc tế,
các quốc gia phải xây dựng hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ
quốc tế để tạo thuận lợi cho các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước.
Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản
chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng
ta phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều

phương diện khác nhau.
1.1.2. Vai trò của thuế
+ Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà nước:
Bất kỳ một chế độ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều
phải tạo cho mình một nền tài chính quốc gia vững chắc và lành mạnh,
trong đó nguồn tài chính chủ yếu được động viên từ thuế và phí ở nội bộ
nền kinh tế quốc dân.
10
“Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN”. Ở nước ta từ khi có các
luật thuế ra đời, nguồn thu từ thuế ngày càng tăng lên, ngày càng chiếm
tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách, năm 1990 đạt 86%; năm 1997
đạt 87%, năm 1998 đạt 88%,đến nay khoảng 90% [23, tr.10]. Vai trò của
thuế thực sự được nâng lên và thể hiện rõ trong quản lý điều tiết vĩ mô
nền kinh tế
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý và điều
tiết của Nhà nước, thuế được áp dụng thống nhất đối với các thành phần
kinh tế không phân biệt kinh tế Nhà nước và KTNQD, nó bao quát và
điều tiết các hoạt động kinh doanh, mọi nguồn thu nhập, mọi tài nguyên
thiên thiên và mọi hoạt động tiêu dùng trong xã hội.
Chính sách động viên về thuế có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu
vững chắc, lâu dài cho NSNN. Cơ chế thuế suất không nên quá phức tạp,
quá cao mà cần nghiên cứu và tính toán dựa trên những căn cứ khoa học
và sự phát triển của nền kinh tế sẽ phù hợp hơn với khả năng đóng góp
của đối tượng nộp thuế, đảm bảo nguồn thu ngân sách được ổn định
thường xuyên. Thuế suất được điều chỉnh giảm có thể sẽ dẫn đến phát
sinh lo lắng không đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Nhưng trên thực tế
nếu hệ thống thuế hợp lý, thuế suất ở mức vừa phải thì sẽ tranh thủ được
sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, đối tượng nộp thuế thấy
mức thuế hợp lý sẽ tự nguyện khai báo nộp thuế tốt hơn. Diện thu thuế
được mở rộng, diện miễn giảm thu hẹp, vừa được lòng dân vừa đảm bảo

nhiệm vụ thu theo kế hoạch. Tỷ lệ động viên về thuế cần tính toán khoa
học, đầy đủ mọi khoản đóng góp cho NSNN, bao gồm mọi khoản thuế,
phí và lệ phí. Cần khắc phục tình trạng các ngành, các địa phương tuỳ
tiện đặt ra các khoản thu trái với quy định của Nhà nước.
Thuế tạo nguồn thu cho NSNN, nhưng nguồn thu đó được hình
thành trên cơ sở nền kinh tế tăng trưởng và đạt hiệu quả cao. Đây là vấn
đề luôn được các quốc gia quan tâm đúng mức trong quá trình hoạch
định chính sách và tổ chức quản lý thu thuế.
+ Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước dùng để quản lý điều tiết vĩ
mô nền kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng
11
hoá, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một chính sách thuế đặt ra
không chỉ đơn thuần tạo nguồn thu cho NSNN, mà quan trọng hơn là
thực hiện chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh
tế thị trường. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, cơ chế thị
trường cũng là môi trường làm nảy sinh những khuyết tật vốn có của
nó. Vì vậy, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ
kinh tế, tron đó đặc biệt là công cụ thuế nhằm tạo lập các cân đối vĩ
mô, điều tiết thị trường, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội.
Sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt: khuyến
khích và hạn chế. Điều đó được thể hiện ra trong việc xây dựng cơ cấu
các loại thuế và mối quan hệ giữa chúng cũng như việc xác định thuế
suất, chế độ miễn - giảm thuế phù hợp với điều kiện thực tế. Khuyến
khích đối với những ngành nghề những hoạt động sản xuất kinh doanh
phục vụ cho đại đa số quần chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp.
Hạn chế, thu hẹp những ngành nghề không có lợi cho sự phát triển của

nền kinh tế, cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hoặc những ngành nghề
ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, đến sức khoẻ của nhân dân thì áp
dụng thuế suất cao. Trong nền kinh tế thị trường, các thành phần tự do
lựa chon ngành nghề nào mang lại lợi nhuận cao nhất mà không tính đến
hậu quả để lại sau quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà nước dùng công cụ
thuế để điều chỉnh và hướng các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào
con đường phát triển có hiệu quả mang lại nhiều lợi ích cho quốc kế dân
sinh.
Trong điều kiện hiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam
thể hiện rất rõ quan điểm khuyến khích các ngành nghề sản xuất hơn là
các hoạt động thương mại, dịch vụ. Sản xuất các mặt hàng thiết yếu được
khuyến khích hơn sản xuất các mặt hàng và dịch vụ khác. Để khuyến
khích các ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay
thế hàng nhập khẩu cần thiết khi trong nước chưa sản xuất được hoặc sản
xuất được hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu hay đầu tư vào
12
những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng không thuận lợi cho sức
khoẻ, sinh hoạt người dân,… Nhà nước thường áp dụng thuế ưu đãi để
thúc đẩy kinh tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ theo hướng có
lợi cho quốc kế dân sinh.
Hiện nay, Nhà nước ta sử dụng tổng hợp hệ thống chính sách thuế,
nhằm: khuyến khích mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở bình đẳng trước pháp
luật; góp phần thúc đẩy việc khai thác tư nguyên liệu trong nước, tranh
thủ vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế hàng
hoá đẩy mạnh xuất nhập khẩu đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích luỹ; bào
đảm lợi ích; bảm đảm lợi ích giữa Nhà nước và xã hội, lợi ích của các
bên hợp tác, vừa đảm bảo sản xuất trong nước phát triển nâng cao đời
sống của người dân.
+ Thuế góp phần điều hoà thu nhập thực hiện công bằng xã hội

trong phân phối:
Theo Adam Smith, nền kinh tế thị trường tự do không có sự điều
chỉnh, can thiệp của Nhà nước, mà được điều tiết bởi “bàn tay vô hình”.
Đó là nền kinh tế tự điều chỉnh và hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, lịch
sử cũng cho thấy kinh tế thị trường tự do chứa đựng những mặt trái hay
những “khuyết tật” khó tránh khỏi. Nổi bật trong những “khuyết tật” đó
là vấn đề phân phối thu nhập. Trong điều kiện phân phối thu nhập của thị
trường tự do, một bộ phận dân cư sẽ giàu lên nhanh chóng, trong khi đó,
đại đa số lao động trở nên nghèo túng và đời sống càng khó khăn hơn.
Tình trạng trên không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức, công bằng xã
hội mà còn tạo nên tình trạng lũng đoạn, độc quyền và lâu dài sẽ không
thể đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng được.
Trong thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự đóng
góp của cộng đồng, của toàn xã hội. Chính vì vậy mà thành quả kinh tế
đạt được trong hiện tại và tương lai phải được phân phối trên cơ sở của
cộng đồng. Cho nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước trong quá trình
phân phối thu nhập, sự phân phối này chủ yếu nhờ vào công cụ thuế để
điều tiết. Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, thì vai trò tạo sự bình đẳng
13
giữa các thành phần kinh tế và người dân trong động viên điều tiết thuế và
công bằng xã hội ngày càng được nâng cao hơn, bao quát hơn.
Sự thành công trong việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta
trong những năm qua là: hệ thống thuế mới được áp dụng chung cho các
ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh, không phân biệt thành phần
kinh tế cũng như các tầng lớp nhân dân nhằm mục tiêu đảm bảo sự công
bằng bình đẳng trong điều tiết. Sự bình đẳng, công bằng thể hiện thông qua
các chính sách động viên như nhau giữa các thành phần kinh tế, chủ thể sản
xuất kinh doanh và mọi tầng lớp dân cư. Thông qua một hệ thống các sắc
thuế, Nhà nước điều chỉnh mức thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội,

người có thu nhập cao phải đóng thuế cao và ngược lại (thể hiện thông qua
hoạt động tiêu dùng chịu sự điều tiết của các sắc thuế gián thu và thuế thu
nhập đối với những người có thu nhập cao). Tổ chức và cá nhân kinh doanh
có lợi nhuận cao phải đóng góp thuế cao hơn những tổ chức và cá nhân
kinh doanh có lợi nhuận thấp (thể hiện ở sắc thuế TNDN).
1.2. KHU VỰC KTNQD VÀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI KTNQD
1.2.1. Đặc điểm của kinh tế NQD
Kinh tế thị trường hình thành và phát triển trên cơ sở của sở hữu tư
nhân và các loại hình kinh tế tư nhân là hình thức thống trị trong các nền
kinh tế thị trường tự do.
Cùng với sự gia tăng vai trò của nhà nước đối với đời sống kinh tế,
kinh tế thị trường tự do đã phát triển thành nền kinh tế hỗn hợp gồm hai
khu vực lớn: Kinh tế Nhà nước và kinh tế phi nhà nước hay như chúng ta
nói - KTNQD.
Khu vực kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở của sở hữu nhà nước chủ
yếu thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công cộng, mục tiêu cơ bản là
lợi ích chung của toàn xã hội - đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả, công
bằn và ổn định cho toàn bộ nền kinh tế.
Khu vực KTNQD là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân
hoạt động kinh doanh bằng vốn của các tổ chức, của một số cá nhân góp
lại; hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận.
Trong cơ cấu sản xuất xã hội, KTNQD được coi là một thực thể khách
quan, gồm các thành phần kinh tế được xác định tuỳ theo đặc điểm kinh
14
tế - xã hội và đường lối chính trị của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn
khác nhau như, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế tư
bản Nhà nước… KTNQD có nhiều đặc điểm riêng biệt, nhưng có thể
khái quát một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ yếu, được tổ
chức ở đủ loại quy mô lớn, vừa và nhỏ, nhưng đều do tư nhân quản lý và

phân phối lợi nhuận.
+ Số lượng cơ sở rất lớn, thường xuyên biến động, tuỳ thuộc vào
tình hình kinh doanh (chu kỳ kinh tế) và chính sách, chế độ của Nhà
nước trong từng thời kỳ.
+ Hoạt động trong hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Ở các
nước phát triển, KTNQD bao gồm cả những tập đoàn kinh doanh xuyên
quốc gia, có ảnh hưởng không chỉ đối với nền kinh tế trong nước mà còn
chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế – tài chính quốc tế.
+ Số thu hàng năm chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng số thu ngân
sách nhà nước (Tỷ trọng này khác nhau đối với các nước: ở các nước phát
triển, thu từ khu vực KTNQD là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước,
ngược lại, ở các nền kinh tế đang phát triển, do khu vực KTNQD còn nhỏ bé,
sự tham gia của chúng vào tiến trình tăng trưởng cũng như thu ngân sách chỉ
với mức khiêm tốn hơn).
+ Mục tiêu của chủ doanh nghiệp trong khu vực KTNQD chính là
lợi nhuận. Do vậy một mặt, các cơ sở KTNQD cạnh tranh quyết liệt với
nhau trong kinh doanh; mặt khác, trong quan hệ với nhà nước, không ít
cơ sở luôn tìm mọi cách, mọi sơ hở của cơ quan thuế, cán bộ thuế, chính
sách, chế độ, để luồn lách, trốn thuế.
Các hình thức tồn tại phát triển của khu vực KTNQD rất đa dạng
với số lượng, ý thức trong việc thực hiện luật pháp với mức độ khác
nhau, tuỳ theo trình độ phát triển ở mỗi quốc gia. Song rõ ràng đây là
một lĩnh vực phức tạp trong quản lý thuế.
Sự phát triển ở khu vực KTNQD ở nước ta những năm qua đã tạo
thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao
động, góp phần không nhỏ vào sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế.
- Ưu nhược điểm của kinh tế NQD:
15
KTNQD có tiềm năng lớn về trí tuệ, kiến thức, tiền vốn, lao động,
sản phẩm, hợp tác, liên doanh, liên kết…

+ Tiềm năng quan trọng nhất của KTNQD là khả năng vô tận về trí
tuệ, sáng kiến cá nhân trong đội ngũ những người lao động, trong nhân
dân. Kinh nghiệm của các nước có nhiều thành công phát triển kinh tế
(Hồng Kông, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản, Hàn Quốc…) cho thấy các
tiềm năng bên trong như đất đai, tiền vốn trong thời kỳ đầu của sự phát
triển ở các nước này đều rất hạn chế. Nhưng nhờ phát huy được trí tuệ,
sáng kiến cá nhân và đầu tư xây dựng kinh tế, đồng thời có sự quản lý
đúng đắn của Nhà nước,cho nên chỉ sau một thời gian không dài đã làm
nên những kỳ tích vĩ đại trong phát triển kinh tế.
Đối với nước ta, khi công cuộc đổi được triển khai từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, nhiều sáng kiến cá nhân của quần chúng lao động,của
nhân dân đã và đang được phát huy cả trong lao động sản xuất cũng như trong
việc tìm tòi các hình thức kinh tế thích hợp, năng động, từng bước đáp ứng
yêu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của thị trường.
+ Tiềm năng về kiến thức, kinh nghiệm quản lý, nâng cao tay
nghề, đặc biệt là phát huy kiến thức, bí quyết truyền thống được tích lũy
qua nhiều đời là nguồn tiềm năng vô cùng to lớn cho sự tăng trưởng kinh
tế nếu được khởi động với những chính sách, chủ trương thích hợp. Hiện
nay nguồn “chất xám” của KTNQD cũng rất đa dạng, có loại được Nhà
nước đào tạo trong các trường chính quy từ công nhân, kỹ sư, nhà kinh
tế đến các thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư… Có loại cá nhân tự bỏ
tiền ra để học lấy một nghề nhất định ở trong hoặc ngoài nước. Có loại
do doanh nghiệp NQD sau khi tuyển dụng lao động bỏ tiền đào tạo hoặc
đào tạo lại.
+ Nguồn vốn trong khu vực KTNQD nối tiếp từ thế hệ này sang
thế hệ khác đã và đang được tích luỹ ngày càng lớn. Ở hầu hết các nước
có lịch sử phát triển kinh tế thị trường lâu đời, nguồn vốn đầu tư từ phía
Nhà nước không đáng kể (chiếm từ 13% - 30% tổng vốn đầu tư). Các
nước đều có chính sách thoả đáng để huy động nguồn lực to lớn từ
nguồn vốn của KTNQD. Nếu Chính phủ có chính sách đúng đắn, tạo môi

trường thuận lợi, tạo lòng tin trong nhân dân, nhất định họ sẽ sẵn sàng bỏ
16
vốn đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ.
+ KTNQD có tiềm năng lao động to lớn và góp phần đáng kể vào
việc giải quyết việc làm cho xã hội. Ở nước ta hàng năm bình quân có
khoảng 1,243 triệu người đến tuổi lao động, bao gồm: lực lượng thanh
niên đến tuổi lao động, số học sinh tốt nghiệp dạy nghề, trung học, cao
đẳng, đại học hoặc những người lao động thất nghiệp do sắp xếp lại biên
chế trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp hoặc do sắp xếp lại
sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân, những người bán thất nghiệp
ở nông thôn, thành thị. Đây là nguồn lao động rất dồi dào mà Nhà nước
ta chưa khai thác hết được. Nếu chỉ thông qua các doanh nghiệp Nhà
nước thì sẽ không thu hút được hết những người lao động. Thực tế trong
những năm qua cho thấy, ở thời điểm cao nhất kinh tế Nhà nước chỉ thu
hút khoảng 2 triệu lao động. Trong khi đó riêng kinh tế NQD trong công
nghiệp và dịch vụ năm 1992 đã thu hút trên 1,2 triệu lao động [5]. Chỉ
thông qua KTNQD với mọi hình thức, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề,
áp dụng nhiều phương thức tổ chức, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề,
áp dụng nhiều phương thức tổ chức, sử dụng một cách linh hoạt mọi loại
lao động của xã hội mới có thể tận dụng được các lực lượng dôi thừa.
Ở các nước Tây Âu, hơn 70% kết quả tăng trưởng của nền kinh tế
là do lao động tạo ra, 30% còn lại là do tiền vốn thiết bị. Đối với Việt
Nam có đội ngũ lao động đông đảo, nếu biết cách phát huy và khai thác
thì đó là một lợi thế lớn cho phát triển kinh tế.
Lao động của KTNQD ở Việt Nam còn có tiềm năng quan trọng
được bộc lộ rõ thông qua quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, bộ máy Nhà nước đã
bành trướng quá mức. Khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN với cơ chế quản lý mới có sự quản lý của Nhà nước, chính khu

vực kinh tế Nhà nước đã là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào cho
KTNQD. Theo tài liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế
Trung ương, đã có 72% giám đố các Công ty trách nhiệm hữu hạn đã
từng là công chức Nhà nước, 10,4% giám đốc các Công ty này đã từng là
giám đốc doanh nghiệp Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp tư nhân,
17
30% giám đốc đã từng là cán bộ công chức Nhà nước. Khi chuyển sang
lĩnh vực KTNQD, không những họ đã sử dụng trình độ lành nghề trong
kinh doanh mà còn có vả vốn liếng tích luỹ được (bằng tiền trợ cấp thôi
việc, bằng tiền hưu trí…), thậm chí máy móc kỹ thuật từ nguồn thanh lý,
giải thể của các doanh nghiệp Nhà nước. Điều này có thể lý giải phần
nào tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khi một bộ phận
lớn của kinh tế Nhà nước bị thu hẹp, giải thể hoặc ngững do làm ăn thua
lỗ, không thích ứng được với cơ chế kinh tế mới [5].
+ KTNQD còn là môi trường thuận lợi để hợp tác kinh tế với nước
ngoài. Trong nền kinh tế mở hiện nay, sự giao lưu với các nước phát
triển mạnh về mọi mặt đó là một tất yếu khách quan. Đại hội Đảng lần
thứ IX đã xác định:
Phát triển đa dạng kinh tế Nhà nước dưới các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước,
ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh;
chú trọng phát triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều
hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước,
ngoài nước [32, tr.99].
Tại các nước, liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do KTNQD
thực hiện vì là khu vực năng động, làm ăn có hiệu quả, thích ứng nhanh
với sự biến động hoặc thay đổi của thị trường, của khách hàng. Trong
khi đó ở nước ta hiện nay, các liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do
kinh tế Nhà nước thực hiện. Nhiều Việt Kiều về quê hương gặp không ít
khó khăn trong việc tìm đối tác liên doanh

+Sự đa dạng của KTNQD tạo ra nguồn sản phẩm đa dạng, phong
phú đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng của xã hội ở mọi nơi, mọi thời điểm.
Thực tế nhiều năm qua ở các nước XHCN và ở Việt Nam đều cho thấy
nền kinh tế chủ yếu dựa trên KTQD thì hàng hoá sẽ nghèo nàn về chủng
loại, số lượng. ở Liên Xô cũ, sau 70 năm xây dựng CNXH với các doanh
nghiệp Nhà nước chỉ có 10 triệu loại sản phẩm. Trong khi đó ở Nhật Bản
một nước nhỏ bé hơn nhiều về dân số và diện tích có tới 1,4 triệu doanh
nghiệp với hơn 50 triệu loại sản phẩm.
18
Ở nhiều nước Đông Nam Á, KTNQD đang được đánh giá là nguồn
chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu,có thể
tạo thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng lên rất nhanh.
Đường lối phát triển kinh tế - xã hội dựa vào KTNQD về cơ bản là
một chiến lược hướng vào thị trường. KTNQD có thể quyết định và điều
chỉnh nhanh chóng sản xuất cái gì, đầu tư vào đâu để có lợi nhuận nhiều
nhất. Ở các nước đang phát triển, KTNQD trở thành động lực kích thích
kinh tế phát triển tốt hơn so với sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào
quá trình kinh tế và dựa vào kinh tế Nhà nước là chủ yếu.
Việt Nam, tuy KTNQD mới được công nhận và phục hồi nhưng
trong những năm qua đã xác định được chỗ đứng xứng đáng, có vai trò
quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Sự đóng góp của KTNQD không chỉ dừng lại ở việc làm tăng tổng
sản phẩm trong nước, thêm nhiều hàng hoá với nhiều mẫu mã đẹp, giá cả
hợp lý mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho giải quyết việc làm, nâng
cao đời sống xã hội, cả cho người sản xuất lẫn người tiêu dùng.
Từ một số thế mạnh của KTNQD, có quan điểm muốn tư nhân hoá
một cách triệt để nhằm huy động được tối đa mọi nguồn lực, khai thác
mọi tiềm năng, lợi thế đang tiềm ẩn trong KTNQD. Thực ra, quan điểm
này chưa thấy hết được những khiếm khuyết của KTNQD. Tuy là một
khu vực năng động nhưng thiếu định hướng và không bao quát hết mọi

nhu cầu xã hội, tự phát theo cơ chế thị trường, trốn tránh sự kiểm tra,
kiểm soát của các cơ quan Nhà nước, không ít cơ sở đã hoạt động vô
Chính phủ, kinh doanh trái phép buôn bán trốn lậu thuế. Điều đó càng
trở lên khó khăn, phức tạp đối với một nền kinh tế sản xuất nhỏ, phân
tán, chưa quen với văn minh công nghiệp, hệ thống pháp luật chưa đồng
bộ, chưa hoàn thiện như ở nước ta.
Việc khuyến khích KTNQD để phát triển kinh tế - xã hội không đồng
nghĩa với việc buông lỏng quản lý, để mặc cho các thành phần kinh tế tự do
phát triển. Ngược lại, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý, định hướng, phải có
hệ thống pháp luật được thể chế hoá đẩy đủ rõ ràng cả ở tầm vĩ mô lẫn vi
mô, để có thể phát huy đến mức tối đa mặt tích cực và hạn chế đến mức
thấp nhất mặt tiêu cực của KTNQD trong cơ chế thị trường.
19
1.2.2. Yêu cầu và nội dung của công tác quản lý thu thuế NQD
Trên thực tế, hệ thống thuế là một chỉnh thể không thể chia cắt –
không quốc gia nào áp dụng riêng biệt những sắc thuế cho khu vực kinh
tế nhà nước hay khu vực KTNQD. Ở các nền kinh tế phát triển, hầu hết
các đơn vị kinh tế đều dựa trên sở hữu phi nhà nước và chính sách thuế
của nhà nước chính là thuế đối với khu vực kinh tế này.
Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là một chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam, do đó
trong tiến trình đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt
chú ý tới việc xây dựng chính sách thuế đảm bảo cho sự phát triển bình
đẳng của mọi thành phần kinh tế, trong đó có việc khuyến khích sự phát
triển của KTNQD. Vì vậy, trong phần này, khi nói đến yêu cầu và nội
dung cơ bản của công tác quản lý thuế đối với khu vực KTNQD chủ yếu
là nói trên cơ sở những quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam trong
việc xây dựng và thi hành chính sách thuế.
1.2.2.1. Mục tiêu yêu cầu của quản lý thu thuế NQD:
* Mục tiêu:

Là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý tài
chính Nhà nước, quản lý thuế không thể tách rời quản lý Nhà nước nói
chung và quản lý Nhà nước về kinh tế nói riêng.
Công tác quản lý thuế trong nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được
các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sở
không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, số thu bằng thuế hàng năm
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số thu của NSNN. Vì vậy, làm tốt công
tác quản lý thuế sẽ có tác dụng lớn trong việc tập trung, huy động đầy đủ,
kịp thời số thu cho NSNN.
Mặt khác, các chính sách thuế, dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác
động đến thu nhập của các tổ chức kinh tế và cá nhân, qua đó tác động
đến quá trình phát triển - cơ sở tạo ra nguồn thu thuế trong tương lai. Để
tăng trưởng và ổn định số thu của NSNN trong tương lai, trong công tác
20
quản lý thuế cũng cần chú ý duy trì và phát triển các cơ sở tạo ra nguồn
thu thuế. Về vấn đề này, người Pháp có câu nói rất nổi tiếng: "Hãy cắt
lông cừu chứ đừng lột da nó", và câu chuyện ngụ ngôn "Con gà đẻ trứng
vàng" đáng để cho chúng ta ghi nhớ.
- Phát huy tốt nhất vai trò của thuế trong nền kinh tế.
Vai trò của thuế mang tính toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Song,
những vai trò đó không mang tính tự nó, mà là kết quả của những hoạt
động của chính con người. Những hoạt động này được thực hiện thông
qua những nội dung, những công việc cụ thể của công tác quản lý thuế.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và
dân cư.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước thông qua công cụ luật
pháp để thực hiện sự tác động vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Ý thức chấp
hành luật pháp của các tổ chức kinh tế và dân cư sẽ có ảnh hưởng không

nhỏ đến việc thực hiện những tác động của Nhà nước đến nền kinh tế.
Qua công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các
luật thuế cùng với việc tăng cường tính pháp chế của các luật thuế, ý thức
chấp hành các luật thuế được nâng cao, từ đó tạo thói quen "Sống và làm
việc theu pháp luật" trong mọi tầng lớp dân cư.
Để đạt được các mục tiêu trên, công tác quản lý thuế cần tuân chủ
một số nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nguyên tắc công khai.
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.
* Yêu cầu:
- Tuyên truyền giáo dục sâu rộng chính sách, chế độ thuế:
Cần tập trung mọi hình thức thích hợp tăng cường việc tuyên
truyền, giải thích chính sách, chế độ thuế sâu rộng làm cho mọi người dân
hiểu được thuế của ta là "của dân, do dân, vì dân", xoá bỏ ấn tượng xấu về
thuế là hình thức bóc lột, bần cùng hoá nhân dân dưới thời thực dân,
phong kiến ở nước ta. Từ đó từng bước nâng cao dân trí về nghĩa vụ công
dân đối với thuế. Cần đưa chính sách, chế độ thuế cho dân trao đổi, quán
triệt và dân chủ bàn bạc về biện pháp triển khai thích hợp nhằm đạt hiệu
21
quả cao nhất và khắc phục được phiền hà không cần thiết đối với các nhà
doanh nghiệp. Thông qua các cuộc họp, giải đáp những thắc mắc cụ thể
trong các tầng lớp nhân dân, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ công tác thuế,
xây dựng lực lượng hậu thuẫn vững chắc kiên quyết đấu tranh, lên án trốn
lậu thuế: uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và những sai sót trong
đăng ký thuế, trong việc nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ hoá đơn, sổ
sách kế toán, kê khai, nộp thuế...
Thực hiện quan điểm quần chúng của Đảng trong công tác tuyên
truyền, giáo dục về thuế không chỉ là "truyền đạt" một chiều từ trên xuống
mà thông qua công tác quản lý thường xuyên, cán bộ thuế phải thấy được

những khó khăn thực tế phát sinh trong tổ chức thực hiện. Phải khách
quan lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các nhà doanh nghiệp, trung thực
phản ánh ý kiến lên trên nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để chính sách thuế,
chế độ thuế ngày càng phù hợp với trình độ và khả năng đóng góp của
nhân dân.
- Tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng và chính
quyền các cấp:
Thuế là một trong những chính sách kinh tế lớn của Đảng và Chính
phủ. Cơ quan thuế cần chủ động báo cáo các kế hoạch, chương trình công
tác để cơ sự chỉ đạo điều hành của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp.
Mỗi cấp uỷ, UBND coi thuế là một công tác trọng tâm của đơn vị mình.
Thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện công tác thuế trong từng
thời kỳ cùng với các công tác khác về quản lý kinh tế - tài chính trên địa
bàn. Việc tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền
không có nghĩa là khi có khó khăn mới đến kêu gọi giúp đỡ. Cơ quan thuế
phải chủ động thực hiện đều đặn chế độ báo cáo để cấp uỷ và chính quyền
nắm chắc được quá trình thực hiện chính sách thuế, cả thuận lợi và khó
khăn. Cấp uỷ và chính quyền sẽ tăng cường công tác giám sát, đề cao
pháp chế XHCN, thiết lế kỷ cương theo yêu cầu của cơ chế quản lý mới,
khen thưởng, động viên những đơn vị, cá nhân chấp hành nghiêm chỉnh
các luật thuế, hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế. Đồng thời phê phán trong nội
bộ hoặc sử dụng đài báo gây thành dư luận lên án trốn lậu thuế, dây dưa
22
tiền thuế, xử lý nghiêm minh tập thể, cá nhân vi phạm chính sách thuế,
pháp luật thuế, làm thất thu thuế...
Mỗi cấp uỷ, UBND cần có chương trình kế hoạch cụ thể, thiết thực
cho việc lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện giúp đỡ, đôn đốc, kiểm tra các tổ
chức chính quyền, đoàn thể quần chúng, xã hội thực hiện tốt chương trình,
kế hoạch công tác về thuế. Cử một cấp uỷ viên hoặc uỷ viên UBND có
năng lực thay mặt cấp uỷ, UBND trực tiếp chỉ đạo công tác thuế trên địa

bàn.
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan và
các đoàn thể quần chúng, xã hội.
Thuế là một mặt trận đấu tranh gay go, phức tạp, thậm chí quyết liệt
giữa lợi ích cục bộ cá nhân, tập thể với lợi ích chung của toàn xã hội...
Đây không thể là công việc đơn độc của ngành thuế, của cán bộ thuế mà
phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ có liên quan và các đoàn thể quần
chúng, xã hội làm chỗ dựa vững chắc cho việc triển khai chính sách thuế.
Một mặt cơ quan thuế sẽ có thêm nhiều thông tin chính xác, đầy đủ về
hoạt động kinh doanh thực tế trong từng ngành nghề, từng địa bàn, thêm
những tài liệu "sống" cho việc đấu tranh chống thất thu thuế có hiệu quả,
đồng thời thêm lực lượng cưỡng chế để đảm bảo xử lý có hiệu quả về nợ
đọng, dây dưa tiền thuế, chống đối, hành hung cán bộ thuế. Mặt khác,
thông qua sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng, xã hội, các cơ
quan thông tin tuyên truyền để giáo dục, thuyết phục các thành viên trong
tổ chức, giải thích chính sách, chế độ mới một cách sâu rộng trong các
tầng lớp nhân dân, hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế hoàn thành tốt nhiệm
vụ. Thực tiễn đã chứng minh một cách rõ ràng là ngành thuế không để
khai thác tốt các nguồn thu và chống thất thu có hiệu quả (đặc biệt là
trong khu vực KTNQD) nếu không phát huy được kết quả của công tác
phối hợp.
Việc thành lập Hội đồng tư vấn thuế phường xã bao gồm sự tham
gia của Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ, Hội nông dân... đã tỏ rõ đây là tổ
chức tổng hợp rộng rãi của các tổ chức quần chúng đối với nhiệm vụ thu.
Hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế phường xã không chỉ góp phần tích
cực cho việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch thuế, tạo sự công bằng về
23
động viên đóng góp giữa các tầng lớp dân cư, mà còn giúp cho ngành thuế
giám sát, kiểm tra công tác của cán bộ thuế, chống tiêu cực, tuỳ tiện, làm
trong sạch đội ngũ cán bộ thuế. Hội đồng tư vấn thuế phường xã còn là

mô hình tổ chức giúp đỡ cho ngành thuế thực hiện tốt cơ chế "dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong công tác thuế.
- Từng bước đưa việc thực hiện các quy trình, biện pháp quản lý,
thu thuế vào nề nếp, kỷ cương:
Yêu cầu chung đối với công tác thuế là "Phải thu đúng, thu đủ, thu
kịp thời" theo đúng pháp luật. Tổng cục thuế đã nghiên cứu, ban hành các
quy trình, chế độ nghiệp vụ cho từng loại đối tượng kinh doanh có thực
hiện hoá đơn, sổ sách kế toán hoặc khoán thuế thuộc diện quản lý, thu
thuế theo từng sắc thuế. Phải thực hiện đúng các quy trình nghiệp vụ để
nắm chắc cơ sở kinh doanh thực tế, có cơ sở thu thuế đầy đủ về doanh, lợi
tức phát sinh theo từng cơ sở, từng thời gian, đảm bảo được nguyên tắc
lập sổ thuế, duyệt sổ thuế, thông báo thuế và thu thuế đúng với thời gian
quy định và có cơ sở để giải quyết xử lý nộp chậm, dây dưa tiền thuế.
Việc tách công tác quản lý thành 3 bộ phận là nhằm tạo được sự hỗ trợ
trong tổ chức thuế, vừa chống được thất thu có hiệu quả, vừa khắc phục
tuỳ tiện, tiêu cực trong công tác quản lý, thu thuế. Một số yếu tố cơ bản
để cơ quan thuế xác định được việc thu thuế sát đúng với thực tế hoạt
động sản xuất kế hoạch là phải đảm bảo được việc thực hiện nghiêm
chỉnh chế độ kê khai đăng ký thuế, chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế
toán ở tất cả các cơ sở kinh doanh vừa và lớn.
1.2.2.2. Nội dung cơ bản của quản lý thu thuế KTNQD
* Tổ chức bộ máy:
Cùng với việc cải cách hệ thống chính sách thuế, ngày 7/8/1990,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 281/HĐBT về tổ chức hệ thống bộ
máy ngành thuế. Theo tinh thần của Nghị định này, bộ máy quản lý thuế
được tổ chức lại theo ngành dọc từ Trung ương đến các địa phương trên
cơ sở hợp nhất ba bộ phận trước đây là cục Thu quốc doanh, Cục Thuế
công, thương nghiệp ngoài quốc dân và vụ Thuế nông nghiệp thành Tổng
cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính. Về cơ cấu tổ chức trong nội bộ của
các cơ quan thuế từ Trung ương đến các địa phương, các vấn đề nghiệp

24
vụ cụ thể trong quy trình hành thu cũng như những thay đổi nhất định
trong từng thời kỳ nhằm phù hợp với sự thay đổi về hệ thống các chính
sách thuế được áp dụng và các thay đổi khác.
Cơ thể khái quát những nét cơ bản trong tổ chức hệ thống bộ máy
ngành thuế ở nước ta hiện nay như sau:
Hệ thống ngành thuế có nhiệm vụ quản lý thống nhất trong phạm vi
cả nước tất cả các loại thuế, phí và lệ phí (thu nội địa) của ngân sách Nhà
nước. Các loại thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu do ngành Hải quan đảm
nhận. Bộ máy ngành thuế được tổ chức thành mộ hệ thống theo ngành dọc
từ Trung ương đến các địa phương. Ở Trung ương có Tổng cục Thuế trực
thuộc Bộ Tài chính. Tổng cục Thuế không trực tiếp quản lý thu thuế, mà
nhiệm vụ chính của cơ quan này là nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính sách thuế, hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các luật
thuế; kiểm tra cơ quan thuế cấp dưới trong việc quản lý thu các loại thuế,
phí và lệ phí. Ngoài các phòng ban thông thường (Phòng Hành chính, Tổ
chức...) như mọi cơ quan khác, khối phòng ban chuyên môn nghiệp vụ
trong Tổng cục Thuế hiện nay được tổ chức theo sắc thuế và theo đôí
tượng nộp thuế (đối tượng theo ngành kinh tế).
Cơ quan thuế ở các địa phương có nhiệm vụ trực tiếp quản lý thu
thuế và các khoản thu khác, chịu sự lãnh đạo song trùng của cơ quan thuế
cấp trên và của Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Ở cấp tỉnh, thành phố có Cục thuế trực thuộc Tổng cục Thuế. Cục
thuế có nhiệm vụ trực tiếp thu các loại thuế, phí, lệ phí đối với khối các
doanh nghiệp, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra các Chi cục thuế trong việc
tổ chức quản lý thu các khoản thu đã được phân cấp. Cơ cấu bộ máy Cục
thuế hiện nay được tổ chức chủ yếu theo đối tượng nộp thuế (đối tượng
theo thành phần sở hữu) và theo chức năng.
Ở cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Chi cục thuế trực
thuộc Cục thuế. Chi cục có nhiệm vụ trực tiếp quản lý thu từ những hộ cá

thể và một số Công ty trách nhiệm hữu hạn. Bộ máy của Chi cục hiện nay
được tổ chức theo đối tượng nộp thuế (đối tượng theo địa giới hành chính
các phường, xã) và được chia thành từng đội thuế.
* Về tổ chức quản lý thu thuế:
25

×