DIỄN ĐÀN
CẦN ĐỔI MỚI
QUY HOẠCH XÂY DỰNG ĐÔ THỊ Ở NƯỚC TA
NguyỄN ĐNg SƠN
Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thò & Phát triển hạ tầng
Những bức xúc trong quy hoạnh xây dựng
Quy hoạch treo ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống
người dân
Ở Việt Nam, Bộ Xây dựng, cơ quan quản lí và (nhiều
khi) thực hiện quy hoạch (quy hoạch theo nghóa chúng
ta hiểu là để xây dựng đô thò) thì đònh nghóa như thế này:
Quy hoạch xây dựng (thêm chữ “xây dựng” để phân biệt
với “quy hoạch phát triển kinh tế xã hội”) là việc tổ chức
hoặc đònh hướng tổ chức không gian vùng, không gian
đô thò và điểm dân cư, hệ thống công trình hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội, tạo lập môi trường sống thích hợp
cho người dân sống tại các vùng lãnh thổ đó, đảm bảo
kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích cộng đồng,
đáp ứng được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. (Quy chuẩn
xây dựng Việt Nam, phần về Quy hoạch Xây dựng do Bộ
Xây dựng ban hành)
Khái niệm quy hoạch treo là gì? Quy hoạch treo là tình
trạng của các kế hoạch có nội dung sử dụng đất nhưng
không được thực hiện hoặc thực hiện chậm so với tiến
độ ban đầu. Các loại quy hoạch gián tiếp hoặc trực tiếp
liên quan đến đất đai, như: quy hoạch phát triển kinh tế
xã hội; quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch chung về xây
dựng đô thò, kế hoạch chi tiết xây dựng đô thò, kế hoạch
xây dựng các điểm dân cư nông thôn; quy hoạch giao
thông và thủy lợi; quy hoạch ngành (công nghiệp, y tế,
thể thao, du lòch, thương mại, nông nghiệp, quốc phòng,
30
SË 99 . 2019
an ninh...). Quy hoạch treo vừa gây lãng phí xã hội, vừa
ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống người dân.
Ở trên thế giới sẽ hiếm khi ta gặp từ quy hoạch “treo”
hay dự án “treo”, nhưng ở nước ta trong một thời gian dài
quy hoạch “treo”, dự án “treo” đang là một vấn nạn làm
ảnh hưởng đến quyền lợi về nhà đất và cuộc sống của
người dân. Nội dung quy hoạch “treo” có thể hiểu đơn
giản là chính quyền công bố quy hoạch và dự án nhưng
không làm gì để thực hiện hoặc đã giao đất cho chủ đầu
tư nhưng không làm gì hoặc chỉ đầu tư một ít. Tuy nhiên,
ở nước ta, trong khoảng thời gian dài, “Dự án treo” là
một cụm từ nóng gây nên nhiều bức xúc trong xã hội.
Trên khắp các tỉnh thành từ Bắc vào Nam, trên nhiều
lónh vực đều dễ dàng bắt gặp cụm từ “treo” đầy ẩn dụ
với nội hàm vô cùng phong phú. Có thể nhận thấy đây
là một vấn đề đã gây ra nhiều khó khăn trong tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nhìn chung, có 3
dạng quy hoạch “treo” chính: Thứ nhất, đòa phương công
bố quy hoạch một khu đất để xây dựng công trình, dự
án nhưng sau đó không làm gì để thực hiện quy hoạch.
Trong khi người dân sống trong khu quy hoạch muốn
xây dựng, sửa chữa, chuyển nhượng lại gặp khó khăn.
Thứ hai, đã có quyết đònh thu hồi đất để thực hiện dự án
nhưng việc thu hồi không dứt điểm, kéo dài từ năm này
sang năm khác, có khi chỉ vướng một vài thửa, trong khi
nhà đầu tư mỏi mắt chờ giao đất. Tình trạng “treo” này
làm chậm trễ tiến độ thực hiện dự án đầu tư. Thứ ba, đất
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
đã giao nhưng chủ đầu tư không đầu tư gì hoặc đầu tư một ít rồi bỏ
đó gây lãng phí... Theo thống kê của Bộ TN-MT, chỉ trong 3 năm
(từ 2006-2008), tại 53 tỉnh, thành phố, có tới 1.763 trường hợp quy
hoạch treo “treo” “đi” từ Bắc vào Nam; “treo” trong 1 năm, 10 năm
và lâu hơn thế nữa…
Nguyên nhân của tình trạng quy hoạch “treo” và dự án “treo”, trước
mắt là tình trạng đóng băng của thò trường bất động sản, nguyên
nhân sâu xa là giá đất bồi thường quá thấp nên kéo dài. Mặt khác
cũng do cơ chế “xin - cho” dẫn đến tình trạng “xí đất”, nhưng thiếu
vốn, không theo cơ chế thò trường.
Mặt khác là do quy hoạch không phù hợp với yêu cầu của thò trường
nhưng lại không điều chỉnh được. Nguyên nhân của tình trạng này
là Luật quy hoạch đô thò hiện nay so với quy hoạch xây dựng trước
đây không có nhiều thay đổi, cách nhìn về quy hoạch xây dựng
vẫn là tạo ra một cơ cấu ổn đònh theo dự kiến trong tương lai, luôn
có mong muốn kiểm soát mọi quyết đònh về quy hoạch, quy hoạch
nêu lên những mục tiêu có tính chất bắt buộc.
Nước ta hiện nay là nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ
nghóa. Với quá trình hội nhập toàn cầu, hệ thống kinh tế trở nên hỗn
hợp. Trong bối cảnh đó dự báo trong quy hoạch không hoàn toàn
trở thành hiện thực, cho dù là dự báo của những nhà quy hoạch
giỏi nhất.
Công tác quy hoạch chỉ nên đưa ra những mục tiêu có tính đònh
hướng dựa trên cơ sở dự báo. Quy hoạch nên mang tính chiến lược
hơn, xác đònh rõ các ưu tiên, quy đònh “cứng” đối với những vấn đề
không thể xâm phạm, các quy đònh “mềm dẻo” với những mảng
phát triển kinh tế xã hội.
Cần suy nghó công tác quy hoạch như một hệ thống luôn được điều
chỉnh sẽ dẫn đến thay đổi đáng kể trong văn hóa trách nhiệm của
cơ quan chuyên môn.
Luật quy hoạch đô thò hiện nay thời hạn điều chỉnh quy hoạch chi
tiết là 3 năm? Ở Pháp thường là 4 tháng bản đồ quy hoạch các
thành phố lớn lại được điều chỉnh một lần, có thể nói quy hoạch đô
thò ở Pháp luôn được điều chỉnh kòp thời và gần như liên tục.
Quy hoạch đô thò cần có tính đàn hồi nhất đònh, thích ứng với sự
phát triển của kinh tế thò trường, như vậy mới có thể thực sự chỉ đạo
kòp thời cho xây dựng.
Hà Nội và TP.HCM là trung tâm kinh tế thương mại lớn của cả
nước, có tốc độ phát triển kinh tế xã hội và đô thò hóa nhanh nhất
cả nước, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế
giới, do vậy cần được Chính phủ phân cấp cho thành phố trong
điều chỉnh quy hoạch hàng năm để thích nghi với tốc độ phát triển
nhanh, đồng thởi đảm bào quyền lợi về nhà đất và cuộc sống của
người dân nhất là trong khu vực dân cư.
Vai trò đầu tư của doanh nghiệp trong quy hoạch
xây dựng
Ở các nước phương Tây, kinh tế thò trường chỉ với sự can thiệp hạn
chế của nhà nước nên họ xem sự phát triển đô thò như một lực do thò
trường (bao gồm các quyết đònh của doanh nghiệp và cá nhân) tạo
ra và xem các công cụ quy hoạch như là công cụ để hỗ trợ, điều tiết
và phải không ngừng điều chỉnh theo sự luân chuyển.
Ở Việt Nam: “Kinh tế thò trường theo đònh hướng XHCN”. Với quá
trình hội nhập toàn cầu, hệ thống kinh tế đã trở nên hỗn hợp. Cách
nhìn ở nước ta thì vẫn là tạo ra một cơ cấu ổn đònh trong tương lai.
Trong khi đó các công cụ quy hoạch trong nền kinh tế thò trường
cần được xem như những công cụ điều tiết trong một thực tế kinh tế
xã hội năng động và linh hoạt .
Do vậy, cần kết hợp quy hoạch tổng thể (Master Plans), quy hoạch
quy chế (Statutory Plans) của nhà nước với quy hoạch bằng dự án
(Project Plans) của doanh nghiệp nên cần phải điều chỉnh thường
xuyên quy hoạch đô thò để thích nghi với thò trường .
Có thể nói quy hoặc cần có “tính đàn hồi” (cần điểu chỉnh) để thích
nghi với cơ chế thò trường. Đó chính là “tính tùy biến trong quy
hoạch đô thò ” (Urban Planning Discretion). Có thể nói quản lý quy
hoạch tốt để thu hút đầu tư của doanh nghiệp “bằng dự án” là cơ
sở để phát triển đô thò bền vững.
Để Hà Nội, TP.HCM và các thành phố khác của Việt Nam trở thành
một đô thò có không gian sống văn minh hiện đại và thẩm mỹ, trước
tiên thành phố cần nghiêm túc thực hiện quyết đònh phê duyệt quy
hoạch xây dựng của Thủ tướng Chính phủ đối với các thành phố
còn được gọi là “quy hoạch bằng quy chế”. Tuy nhiên trong cơ chế
thò trường và toàn cầu hóa, phát triển đô thò gần như chòu tác động
của một lực thò trường, bao gồm đa phần các quyết đònh của cá
nhân, tư nhân, doanh nghiệp tạo ra bằng các dự án, còn được gọi
là “quy hoạch bằng dự án”. Do vậy, chỉ nên xem các công cụ quy
hoạch đô thò “quy hoạch bằng quy chế” như công cụ để hỗ trợ điều
tiết và không ngừng điều chỉnh theo diễn biến của thò trường. Do
vậy công cụ “quy hoạch tổng thể”, “quy hoạch bằng quy chế” của
nhà nước cần kết hợp với công cụ “quy hoạch bằng các dự án” của
doanh nghiệp, nói cách khác nhà đầu tư/doanh nghiệp có thể tham
gia làm quy hoạch, nếu không có nhà đầu tư thì quy hoạch đẹp và
hoàn hảo tới mấy cũng chỉ là đồ án nằm trên giấy, chính các “dự
án đầu tư” giúp “điều chỉnh quy hoạch” và là công cụ kiểm soát đất
đai. Đó chính là cơ sở để điều chỉnh quy hoạch giúp phát triển đô
thò bền vững.
Do vậy, Quy hoạch xây dựng cần được điều chỉnh thường xuyên để
thích nghi với thò trường. Luật Quy hoạch đô thò hiện nay so với quy
hoạch xây dựng trước đây không có nhiều thay đổi, cách nhìn trong
quy hoạch xây dựng vẫn là tạo ra một cơ cấu ổn đònh theo dự kiến
trong tương lai, luôn có mong muốn kiểm soát mọi quyết đònh về quy
hoạch, quy hoạch nêu lên những mục tiêu có tính chất mệnh lệnh
bắt buộc nên phát sinh tình trạng “quy hoạch treo”/“quy hoạch phi thò
trường”. Trong bối cảnh đó dự báo không bao giờ trở thành hiện thực
hoành toàn, cho dù là dự báo của những nhà quy hoạch giỏi nhất.
Công tác quy hoạch chỉ nên đưa ra những mục tiêu có tính “đònh
hướng” dựa trên cơ sở dự báo. Quy hoạch nên mang tinh chiến lược
hơn, xác đònh rõ các ưu tiên, các quy đònh cứng đối với những mảng
không thể xâm phạm, các quy đònh mềm dẻo với những mảng phát
SË 99 . 2019
31
triển kinh tế xã hội. Cần suy nghó công tác quy hoạch như một hệ
thống luôn luôn được điều chỉnh sẽ dẫn đến thay đổi đáng kể trong
“văn hóa trách nhiệm” của các cơ quan chuyên môn.
loại: từ không gian lòch sử, không gian trí tuệ, không gian tinh thần,
không gian nghệ thuật và không gian văn hóa đến không gian tự
nhiên…
Quy hoạch xây dựng đô thò theo quy hoạch tổng thể hoặc quy
hoạch bằng quy chế cần có tính đàn hồi nhất đònh, thích ứng với
sự phát triển của kinh tế thò trường và yêu cầu của doanh nghiệp
thông qua các dự án đề nghò, như vậy mới có thể thực sự chỉ đạo
được xây dựng. Vai trò của các nhà quy hoạch đã thay đổi về bản
chất, vai trò đó là trở thành người hướng dẫn chòu trách nhiệm
chính trong cuộc thảo luận và tạo điều kiện cho một sự thỏa thuận
với doanh nghiệp về các dự án đầu tư. Sau đó anh ta phải biến
thỏa thuận đó thành những quy đònh.
Về quy hoạch đô thò, thì ở nước ta từ sau 1954 tới nay, theo Luật
Quy hoạch đô thò năm 2009 khi chỉ tập trung chủ yếu vào 3 loại quy
hoạch: quy hoạch chung, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi
tiết để ràng buộc mọi hoạt động đầu tư vào một “khuôn khổ cứng
nhắc” của quy hoạch chi tiết, thực chất là vẫn sử dụng theo phương
pháp quy hoạch của Liên Xô cũ chòu ảnh hưởng mạnh mẽ của
quy hoạch chức năng do Le Corbusier đề xướng vào thời kỳ công
nghiệp, hay còn được gọi là quy hoạch tổng thể, quy hoạch đô thò
hiện đại hay quy hoạch đô thò truyền thống, đó là quy hoạch phân
khu chức năng kiểu hình học cứng nhắc, thiếu linh hoạt không thích
ứng với kinh tế thò trường, toàn cầu hóa với hàng trăm hàng ngàn
các nhà đầu tư tư nhân và cá nhân mà trong đó sự điều tiết của nhà
nước rất hạn chế.
Các thành phố hiện đang đấu tranh với 3 xu hướng cực lớn: toàn
cầu hóa, đô thò hóa và phân quyền hóa. Hà Nội và TP.HCM đều
là đô thò đặc biệt, là các trung tâm kinh tế-thương mại lớn, có tốc
độ phát triển kinh tế xã hội và đô thò hóa nhanh nhất cả nước, do
vậy cần được Chính phủ phân cấp trong điều chỉnh quy hoạch với
thời gian ngắn hơn để thích nghi với tốc độ phát triển nhanh của thò
trường. Quản lý quy hặch xây dựng tốt với vai trò tham gia bằng dự
án của doanh nghiệp chính là cơ sở để phát triển đô thò bền vững
trong toàn cầu hóa cơ chế thò trường và BĐKH.
Trái với việc điều chỉnh quy hoạch để phù hợp với diễn biến của thò
trường, trong “Báo cáo giám sát việ quản lý sử dụng đất tại đô thò
từ khi Luật Đất đai có hiệu lực đến nay” của Ủy ban kinh tế quốc
hội, ngày 27/5/2019, cả nước có 1.390 dự án được điều chỉnh quy
hoạch từ 1-6 lần. Theo các đại biểu quốc hội, “Quy hoạch được
điều chỉnh có xu hướng tăng lợi ích tối đa cho nhà đầu tư, giảm tối
đa các diện tích lợi ích công cộng và lợi ích của người sử dụng”, vấn
nạn trên “đã gây tổn thất về kinh tế, bức xúc cho xã hội và người
dân, thậm chí không thể khắc phục tình trạng ngày càng kẹt xe, ô
nhiễm môi trường, mưa ngập, quá tải điện nước, hệ thống thải...”,
“Cử chi cho rằng việc điều chỉnh quy hoạch nêu trên là để phục vụ
cho lợi ích nhóm của chủ đầu tư và những người có liên quan mà
không quan tâm đến lợi ích của người dân. Điều đáng lo ngại là dân
cứ phản ảnh, báo chí lên tiếng, cơ quan chức năng vẫn vào kiểm
tra, nhưng việc điều chỉnh vẫn cứ diễn ra”... “Thay vì thuyết phục
chủ đầu tư tuân thủ quy hoạch của nhà nước thì bẻ cong theo đề
xuất của các nhà đầu tư...”, “Những người được Đảng và nhà nước
tin tưởng trao trọng trách quản lý thay vì giữ gìn để biến nó thành
nguồn lực phát triển kinh tế thì lợi dụng để mưu cầu lợi ích riêng”.
Cần đổi mới Quy hoạch xây dựng đô thò ở nưóc ta
Hướng tới quy hoạch đô thò hậu hiện đại
Trong thời kỳ toàn cầu hóa và kinh tế thò trường, hậu công nghiệp,
thông tin và lập trình, khủng hoảng sinh thái thì không thích hợp
nếu quy hoạch không gian vật chất lại vẫn sử dụng quy hoạch “đô
thò hiện đại” truyền thống theo “phân khu kiểu hình học cứng nhắc
thiếu sự linh hoạt” .
“Trong khuôn khổ của quy hoạch chiến lược hợp nhất”, quy hoạch
tích hợp đã được quy đònh trong luật quy hoạch, cần sử dụng “quy
hoạch đô thò hậu hiện đại” có tính đa phương thì ngoài phân khu
còn cần linh hoạt, hợp lý và đa dạng có thể còn bao gồm nhiều
32
SË 99 . 2019
Trên thực tế, công tác quy hoạch đô thò ở nước ta hiện nay vẫn cố
gắng dự báo và đònh hướng tối đa mọi việc. Trên cơ sở đó chính
quyền luôn có mong muốn kiểm soát mọi quy đònh về quy hoạch
và kế hoạch.
Kế hoạch hóa thường ít linh hoạt hơn thò trường và chỉ có tác động
đến những “khối lượng hạn chế” trong khi đó thò trường có thể tác
động đến những “khối lượng có tiềm năng không hạn chế”. Điều
này buộc công tác quy hoạch và kế hoạch phải thay đổi để có thể
phản ứng và điều chỉnh thò trường.
Tóm lại, cách nhìn trong quy hoạch đô thò ở nước ta vẫn là tạo
ra một cơ cấu ổn đònh trong tương lai theo kế hoạch. Trong khi
đó công cụ quy hoạch trong kinh tế thò trường cần được xem như
những “công cụ điểu tiết và điều chỉnh” trong một thực tế kinh tế-xã
hội năng động và linh hoạt.
Theo Lawrie Wilson, quy hoạch xây dựng tổng thể của Việt Nam là
di tích của thời kỳ tiền đổi mới và rất ít có giá trò trong thời kỳ hậu gia
nhập WTO. Bạn có thể đứng lại và có cái nhìn tổng quan về đa số
các thành phố ở Việt Nam, rằng một điều không thể bác bỏ chính là
quy hoạch đô thò như hiện nay đang áp dụng đã thất bại trong việc
cung cấp chất lượng cuộc sống như đã hứa hẹn.
Thời kỳ hiện nay là thời kỳ toàn cầu hóa- kinh tế thò trường, hậu
công nghiệp - thông tin và lập trình và khủng hỏang sinh thái thì
không thể sử dụng mãi phương pháp quy hoạch đô thò hiện đại mà
chuyển sang sử dụng phương pháp quy hoạch đô thò hậu hiện đại
vì : so với quy hoạch hiện đại đơn thuần công năng thì quy hoạch
đô thò hậu hiện đại khẳng đònh rằng phải thỏa mãn yếu tố con
người sống trong đô thò , mặt khác một đô thò không đơn thuần chỉ
là công năng mà còn có tính bản sắc hay giá trò lòch sử.
Theo William S.W.Lim: “Không gian hậu hiện đại có tính đa phương
và có thể gồm nhiều loại, từ không gian lòch sử, không gian trí tuệ,
không gian tinh thần, không gian nghệ thuật và không gian văn
hóa… đến không gian tự nhiên và không gian thật sự…
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
Tính hậu hiện đại là một hiện tượng văn hóa toàn cầu. Sự năng động
và khác biệt của nó có tính toàn cầu thích ứng với đòa phương...”.
Thực ra thì đô thò hậu hiện đại cũng chính là sự hòa trộn giữa các
yếu tố hiện đại và hậu hiện đại trong thiết kế và tổng thể.
Do vậy có thể nói, quy hoạch đô thò hậu hiện đại ngày nay vừa
“phân khu chức năng” vừa phải “linh hoạt, hợp lý và rất đa dạng” vì
nó còn được quyết đònh nhiều hơn bởi các đại lượng như: vò trí đòa
hình, sự liên hệ giữa cảnh quan và nước, các di sản kiến trúc cần
bảo tồn…
Nếu chỉ sử dụng “Quy hoạch phân khu” của quy hoạch đô thò hiện
đại thì không thể cứng nhắc “kiểu hình học” như trước đây vì sẽ
“không hiệu quả”, vì “đô thò rất phức tạp”, do vậy mà cần “linh hoạt”
tổ chức không gian để hợp nhất giữa khu ở, khu làm việc và dòch
vụ công cộng, phát huy vai trò của người đi bộ và tránh giao thông
con lắc, để giảm ách tắc giao thông nhằm tạo ra một cơ cấu đô thò
“hợp lý”, “đa dạng” “công năng sử dụng hỗn hợp” (mixed use) theo
hướng “đa dụng”, và cần có giải pháp ứng xử có hiệu quả với sự
“suy thoái về môi trường”. Một thành phố sinh động phải là “một
bản liên hợp”.
Chủ nghóa đô thò có thể tạm gọi là hậu hiện đại phải có một bản sắc
đòa phương đã được phát triển với quá trình hiện đại hóa, đảm bảo tính
công bằng giữa các nhóm người và giữa con người với môi trường.
Thực ra hậu hiện đại chính là sự hòa trộn giữa các yếu tố hiện đại và
hậu hiện đại trong thiết kế tổng thể. Là việc gặp nhau của việc đem các
cách thức thiết kế và quản lý hiện đại ra xây dựng các đặc trưng gắn
liền với bản sắc đòa phương. Điều này có lẽ phù hợp với đô thò, vì theo
Charles Jenks “Chủ nghóa hậu hiện đại là một thứ hỗn hợp mang tính
chiết trung của bất cứ truyền thống nào với những gì mới qua: nó vừa
là sự kế tục vừa là sự siêu việt hóa chủ nghóa hiện đại”.
Quy hoạch đô thò hậu hiện đại “chứa đựng các nhu cầu không
gian đa dạng” của các bản quy hoạch: kinh tế, xã hội, bảo vệ môi
trường, cơ sở hạ tầng trong “sự hợp nhất hài hòa” giữa công bằng
xã hội, sống tốt và tính bền vững, hướng tới mục tiêu “pháp triển
bền vững” theo phương pháp quy hoạch chiến lược hợp nhất/ quy
hoạch tích hợp.
ra khu công cộng, dân cư, đường xá... Với cách làm quy hoạch đó,
nhà nước quản lý rất dễ dàng, không có viêc móc nối giữa nhà đầu
tư và chính quyền để thay đổi quy hoạch.
Cần sửa đổi Luật Quy hoạch đô thò 2009 cho phù hợp với cơ chế
thò trường, toàn cầu hóa, không còn quy hoạch treo và thích ứng với
BĐKH. Hy vọng Quy hoạch đô thò ở nước ta sau 30 năm đổi mới
cũng sẽ theo kòp xu thế của thế giới.
Cần có Chiến lược phát triển đô thò để thực hiện quy
hoạch xây dựng đô thò có hiệu quả
Bản đồ quy hoạch chỉ là dự kiến trong tương lai, muốn thực hiện quy
hoạch phải có chiến lược phát triển đô thò. Các cơ quan sở ngành
tổng hợp như: Sở Kế hoạch Đầu tư, Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Xây
dựng, Sở Giao thông Vận tải... do Sở Kế hoạch Đầu tư chủ trì phải
có trách nhiệm tham mưu cho UBND thành phố chiến lược phát triển
đô thò. Chiến lược này phải cân đối nguồn vốn của cả nhà nước và
tư nhân cho phát triển, cân đối giữa phát triển kinh tế với hạ tầng, kể
cả hạ tầng kỹ thuật xã hội và cả hạ tầng dòch vụ, cân đối với phân
bổ dân cư... giảm ô nhiễm môi trường. Tổ tư vấn phải có chiến lược
phát triển của thành phố hàng năm và 5 năm.
Chiến lược phát triển đô thò có thể bao gồm: (i) Chiến lược phát triển
đất đô thò theo “hình thái đô thò”, “phân bố và tích tụ dân cư”, trong đó
lưu ý là đưa hoạt động phát triển đất như một hoạt động của kinh tế
thò trường, không chỉ là hoạt động của các đơn vò nhà nước; (ii) Chiến
lược phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ; (iii) Chiến lược phát triển đô
thò theo hướng “tăng trưởng xanh”, bảo vệ môi trường và ứng phó
với biến đổi khí hậu, giảm thiểu thảm họa, kết hợp với phát triển đô
thò thông minh hướng đến mục tiêu phát triển bền vững; (iv) Chiến
lược điều tiết đô thò hóa gắn với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội; (v) Chiến lược phát triển vùng ven đô thò liên quan đến tiến trình
chuyển hóa dân cư nông nghiệp và quản lý phát triển vành đai xanh;
(vi) Chiến lược phát triển các không gian công cộng để thành phố có
chất lượng sống tốt và sáng tạo.
Hiện có nhiều “mô hình đô thò” theo hướng hậu hiện đại như: thành
phố sinh thái - kinh tế (Eco2 City), thành phố sống tốt (Liveable City),
tăng trưởng thông minh (Smart Growth), mô hình TOD (Transit Oriented Development), chủ nghóa đô thò mới (New Urbanism), đô
thò học cảnh quan (Landscape Urbanism)... Trong thời kỳ BĐKH thì
phải là đô thò sinh thái, đô thò xanh. Quy hoạch đô thò xanh thực hiện
phân vùng dựa trên đặc tính sinh thái, tiềm năng tài nguyên (con
người, văn hóa, lòch sử) và thích ứng với BĐKH làm căn cứ để lập
quy hoạch không gian và sử dụng đất.
Trên đây chỉ là những phân tích kiến nghò có tính chất đònh tính, rất
cần có “chiến lược phát triển thành phố” và kế hoạch thực hiện các
chiến lược của thành phố dựa trên quan niệm coi thành phố như một
không gian ưu tiên phát triển theo mô hình đô thò phù hợp. Nó chứng
minh các quyết đònh bằng các tiêu chuẩn có hiệu quả và sử dụng
nguồn tài chính tối ưu. Phương pháp sử dụng để lập chiến lược phát
triển thành phố chỉ có thể là phương pháp “Chiến lược phát triển
thành phố” (City Development Strategy-CDS) do WB tài trợ cho Sở
Kế hoạch - Đầu tư TP.HCM từ năm 2000, cần triển khai thực hiện
trong thực tế. Nguồn ngân sách đòa phương phải được hình thành từ
“Chương trình đầu tư vốn” (Capital Investment Program - CIP) cho
kế hoạch 5 năm và hàng năm, trong đó cần chú trọng cơ chế “đổi
đất lấy hạ tầng” vì “hạ tầng luôn phải đi trước một bước”.
Trên thế giới, quy hoạch dựa trên các bản đồ, trong đó có một bản
đồ tích hợp (tổng hợp) quản lý kinh tế, hạ tầng, cây xanh, phúc lợi
xã hội... sau đó dựa vào bản đồ này để quản lý sử dụng đất đai
theo sự phân loại đất công và đất tư. Đất công là đất dành cho giao
thông, bến cảng, sây bay, công viên... còn lại là đất tư, kèm theo là
bản đồ phân khu chức năng. Đây là bản đồ quy hoạch rõ ràng phân
Nhà nước phải lập, quản lý và thực hiện quy hoạch bài bản. Trong
đó chính quyền làm và công bố quy hoạch, nếu điều chỉnh quy
hoạch thì thủ tục và quy trình cũng phải như lập quy hoạch ban đầu,
phải do các cơ quan trình tư vấn thẩm đònh, lấy ý kiến của người
dân. Do vậy rất cần phải có cơ chế quản lý điều chỉnh quy hoạch
xây dựng mới có hiệu quả.
SË 99 . 2019
33