Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

LUẬN VĂN: CNH - HĐH - vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa ở nước ta doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.52 KB, 19 trang )













LUẬN VĂN:

CNH - HĐH - vai trò của nó
đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa ở nước ta













A - Đặt vấn đề


Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một chủ trương lớn của Đảng, chính phủ
nước ta hiện nay, đang thực sự trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà
lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, của mọi doanh nghiệp và của toàn xã hội.
ở nước ta vấn đề công nghiệp hoá nền kinh tế được đặt ra từ năm 1960
trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nhưng sau đó chúng ta phải
tập trung nhân, tài, vật lực cho việc hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân giải phóng miền nam thống nhất đất nước, chống chiến tranh phá hoại
miền bắc của đế quốc mỹ, nên việc thực hiện chủ trương công nghiệp hoá chưa
được bao nhiêu, mặt khác trong tổ chức chỉ đạo thực hiện công nghiệp hoá đã có
những biểu hiện nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn, chưa xuất phát từ đặc điểm
tình hình của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu trên 90% dân số sống ở
nông thôn.
Sau khi đất nước hoà bình thống nhất cùng đi lên CNXH, chủ trương công
nghiệp hoá tiếp tục triển khai thực hiện được được thể hiện ở văn kiện đại hội IV,
V, VI Đảng cộng sản Việt Nam. Đặc biệt văn kiện đại hội V, đại hội VI chỉ rõ:
Tập trung sức phát triển nông nghiệp coi nông nghiệp là mật trận hàng đầu, đưa
nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn, chủ trương trên đánh dấu một giai đoạn
mới quá trình công nghiệp hoá nước ta. Trong điều kiện của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta
không những thực hiện nội dung của cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất
chuyển lao động thủ công năng suất thấp thành lao động sử dụng máy móc có
năng suất cao mà còn phải “đi tắt”, “đón đầu” ứng dụng những thành tựu mới
nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Vì vậy văn kiện đại hội Đảng lần
thứ VII đưa ra cụm từ công nghiệp hoá, hiên đại hoá, dến đại hội Đảng lần thứ
VIII, lần thứ IX khẳng định nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiên đại hoá đất nước.



Vì vậy cần làm rõ tính quan trọng của quá trình công nghiệp hoá, hiên đại

hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta như thế nào cho đúng, và công
nghiệp hoá, hiên đại hoá có vai trò vị trí như thế nào trong quá trình xây dựng
CNXH ở nước ta.



B - Nội dung
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng XHCN ở nước ta
1. Khái niệm về công nghiệp hoá hiện đại hoá và các vấn đề cơ bản
1.1Khái niệm công nghiệp hoá hiện đại hoá
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là một quá trình có tính chất lịch sử. Tất
cả các nước công nghiệp phát triển đều trải qua quá trình công nghiệp hoá ở các
thời điểm khác nhau, với những quy mô tốc độ khác nhau trong những điều kiện
lịch sử kinh tế xh khác nhau. Với hầu hết các nước phát triển hiện nay công
nghiệp hoá là một trong những chính sách chủ yếu và là một thách thức lớn. Tuy
nhiên, chính sách công nghiệp hoá trong giai đoạn hiên nay có nhiều khác biệt
lớn so với các nước công nghiệp hoá giai đoạn trước đây . Chính điều này đã làm
cho chính sách ở các nước, ở các thời kỳ thêm đa dạng.
Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam, hội nghị lần thứ VII ban chấp hành TW Đảng
khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá hiện đại hoá và đây cungx
chính là quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Theo tư tưởng này, công nghiệp hoá hiện đại hoá là qúa trình chuyển
đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến
hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ
tạo ra năng suất lao động xã hội cao
1.2. Vai trò và những mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá

* Vai trò của công nghiệp hoá
Một là phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục nghuy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn



về kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần ổn
định và nâng cao đời sống của nhân dân.
Hai là, củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng
lực tích luỹ, tạo công ăn việc làm khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện
của mỗi cá nhân.
Ba là, tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh quốc
phòng.
Bốn là, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Do vị trí và tầm quan trọng của các tác dụng nói trên của công nghiệp hoá
và hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, nên qua tất cả các kỳ đại hội Đảng ta luôn
luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt quá trình quá độ
lên CNXH ở nước ta. Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam lại một
lần nữa xác định mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là: “xây dựng nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiên đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sóng vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
1.3.Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh: mỗi phương thức
sản xuất của xã hội chỉ có thể xác lập một cách vững chắc trên cơ sở vật chất kỹ
thuật thích ứng, và chính cơ sở này là một trong những nhân tố quan trọng nhất

xác định phương thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội- lịch sử nào và thuộc
thời đại kinh tế nào.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất của xã hội là tổng
thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt được trong những điều



kiện lịch sử nhất định của sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật, dựa trên đó lực lượng
lao động của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu vật chất
của xã hội.
Do trong lịch sử xã hội đã hình thành và tồn tại những mối liên hệ tất yếu,
nên phương thức sản xuất ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những yếu tố của cơ sở
vật chất – kỹ thuật của phương thức sản xuất trước đó, trên cơ sở đó cải tạo và
phát triển thành cơ sở vật chất – kỹ thuật của bản thân mình
Phương thức sản xuất TBCN tuy xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ XVI , nhưng
nó chỉ trở thành phương thức sản xuất thống trị khi đã tạo ra được nền đại công
nghiệp cơ khí ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp và quá trình công nghiệp
hoá TBCN thế kỷ XVIII – IXX. Tiếp sau đó nó được hiện đại hoá ngày càng cao
trên cơ sở của những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là những
thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.
Chính sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí với sản xuất ngày càng
xã hội hoá đã tự phát tạo ra tiền đề vật chất khách quan cho sự ra đời của phương
thức sản xuất mới: phương thức sản xuất cộng sản chủ nghiã mà giai đoạn đầu
của nó là CNXH. tính tất yếu đó đã được chứng minh trong sự phát triển của lịch
sử xã hội: Nước Nga XHCN xuất hiện từ cách mạng tháng 10 năm 1917 mở đầu
một thời đại mới; thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Như vậy, do
mối liên hệ tất yếu của lịch sử, cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN – giai đoạn
đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa phải là nền đại công nghiệp cơ
khí hiên đại.
Các Mác và Ph.Ăng – ghen, Lênin đã nói nhiều về vấn đề nền đại công

nghiệp cơ khí hiện đại là cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH.
Tại đại hội III quốc tế cộng sản năm 1921 Lênin đã chỉ rõ: “cơ sở vật chất
duy nhất của CNXH chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo
cả nông nghiệp nhưng không tghể đóng khung ở nguyên lý chung đó. cần phải cụ
thể hoá nguyên lý đó. Một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại
và có khả năng cải tạo cả nông nghiệp, đó là diện khí hoá cả nước”. Lênin còn



nói “Một lần nữa tôi phải nhấn mạnh rằng cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được
của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí. ai quên điều đó người đó không phải là
người cộng sản. Chúng tôi phải đặt vấn đề một cách thực tiễn đại công nghiệp
hiện đại là thế nào?Đại công nghiệp hiện đại có nghĩa là điện khí hoá toàn nước
Nga”.
Tóm lại, cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp cơ
khí hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp. luận điểm trên của chủ nghĩa mác
Lênin cần phải được vận dụng môt cách thích hợp với đặc điểm của thời đại cách
mạng khoa học kỹ thuật và đặc điểm cụ thể của mỗi nước.
Ngày nay trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với
5 nội dung: tự động hoá đồng bộ, năng lượng nguyên tử, vật liệu mới, công nghệ
sinh học, điện tử – tin học. Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa mác –
Lênin cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ của Đảng cộng sản
Việt Nam khẳng định: xã hội – XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Do đó, cho phép chúng ta hiểu rằng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH ở
nước ta, phải là nền đại công nghiệp cơ khí ứng dụng những thành tựu mới nhất
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế –
xã hội.
2. Hoàn cảnh nước ta và yêu cầu khách quan của quá trình công

nghiệp hoá hiện đại hoá
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên CNXH trên toàn thế giới, ở nước
ta khi đất nước hoà bình thống nhất cả nước đi lên CNXH “Đây là sự lựa chọn
duy nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta”. Nước ta quá độ đi lên CNXH từ
một nước nông nghiệp lạc hậu điều dó cũng có nghĩa là nước ta bỏ qua giai đoạn
phát triển TBCN. nhưng người ta chỉ bỏ việc xác lập phương thức sản xuất
TBCN, chứ không thể bỏ qua việc phát triển lực lượng sản xuất. Cái thiếu nhất
của đất nước ta là thiếu một lực lượng sản xuất phát triển. đất nước ta chưa có



một cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp với CNXH. Chừng nào chư tạo ra được cái
cốt vật chất – kỹ thuật phù hợp với CNXH thì đất nước ta chưa có CNXH hiện
thực. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật ấy ở nước ta chính là quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá nên kinh tế quốc dân. Văn kiện hội nghị lầ thứ VII
ban chấp hành TW khoá VII khẳng định quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
ở nước ta là: “Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sứ lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của nông nghiệp và
tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Thực chất
công nghiệp hoá,hiện đại hoá ở nước ta là quá trình tạo ra những tiền đề vật chất,
kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp – những yếu tố cơ
bản của lực lượng sản xuất cho CNXH. Nội dung cốt lõi của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử
dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao. Xây
dựng nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại – cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH
bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là một tất yếu khách quan đối
với nước ta quá độ lên CNXH xúat phát từ một nên kinh tế kém phát triển. Tính
tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng

CNXH ở nước ta được thể hiện ở góc độ kinh tế và chính trị xã hội
Về kinh tế: Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN mới có cơ sở vật
chất – kỹ thuật của CNXH. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta sẽ
tạo ra một sức sản xuất mới bao gồm nhiều loại công cụ mới và các loại tư liệu
sản xuất khác, cùng với những người lao động có tổ chức, tiến hành hiệp tác sản
xuất với kỹ năng lao động ngày càng cao từ đó làm cho năng suất lao động tăng
lên cái “Đảm bảo cho sự thắng lợi của trật tự xã hội này so với xã hội khác”
Do mối quan hệ biện chứng hữu cơ giữa quan hệ sản xuất và cơ sở vật
chất – kỹ thuật nên việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH có tác
dụng củng cố hoàn thiệp quan hệ sản xuất XHCN – dựa trên cơ sở vật chất kỹ
thuật ngày càng cao của CNXH và quan hệ sản xuất XHCN ngày càng được hoàn



thiện, nên sản xuất xã hội sẽ không ngừng phát triển và đời sống vật chất văn hoá
của nhân dân sẽ không ngừng được nâng cao trên cơ sở phát triển nền sản xuất
đó
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN còn là một tất yếu về chính trị– xã
hội
Với cơ sở vật chất – kỹ thuật vừa đạt được trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá giai cấp công nhân tầng lớp trí thức XHCN có thêm nhiều điều
kiện để giúp đỡ nông dân ùng đi lên CNXH. Sự liên minh giữa công nhân, nông
dân, tầng lớp trí thức XHCN ngày càng được củng cố, Nhà nước XHCN được
tăng cường. những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá tạo ra nhiều khả năng thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc,
giữa các vùng, các miền của đất nước. Tình hình đó đưa đến sự thống nhất ngày
càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội – XHCN.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải có sự chuẩn bị vè tư tưởng
và văn hoá nhưng công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại có tác dụng thúc đẩy xây
dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN. Việc xây dựng cơ sở vật chất –

kỹ thuật hiện đại và sản xuất theo phương thức đại công nghiệp đòi hỏi quần
chúng lao động phải có trình độ giác ngộ cách mạng và trình độ văn hoá khoa
học kỹ thuật ngày càng cao. Đồng thời cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH lạ tạo
ra những điều kiện vật chất cần thiết cho việc xây dựng nền văn hoá mới và con
người mới XHCN.
Công nghiệp hoá XHCN còn là một yêu cầu khách quan của quốc phòng.
Nguồn lực quốc phòng của một nước phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó
nền kinh tế lớn mạnh, sản xuất nhiều loại sản phẩm chế độ chính trị kinh tế và xã
hội vững chắc và việc cung cấp các phương tiện hiện đại hoá quốc phòng có ý
nghĩa đặc biệc quan trọng. Công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp
trong việc tạo ra các nhân tố đó.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là quá trình giai cấp công nhân
trưởng thành về số lượng và chất lượng. Giai cấp công nhân ngày càng đông, kỹ



thuật sản xuất ngày càng cao, đời sống ngày càng được cải thiện, trình độ giác
ngộ XHCN được nâng dần lên. Do đó vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
trong mọi mặt sinh hoạt của xã hội ngày càng được củng cố. Chỉ có thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN nước ta mới xây dựng được nền kinh tế
độc lập tự chủ và tham gia phân công hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập.
Qua đó có thể khẳng định rằng sự thành công của quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá XHCN là nhân tố quyết định sự thắng lợi hoàn toàn và triệt để
của XHCN, không làm công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ không có XHCN. xuất
phát từ tính khách quan và tác dụng nhiều mặt trên đây của công nghiệp hoá hiện
đại hoá XHCN, đảng ta coi công nghiệp hoá hiện đại hoá là “Nhiệm vụ trung tâm
trong suốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH”. Chỉ có hoàn thành công nghiệp hoá
hiện đại hoá XHCN mới có cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ khác một cách triệt
để và mới có CNXH một cách đầy đủ
Nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất và để có được quan hệ sản xuất XHCN

đồng thời để mở rộng cho lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao
động cải thiện đời sống nhân dân. nhưng, những việc đó chỉ đạt mức cao nhất khi
nào cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN được xây dựng xong và cũng chỉ lúc đó
quan hệ sản xuất mới được hoàn thiện và củng cố vững chắc. CNXH ở nước ta sẽ
được xác lập với các đặc trưng: có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. có
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp
bức bóc lột và bất công làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống
ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. các dân tộc
trong nhận thức rõ tính tất yếu khách quan của quá trìng công nghiệp hoá hiện
đại hoá đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta”.
3. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những biện pháp thực
hiện
3.1.Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý



Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là
phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, do đó chuyên
môn hoá sản xuất giữa các nghành, trong nội bộ từng nghành và giữa các vùng
trong nên kinh tế quốc dân . phân công lao động có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn
bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động. Cùng với cách mạng khoa
học va công nghệ nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự
phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
Một là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng
và số tuyệt đối lao động công nghiệp tăng lên.
Hai là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí thức ngày một tăng và chiếm
ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.

Ba là, tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất tăng lên
nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất
ở nước ta phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển
khai trên cả hai địa bàn: cả nước và tại chỗ để kết hợp phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Xong phải đặc biệc chú ý đến phân công lao động tại chỗ, phải trên
cơ sở hợp lý hoá lao động tại chỗ mà phân bổ lại lao động trên phạm vi cả nước.
đi đôi với quá trình phân công lại lao động xã hội, một cơ cấu kinh tế mới cũng
dần dần được hình thành . Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan hệ
kinh tế hay các bộ phận hợp thành của nền kinh tế, gắn với vị trí, trình độ kỹ
thuật công nghệ, quy mô, tỷ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ
tương tác giữa các bộ phận, gắn với điều kiện kinh tế – xã hội trong từng giai
đoạn phát triển nhất định, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đã được hoạch
định. Cấu trúc của cơ cấu kinh tế bao gồm:
Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu vùng kinh tế



Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị
Cơ cấu thành phần kinh tế
Để tối ưu hoá cơ cấu kinh tế được hình thành phải đạt được các yêu cầu
sau: phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật
kinh tế, cho phép khai thác tối đa các tiềm năng kinh tế của đất nước, sử dụng
được nhiều lợi thế so sánh của các nước phát triển muộn về công nghiệp, phù
hợp với xu thế của cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hoá, khu
vực hoá và đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao
Về cơ cấu nghành kinh tế: Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành ở
nước ta sẽ được xác lập là cơ cấu công – nông nghiệp - dịch vụ. phương hướng
phát triển của các ngành trong cơ cấu ấy phải đáp ứng được những yêu cầu của
mô hình chiến lược, cụ thể là:

Thứ nhất, khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông lâm ngư
nghiệp, thức đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung chuyên canh, đưa
công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp, thúc
đẩy quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, Bảo đảm thoả mãn các
yêu cầu lương thực, thực phẩm trong nước, tao nguồn nguyên liệu vững chắc cho
công nghiệp chê biến, tăng nguồn hạt xuât khẩu, tạo công ăn việc làm, phân công
lại lao động xã hội, mở rông thị trường trong nước cho công nghiệp và dich vụ.
Thứ hai, kết hợp phát triển nông lâm ngư nghiệp với phát triển công
nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo có
chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu trong nước, nâng cao hiệu quả xuất
khẩu, chế biến thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, bảo đảm vệ sinh, đa
dạng hoá mặt hàng, kiểu cách, bao bì và nhãn hiệu để phục vụ nhu cầu trong
nước và đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh năng lực và nâng cao trình độ công
nghệ chế biến các loại cây công nghiệp dài ngày, lâm sản, thuỷ sản
Thứ ba, phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thoả
mãn những nhu cầu tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế
tối đa việc nhập khẩu hàng hoá này vừa nhằm tiết kiệm ngoại tệ, vừa tạo điều



kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất trong nước mở rông sản xuất hàng lâu bền,
cao cấp để thoả man nhu cầu ngày càng tăng của dân cư, giảm dần tiến tới thay
thế nhapạ khẩu của loại hàng này bằng hàng hoá sản xuất trong nưỡc. Cần chú ý
tới đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến bao
bì, giảm giá thành .v.v. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất
trong nước. Phát huy lợi thế về công nhân và truyền thống sản xuất đẩy mạnh
sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ xuất khẩu, tập trung chủ yếu vào các sản phẩm
may mặc, dệt da, hàng điện tử, đồ điện gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ
Thứ tư, xây dựng và cải tạo nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ
phát triển các nghành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, thu hút đầu tư trực

tiếp đầu tư nước ngoài, trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất
đang cản trở sự phát triển.
Thứ năm, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu
và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy
nhanh và có hiệu quả cao. Cụ thể: Ngành cơ khí hướng mạnh vào sản xuất công
cụ, thiết bị phục vụ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, thiết bị phục vụ công
nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản và sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất phụ tùng
lắp ráp một số loại sản phẩm phức tạp có trình độ kỹ thuật cao phát triển một số
ngành sản xuất nguyên nhiên vật liệu: dầu khí và lọc dầu, xi măng, luyện cán
thép
Thứ sáu, phát triển dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự
nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải
thiện đời sống nhân dân
Về cơ cấu nguồn kinh tế tạo điều kiện cho tất cả các vùng đề phát triển
trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của các vùng liên kết giữa các vùng
làm cho mỗi vùng có một cơ cấu kinh tế hợp lý và đều có chuyển biến tiến bộ
góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của đát nước.
Về cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành phố và đô thị



Tuỳ điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã, thị trấn đều phải được phát triển
trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Hình thành
các thị tứ làm trung tâm kinh tế, văn hoá cho mỗi xã hoặc cụm xã. Phát triển các
đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn đẻ giãn bớt công nghiệp và dân cư
tránh sự tập trung quá mức vào Hà Nội và Thành Phố Hố Chí Minh coi trọng
việc phát triển kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế và văn hoá, giữ gìn bản sắc và truyền
thống văn hoá dân tộc tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị.
Về cơ cấu thành phần kinh tế : Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động
viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. phát huy vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nước trên cơ sở chủ động đổi mới về tổ chức và hiệu quả quản lý tạo
điều kiện thuận lợi về kinh tế và pháp lý để các chủ doanh nghiệp tư nhân yên
tâm đầu tư chuyển dịch cơ cáu kinh tế. Mở rộng các hình thức liên doanh liên
kết, áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
3.2.Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với
tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung
phong phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau đây:
Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: Đó là tự động hoá. Ngoài
phạm vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử
dụng rộng rãi người máy thay thế con người điều khiển quá trình vận hành sản
xuất.
Hai là cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền
thống mà con người đã sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện, thì ngày nay
con người ngày càng khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng
rãi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời.
Ba là, cách mạng về vật liệu mới: Ngày nay ngoài việc sử dụng các vật
liệu tự nhiên, con người ngày càng tạo ra các vật liệu nhân tạo mới thay thế có



hiệu quả cho các vật liệu tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng
ngày càng giảm dần
Bốn là, cách mạng vê công nghệ sinh học: các thành tựu của cuộc cách
mạng này đang được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp,
y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái
Năm là, cách mạng về điện tử tin học: Đây là một lĩnh vực mà hiện nay
loại người đặc biệt quan tâm, trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử .
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã và đang đóng vai

trò rất to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá trong tất cả các
nước, nhất là các nước có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên cách thức tiến
hành ở những nước khác nhau lại không giống nhau, có nước tiến hành bằng
cách tự nghiên cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các ngành kinh tế trong nước,
có nước tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ cũng có nước tiến hành bằng
cách kết hợp giữa tự nghiên cứu và chuyển giao.
Thực chất của chuyển giao công nghệ là đưa công nghệ bao gồm cả phần
cứng và phần mềm từ nước này sang nước khác, làm thay đổi quyền sở hữu và
quyền sử dụng công nghệ được chuyển giao. Thực tế cho thấy việc chuyển giao
công nghệ cỉ phát huy được hiệu quả trong mô hình chiến lược công nghiệp hoá
hướng ngoại, “Hướng về xuất khẩu”
Chuyển giao công nghệ có những tác dụng sau:
Một là, rút ngắn khoảng cách tụt hâu của các nước chậm phát triển so với
các nước phát triển
Hai là, tạo điều kiện để khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực ở trong
nước nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh.
Ba là, đối với những nước đang trong quá trình chuyển từ mô hình chiến
lược công nghiệp hoá hướng nội, thay thế nhập khẩu sang chiến lược công
nghiệp hoá hướng ngoại hướng về xuất khẩu thì nó thúc đẩy nhanh sự chuyển
dịch này và cho phép đạt được hiệu quả kinh tế cao



Song song với quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ, việt Nam còn
phải xây dựng cho mình chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia
mang tính tổng thể lâu dài bởi vì đây là năng lực nội sinh đảm bảo sự phát triển
vững chắc và lâu bền của đát nước. đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản việt
Nam đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ: “Phát triển
khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là nhân tố quan trọng
để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Xuất phát từ điều kiện

lịch sử cụ thể của Việt Nam, việc chuyển giao và phát triển khoa học, công nghệ
sẽ theo phương hướng chung và các giải pháp cụ thể sau đây:
Phương hướng chung: hình thành cơ cấu kỹ thuật và công nghệ nhiều
tầng, kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến,
cải tiến công nghệ truyền thống ưu tiên công trình quy mô vừa và nhỏ nhưng
không loại trừ cơ sở quy mô lớn hoặc tương đối lớn nếu có hiệu quả và điều kiện
cho phép. Trong những năm trước mắt, coi trọng loại công nghệ có suất đầu tư
thấp, thu hồi vốn nhanh, tạo thêm việc làm cho người lao động.
Các giải pháp cụ thể để thực hiện là:
Thứ nhất, chọn giải pháp kỹ thuật, công nghệ phù hợp để đầu tư chiều sâu,
tận dụng có hiệu quả các cơ sở hiện có sau những năm xây dựng trước đây.
Thứ hai, cải tiến, nâng cấp, hiện đại hoá các kỹ thuật và công nghệ truyền
thống phục vụ phát triển kinh tế nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá nông
nghiệp và kinh tế nông thôn.
Thứ ba, tranh thủ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư
nước ngoài. Thực hiện giám định nghiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị.
Thú tư, cần đặt ra một cách nghiêm tục ngay từ đầu vấn đề bảo vệ môi
trường trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá để tránh những hậu quả xấu
phải trả giá đắt. Đầu tư nước ngoài bắt buộc phải tuân thủ theo tiêu chuẩn quốc tế
để bảo vệ môi trường, nên bố trí các cụm công nghiệp phân tán ở nhiều địa bàn
vừa là một biện pháp đỡ tốn kém vừa để hạn chế ô nhiễm.



Thú năm, gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia
nhằm đổi mới và làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới. Ưu tiên
nghiên cứu ứng dụng tập trung cho các lĩnh vực công nghệ điện tử và tin học,
công nghệ sinh học, công nghệ chế tạo và gia công vật liệu nhất là nguồn vật liệu
trong nước. chú trọng đúng mức các hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản
Cuối cùng là, tăng đầu tư banừg nhiều nguồn vốn cho việc nghiên cứu

khoa học, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học, phát triển và đào tạo, có cơ chế
bồi dưỡng và đào tạo nhân tài, được coi như “Một kế sách bền sâu” để tiến hành
công nghiệp hoá hiện đại hoá trên cơ sở tận dụng thế mạnh của dân tộc và con
người Việt Nam .







c. kết luận

Tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá để nhằm xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật, chuyển đổi căn bản các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế xã hội nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Hơn nữa tiến
hành công nghiệp hoá là con đường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH. Đó là quá trình mang tính quy luật, bởi vì: Ngay sự quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên CNXH đã có cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, nhưng nó
chỉ là tiền đề vật chất sẵn có. Muốn biến nó thành cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH, phải tiến hành một loại các cuộc cách mạng cải biến về quan hệ sản xuất,
tiếp tục vận dụng thành tựu mới của khoa học kỹ thuật, phân bố, tổ chức lại và
hiện đại hoá cao hơn.
ở nước ta – một nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ đi lên CNXH
việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá càng là một tất yếu và cần thiết
trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá có hiệu quả, phải giải quyết
được các yêu cầu chủ yếu sau đây:
Tạo nguồn vốn để công nghiệp hoá. Đây là một yêu cầu cơ bản và cũng là
điều kiện quan trọng hàng đầu để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ. Sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện thời đại ngày nay, phải đạt khoa học và
công nghệ như một “quốc sách” một “động lực”.
Làm tốt công tác điều tra cơ bản thăm dò địa chất.
Đào tạo cán bộ khoa học – kỹ thuật, khoa học quản lý và công nhân lành
nghề. Nội dung và yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều
kiện cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại đòi hỏi phải đẩy
mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách
hàng đầu để phát huy nhân tố con người - động lực trực tiếp của sự phát triển./.





×