Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

bài tập cá nhân chương trình phát triển giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.96 KB, 14 trang )

BÀI TẬP CÁ NHÂN
PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
Câu 1: Nêu và giải thích những đặc trưng cơ bản của thời đại chúng
ta đang sống. Phân tích những tác động của nó tới hệ thống giáo dục nói
chung, tới chương trình giáo dục, tới người dạy, người học và nhà quản lý
nói riêng?
BÀI LÀM
* Nêu và giải thích những đặc trưng cơ bản của thời đại
Chương trình giáo dục là sự trình bày có hệ thống một kế hoạch tổng thể
các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục
tiêu học tập mà người học cần đạt được, đồng thời xác định rõ phạm vi, mức độ
nội dung học tập, các phương tiện, phương pháp, cách thức tổ chức học tập,
cách đánh giá kết quả học tập v.v nhằm đạt được các mục tiêu học tập đề ra.
Chương trình giáo dục chịu sự tác động của thời đại, phản ánh đặc trưng
cơ bản của thời đại.
1. Bối cảnh quốc tế:
Trong suốt gần 60 năm qua, chương trình giáo dục ở các cấp học, bậc học
trong nền giáo dục của ta được biên soạn, thực thi, v.v trên cơ sở kế thừa các
chương trình giáo dục có trước đó, rồi cải tiến, cập nhật, nâng cao cho phù hợp
với sự phát triển kinh tế xã hội, khoa học – công nghệ của giai đoạn sau. Các
nhà giáo dục đã đưa vào chương trình giáo dục những tư tưởng lớn, những tác
phẩm có giá trị, các phát minh khoa học, những sự kiện chính trị xã hội to lớn
v.v với mong ước truyền lại cho các thế hệ sau những thành tựu to lớn của nhân
loại trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người. Tuy nhiên, chỉ trong vòng
7 năm của thập kỷ đầu của thế kỷ 21, những điều chúng ta tích luỹ được trong
hàng năm qua dường như khơng đủ để giải thích được những điều đang và sẽ
diễn ra.

1



Trong những năm 90 của thế kỷ trước, Internet xuất hiện và làm thay đổi
mọi quan điểm truyền thống về giáo dục, như nhà trường, lớp học, về dạy, học.
Những thay đổi to lớn nói trên như đang nói lên một điều là kỷ nguyên cũ
đã qua và một kỷ nguyên mới đang đến, sự phá vỡ của hệ thống, một sự kiện
chưa được hiểu một cách đầy đủ đã xảy ra và còn làm biến đổi nền giáo dục của
cả nhân loại. Và những người làm giáo dục cần có cách suy nghĩ mới để định
hướng nền giáo dục trong kỷ nguyên mới này.
1.1. Các xu thế chuyển đổi của thời đại.
1.1.1 Bước chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội tri thức.
Chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội tri thức, xuất hiện kinh tế tri
thức, kỷ nguyên của thông tin. Xã hội công nghiệp để lại sau nó sự cạn kiệt tài
ngun thiên nhiên, ơ nhiễm môi trường, thất nghiệp, bệnh tật… Trong xã hội tri
thức, giá trị kinh tế (sản phẩm) tri thức không phụ thuộc vào khối lượng vật
chất, mà nó quy định bởi hàm lượng chất xám tích tụ trong nó. Điều này làm
thay đổi quan điểm truyền thống về Giáo dục và Đào tạo, đưa GDĐT và khoa
học, công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, quyết định tương lai của
cả quốc gia, dân tộc.
1.1.2 Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông.
Cuộc cách mạng CNTT và truyền thông đang diễn ra với tốc độ ngày càng
nhanh, nhào nặn lại mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa,
giáo dục và đào tạo… buộc mỗi ngành, mỗi người phải tư duy lại về cách làm
việc trong hiện tại và tương lai.
Internet phát triển và số người dùng Internet ngày càng nhiều làm thay đổi
mọi quan điểm truyền thống về giáo dục; sự phá vỡ hệ thống làm biến đổi nền
giáo dục của cả nhân loại. Công nghệ thông tin và truyền thông đang trở thành
công cụ không thể thiếu không những trong lao động nghề nghiệp mà cịn là
nguồn năng lượng vơ tận cho tư duy, là kho tàng thông tin khổng lồ cho tìm tịi,
sang tạo. CNTT&TT cũng đang làm thay đổi tận gốc quan niệm truyền thống về
nhà trường, về dạy, về học, về người dạy, người học.
2



1.1.3 Cuộc các mạng công nghiệp lần thứ tư
Sự phát triển của các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và
hệ thống mạng đang trở nên ngày càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn
và vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Internet ngày càng
phổ biến và di động, Internet của vạn vật và của các dịch vụ…Bối cảnh đó đặt ra
cho các nhà giáo dục những thách thức: phải cung cấp được những cơng dân
tồn cầu, sáng tạo và khởi nghiệp, có hồi bão vươn lên…
1.1.4 Tồn cầu hóa.
Cùng với sự xuất hiện Internet và phát triển KH-CN, xu thế và các q
trình tồn cầu hóa đang diễn ra, là dịng chảy xun biên giới của thơng tin, tri
thức, ý tưởng, công nghệ, là sự luân chuyển tự do giữa các quốc gia về hang
hóa, dịch vụ, nguồn vốn, kể cả con người. Dịng chảy đó dẫn đến các tiến trình
hội nhập về kinh tế, văn hóa, giáo dục…giữa các quốc gia, tạo ra một thế giới
phẳng dần; trong đó các quốc gia dân tộc xích lại gần nhau, hợp tác, cạnh tranh
để cùng tồn tại và phát triển. Giáo dục được quốc tế hóa, con người được học,
được giáo dục để còn chung sống trong một mái nhà chung.
1.1.5 Đấu tranh xác lập các giá trị văn hóa cốt lõi.
Các giá trị cốt lõi của nhân loại như hịa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ,
hợp tác và phát triển đang được giữ gìn và tơn trọng, nhưng những vấn đề xung
đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố… vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, chưa có hồi
kết. Mặt khác sự phát triển của xã hội tiêu dung với sự trợ giúp của CNTT&TT
đã làm cuộc song của con người ngày càng phụ thuộc vào những sản phẩm do
chính mình tạo ra và trượt theo những giá trị thực dụng, tầm thường.
Trong bối cảnh đó, con người đang dần ý thức được mối nguy hại tiềm tàng
về sự xói mịn các giá trị văn hóa cốt lõi được sang lọc và tích tụ qua các thời
đại và hướng giáo dục đến việc củng cố, phát triển trong thế hệ trẻ những giá trị
này, làm cơ sở cho việc xây dựng một ngôi nhà chung cho thế giới.
1.2. Sự tác động của các xu thế thời đại tới sự phát triển của giáo dục thế

giới.
3


1.2.1 Sự thay đổi vai trò của giáo dục.
Cuộc cách mạnh 4.0 đặt giáo dục, KH-CN vào vị trí hồn tồn khác. Giáo
dục khơng chỉ là dịch vụ cơng, hay một lại hình xã hội, mà trở thành động lực
phát triển xã hội, và thông qua việc cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao,
giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, làm ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, giá trị cao.
1.2.2 Một bộ phận của giáo dục cùng với khoa học và công nghệ trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp
Khi thế giới chuyển sang kinh tế tri thức với đặc trưng là các sản phẩm có
giá trị được quy định bởi hàm lượng chất xám và độ tiêu hao nguyên liệu thì
khoa học với tư cách là cỗ máy sản sinh tri thức trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Mặt khác, nếu khoa học được coi là cỗ máy vận hành nền kinh tế tri
thức, thì giáo dục chính là nguồn cung cấp nhiên liệu, như vậy trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
1.2.3 Giáo dục phát triển theo hướng mở, gắn liền với đời sống xã hội.
Giáo dục phát triển theo hướng mở, lấy những vấn đề trong cuộc sống làm
bối cảnh dạy học để tào tạo những người có năng lực sử dụng được kiến thức,
kỹ năng vào giải quyết thành công những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống
thực.
2. Bối cảnh trong nước:
2.1. Xu thế về dân cư:
Cơ hội dân số vàng, giảm sinh, tuổi thọ cao dẫn đến xu thế già hóa sau 25
năm. Tuy nhiên 85% từ 15 tuổi trở lên chưa qua đào tạo, giáo dục cần đưa thêm
giai đoạn thứ năm học tập cho người lớn tuổi.
2.2. Xu thế kinh tế:
2.2.1 Hội nhập kinh tế dẫn đến hội nhập giáo dục.

Hội nhập kinh tế (WTO, ASEAN…) dẫn đến hội nhập giáo dục. Giáo dục
được tiếp cận với các nền giáo dục tiên tiến, có cơ hội học hỏi và hội nhập, cạnh
tranh nhưng vừa phải giữ gìn được bản sắc dân tộc.
4


2.2.2 Sự xuất hiện của kinh tế tri thức.
Để xây dựng nền kinh tế tri thức thì đị chúng hóa giáo dục đại học là điều
kiện tiên quyết, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thong lấy rèn luyện
phẩm chất, năng lực là cốt lõi, là điều kiện bắt buộc.
2.2.3 Đổi mới mơ hình tăng trưởng.
Chuyển từ mơ hình tăng trưởng theo chiều rộng sang mơ hình tăng trưởng
theo chiều sâu, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơng nghệ, tăng năng
suất lao động địi hỏi sự chuyển đổi tương ứng mơ hình phát triển giáo dục.
2.2.4 Tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh đang được hoàn thiện trong tất cả các
lĩnh vực, giúp Việt Nam hoàn thiện nền kinh tế thị trường đầy đủ và được quốc
tế thừa nhận.
2.3 Xu thế công nghệ:
2.3.1 Cách mạng CNTT&TT:
Đang có những bước tiến bộ nhảy vọt, tác động mạnh mẽ và sâu rộng vào
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở bất kỳ đâu, bất cứ lúc nào. Giáo dục
chuyển dần sang tin học hóa việc dạy - học và quản lí;
2.3.2 Học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập:
Được khẳng định trong Nghị quyế TW4 khóa VII: “Thực hiện nền giáo dục
thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền và trách nhiệm
của mỗi cơng dân”.
2.4. Xu thế về hội nhập quốc tế:
2.4.1 Hình thành thị trường giáo dục:

Trong quá trình hội nhập, một bộ phận giáo dục được xem là dịch vụ ( đầu
tư có lãi, đầu tư phi lợi nhuận).
2.4.2 Xây dựng không gian giáo dục chung. Giáo dục ASEAN.
Việt Nam đang hướng tới không gian giáo dục đại học ASEAN khi cộng
đồng ASEAN chính thức thành lập.
5


2.5. Xu thế về chính trị xã hội:
2.5.1 Vai trị quyết định của Chính phủ trong đầu tư cho giáo dục với tư
cách là một lợi ích cơng.
Mặc dù được xã hội hóa và một bộ phận được thị trường hóa, Chính phủ
vẫn đóng vai trị là nhà cung cấp phần lớn ngân sách cho giáo dục, đảm bảo giáo
dục về cơ bản vẫn là một lợi ích cơng.
2.5.2 Xác lập mơ hình quản lý cơng mới, đổi mới cách quản lý nhà nước về
giáo dục.
Cùng với việc từ bỏ độc quyền trong cung ứng giáo dục, một mơ hình quản
lý nhà nước mới về giáo dục cũng đang hình thành. Đó là việc phân quyền mạnh
hơn cho các cơ sở giáo dục, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp…
2.5.3 Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục với phương châm “huy động toàn xã hội làm giáo
dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân
dưới sự quản lý của nhà nước”.
* Phân tích những tác động:
Trong bối cảnh mới của quốc tế và trong nước, với những đổi thay to lớn
trong đời sống kinh tế xã hội, hơn bao giờ hết, chất lượng của giáo dục và đào
tạo trở thành vấn đề sống còn, quyết định sự thành bại của cả một quốc gia
trong điều kiện hội nhập với kinh tế thế giới. Yếu tố quyết định chất lượng của
giáo dục đại học là chương trình giáo dục – chương trình một khố học, chương
trình một mơn học. Những người quản lí giáo dục đại học, những nhà thiết kế

chương trình giáo dục, giảng viên, sinh viên sẽ là những người trực tiếp thực
hiện nhiệm vụ này.
Đối với hệ thống giáo dục, chương trình giáo dục:
Trong bối cảnh có những thay đổi to lớn về tình hình quốc tế và trong
nước, các nhà thiết kế chương trình giáo dục và giáo dục đại học cần phải có
những đổi mới căn bản. Sự đổi mới phải bắt đầu từ tư duy về triết lí của chương
trình giáo dục, tới các phương pháp thiết kế, mơ hình thiết kế, như cách xác định
6


và phân tích nhu cầu, cách xác định mục tiêu đào tạo, lựa chọn và sắp xếp nội
dung đào tạo, phương thức và hình thức đào tạo, hình thức kiểm tra đánh giá kết
quả đào tạo. Người thiết kế phải đặc biệt quan tâm tới việc sử dụng các công
nghệ, thiết bị hiện đại cần được huy động để phục vụ cho mục tiêu đào tạo rất đa
dạng trong bối cảnh mới. Công nghệ thực tế ảo sẽ thay đổi cách dạy và cách
học. Trong thời đại công nghệ, phương pháp dạy học phải được cải tiến mạnh
mẽ và một trong những phương pháp khơng thể thiếu là góp phần nâng cao chất
lượng dạy học ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện trực quan vào quá
trình dạy học.
Trong thời đại mới, mục tiêu giáo dục cũng có sự thay đổi so với trước
đây: Trong cách mạng công nghệ lần thứ nhất, mục tiêu học tập là để làm chủ
những kiến thức và kỹ năng cơ bản. Ví dụ: tại trường, người học học kiến thức
về các mơn tốn, ngơn ngữ, nghệ thuật...; trong đào tạo kỹ năng có thể đào tạo
về kỹ năng cơ bản như đọc sách, tranh biện... Với thời đại 4.0, giáo dục hướng
tới phát triển cá nhân một cách tổng thể. Nếu trước kia chỉ có một trí thơng minh
duy nhất được cơng nhận là logic, thì xã hội hiện đại cơng nhận đa trí thơng
minh như cảm xúc, vận động, ngơn ngữ... Từ đó, mục tiêu giáo dục đang hướng
tới giúp mỗi người phát triển tối đa các trí thơng minh tiềm ẩn của mình.
Đối với người học
Trong bối cảnh mới, người học khơng còn là người thụ động tiếp nhận

kiến thức từ người dạy, mà trở thành một chủ thể tự giác, tự tổ chức và tự chịu
trách nhiệm về quá trình nhận thức của bản thân dưới sự hướng dẫn và tổ chức
của người dạy.
Trong kỷ ngun tồn cầu hóa, người học khơng cịn bị giới hạn trong
bốn bức tường nữa mà sự học sẽ diễn ra mọi lúc mọi nơi. Môi trường GD khơng
cịn diễn ra trong phạm vi nhà trường, lớp học mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu.
Bên cạnh đó, việc kết nối trong thời đại IT sẽ kéo theo sự phát triển của các hình
7


thức học online, học trực tuyến, người học có thể học ở bất cứ nơi nào lúc nào
họ muốn. Điều này địi hỏi bản lĩnh thích ứng, nhạy bén của người học.
Đối với người dạy
Trong kỉ nguyên thông tin, vai trị của người giáo viên truyền thống cũng
có những thay đổi rất căn bản. Để có thể trở thành người giáo viên trong thế kỉ
21, cần thay đổi nếp tư duy về giáo dục truyền thống, về phương pháp luận dạy
học. Vì thế, để đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghệp 4.0, đội ngũ giáo viên
cần phải được bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực bằng những biện pháp như
tập huấn sử dụng công nghệ phục vụ dạy học, ứng dụng các hình thức tiên tiến,
mơ hình trực tuyến vào công tác bồi dưỡng giảng viên, đẩy mạnh công tác
nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng theo hướng nghiên cứu và nâng cao trình độ
ngoại ngữ.
Trong kỷ nguyên số này, hơn bao giờ hết, vai trò của người thầy có sự
thay đổi mạnh mẽ. Vai trị người giáo viên có sự biến đổi từ truyền thụ kiến thức
theo lối truyền thống sang vai trò mới với tư cách là “người xúc tác và điều
phối… người thiết kế, cố vấn, huấn luyện và tạo ra môi trường học tập”. Người
giáo viên không phải là giảng bài mà là hướng dẫn và xúc tác giúp người học
biết tự định hướng việc học của họ. Vì thế, người giáo viên cần phải ngày càng
bản lĩnh, không ngừng trau dồi năng lực của mình để đáp ứng yêu cầu mới.
Đối với nhà quản lý:

Để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục cần phải hội tụ được những phẩm chất, năng lực hiện đại như kỹ năng hợp
tác, năng lực tu duy phản biện, kỹ năng giải quyết vấn đề, tạo động lực, phải có
tầm nhìn sâu rộng, biết cách phân tích, liên hệ, so sánh giữa giáo dục Việt Nam
với các nền giáo dục khác trên thế giới. Năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục sẽ giúp nâng cao hiệu quả lãnh đạo hệ thống giáo dục
nói chung, các nhà trường nói riêng, từ đó giúp giáo dục đạt được mục tiêu và sứ
mệnh cao cả của mình. Địi hỏi người quản lý phải đáp ứng được:
8


- Có tầm nhìn xây dựng chiến lược, chính sách giáo dục: Người cán bộ
quản lý giáo dục cần phải được trang bị về kiến thức, kỹ năng và thái độ để xác
định vị trí, vai trị, tầm nhìn, sứ mệnh của giáo dục và của cơ sở giáo dục, từ đó
có thể xây dựng được các chiến lược, chính sách phát triển giáo dục và cơ sở
giáo dục.
- Có năng lực quản lý nguồn nhân lực giáo dục: Cán bộ quản lý giáo dục
cần phải thay đổi trong tư duy về vai trị và nội dung của các chính sách phát
triển và quản lý nguồn nhân lực giáo dục và cơ sở giáo dục.
- Có năng lực chun mơn thể hiện ở: Khả năng phân tích và giải quyết
các vấn đề tình huống, phát hiện thách thức, cơ hội, nguy cơ, đề xuất các giải
pháp tận dụng cơ hội và tập trung nguồn lực để giải quyết các vấn đề xung yếu,
đột phá của hệ thống hoặc tổ chức; Khả năng xác định đúng phương hướng phát
triển hệ thống hoặc tổ chức.
- Có năng lực đổi mới tư duy; năng lực thích ứng hịa nhập và hội nhập;
năng lực hợp tác; năng lực kiểm tra đánh giá; nắm vững luật giáo dục và hiểu
biết pháp luật có liên quan; có kỹ năng phân tích tổng hợp; có lịng nhân ái, tính
trung thực và khiêm tốn; có tác phong cơng nghiệp; có tính quyết đốn; biết ứng
dụng ngoại ngữ, tin học giúp cho việc quản lý.
- Có năng lực lãnh đạo ưu việt, vận dụng các phương pháp chuyển đổi để

đáp ứng vai trò và trách nhiệm của người lãnh đạo nhà trường ngày càng lớn
hơn, theo kịp các mục tiêu đổi mới của nhà trường.
- Có khả năng phát triển nhà trường lấy người học làm trung tâm, trong đó
tạo điều kiện đề người học ln nỗ lực đạt được kết quả cao nhất và không
ngừng đổi mới đến cùng. Cần có tầm nhìn tồn cảnh và hệ thống để đảm bảo các
chương trình chuyến đổi của nhà trường phải bám sát mục tiêu phát triển quốc
gia ở cấp độ cao hơn.
9


- Có năng lực liên hệ giữa tầm nhìn quốc gia với trường học và quá trình
thay đổi. Bối cảnh xã hội hiện nay là vạn vật kết nối internet, mọi sự vật, hiện
tượng hay con người đều dễ dàng kết nối, liên hệ với nhau.
Vì vậy, người cán bộ quản lý giáo dục phải có một cái nhìn tổng quan, khách
quan và so sánh giữa hệ thống giáo dục Việt Nam với giáo dục của thế giới, từ
đó có những định hướng phát triển hợp lý cho giáo dục nước ta.
- Có các kỹ năng khác nhau trong điều hành, giải quyết công việc như: Tổ
chức công việc của bản thân, các phương pháp, quá trình, quy trình làm việc
hàng ngày, kết hợp công việc trước mắt và lâu dài; Biết cách làm việc với mọi
người, hợp tác và tạo ra mơi trường phát huy khuyến khích mọi người làm việc
phát huy sáng tạo cá nhân; Biết kiểm tra, đánh giá và sử dụng đúng năng lực của
từng người; Phát hiện được vấn đề tổng quát và chi tiết, nhận biết nhân tố động
lực.

Câu 2: Nêu và giải thích 4 nguyên tắc đầu lấy người học làm trung
tâm. Lấy 1 ví dụ minh họa trên 1 bài học cụ thể của mình.
Trả lời:
Trong bối cảnh mới, người học khơng còn là người thụ động tiếp nhận
kiến thức từ người dạy, mà trở thành một chủ thể tự giác, tự tổ chức và tự chịu
trách nhiệm về quá trình nhận thức của bản thân dưới sự hướng dẫn và tổ chức

của người dạy, việc dạy học lấy người học làm trung tâm đang được coi là
phương pháp hữu hiệu trong đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục cụ thể là:
1. Việc học những vấn đề phức tạp sẽ đạt hiệu quả cao nhất, nó được
tiến hành trên cơ sở những thông tin và kinh nghiệm mà người học đã tích
lũy được:
Có nghĩa là việc giáo viên cần tìm hiểu xem học sinh có đủ kiến thức để
học bài học đó chưa. Để làm được điều đó học sinh phải tìm hiểu bài trước ở nhà
10


hoặc ít ra phải lập được dàn bài trọng tâm trước khi đến lớp. Khi người học đọc
bài trước khi đến lớp, họ sẽ có cái nhìn tổng qt về cấu trúc của bài học, từ đó
có thể xác định được đâu là phần quan trọng cần tập trung. Việc làm này sẽ giúp
tiết kiệm được thời gian, nếu ngồi trên lớp mới đọc bài sẽ bỏ lỡ bài giảng của
giáo viên, việc tiếp thu kiến thức cũng bị hạn chế. Thay vì lên lớp đợi giáo viên
phân tích nội dung bài học, nếu người học đọc trước bài ở nhà, bạn sẽ có thể
nắm được phần kiến thức trọng tâm của bài, gạch ra những vấn đề mình cịn băn
khoăn để lên lớp đặt câu hỏi cho giáo viên. Cách học này không chỉ giúp người
học tiếp thu bài trên lớp nhanh hơn mà còn hiểu bài kỹ hơn nhờ nhận được giải
đáp từ giáo viên về những gì mình chưa hiểu. Nếu người học đã chuẩn bị bài
trước, họ sẽ dễ dàng tham gia đóng góp vào bài giảng của giáo viên, vừa có ích
cho việc tiếp thu bài.
Ví dụ: Trong chương trình Lịch sử 6, học sinh sau khi học “Bài1: Lịch sử
là gì?” và để chuẩn bị cho bài tiếp theo (“Bài 2: Cách tính thời gian trong lịch
sử”), để bài học đạt hiệu quả HS cần tìm hiểu trước bài ở nhà để nhận biết
trước về : Sự cần thiết phải xác định thời gian trong lịch sử; Cách người xưa
tính thời gian trong lịch sử, mô tả nguyên tắc của phép làm lịch (lịch âm, lịch
dương); làm quen các khái niệm: “thập kỷ”, “thế kỷ”, “thiên niên kỷ”,”TCN”,
“SCN” và sự ra đời của lịch chung (Cơng lịch). Khi có sự chuẩn bị trước như
vậy thì khi giáo viên giảng bài các em sẽ hiểu bài sâu hơn, Phân biệt được khái

niệm “thập kỷ”, “thế kỷ” “thiên niên kỷ”,”TCN”, “SCN”, So sánh cách tính
thời gian của người xưa với thời nay và giải thích được sự cần thiết thế giới cần
có lịch chung.
2. Người học thành cơng là người học có thể diễn đạt tri thức đã học
một cách có ý nghĩa và chặt chẽ.
Tức là người học biết vận dụng kiến thức đã học vào trong thực tiễn cuộc
sống. Để làm được điều này giáo viên có thể sử dụng hai phương pháp cơ bản
sau:
Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề:
11


Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải
quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng
nhận biết và giải quyết vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó
là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thơng qua việc giải quyết vấn đề,
giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. Dạy học giải
quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức của học
sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực
khác nhau của học sinh. Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học
chun mơn, cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn
dạy học hiện nay, dạy học giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề
khoa học chun mơn mà ít chú ý hơn đến các vấn đề gắn với thực tiễn. Tuy
nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học
chun mơn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình
huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn
xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.
Vận dụng dạy học theo tình huống:
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học
được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc

sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học
tập tạo điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương
tác xã hội của việc học tập. Các chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội
dung liên quan đến nhiều mơn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau, gắn với
thực tiễn. Trong nhà trường, các môn học được phân theo các môn khoa học
chun mơn, cịn cuộc sống thì ln diễn ra trong những mối quan hệ phức hợp.
Vì vậy sử dụng các chủ đề dạy học phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa
rời thực tiễn của các mơn khoa học chuyên môn, rèn luyện cho học sinh năng
lực giải quyết các vấn đề phức hợp, liên môn. Phương pháp nghiên cứu trường
hợp là một phương pháp dạy học điển hình của dạy học theo tình huống, trong
đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống điển hình, gắn với thực tiễn thông
12


qua làm việc nhóm. Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là
con đường quan trọng để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời
sống, góp phần khắc phục tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay
của nhà trường phổ thơng. Tuy nhiên, nếu các tình huống được đưa vào dạy học
là những tình huống mơ phỏng lại, thì chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải
quyết các vấn đề trong phịng học lý thuyết thì học sinh cũng chưa có hoạt động
thực tiễn thực sự, chưa có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành.
Ví dụ: Khi dạy “Bài 12: Nước Văn Lang” trong chương trình lịch sử 6,
giáo viên có thể kết hợp cho HS học tại bảo tàng, đi tham quan di tích lịch sử
Đền Hùng tại địa phương để các em hiểu được những nét cơ bản về điều kiện
hình thành nhà nước Văn Lang; Nhà nước Văn Lang tuy còn sơ khai nhưng đó
là 1 tổ chức quản lý đất nước bền vững đánh dấu giai đoạn mở đầu thời kỳ dựng
nước (Do Vua Hùng gây dựng). Từ đó bồi dưỡng lịng tự hào dân tộc và sự biết
ơn đối với các Vua Hùng đã có cơng dựng nước trong q khứ.
3. Người học thành cơng là người có thể liên kết cái mới biết với cái
đã biết một cách có ý nghĩa.

Để người học có sự liên kết giữa cái mới biết và cái đã biết, GV không
nên xem nhẹ khâu kiểm tra bài cũ. Khi học sinh nắm chắc bài cũ tức là dễ dàng
hơn trong việc tiếp thu bài mới, đỡ đi gánh nặng cho GV. GV có thể tạo mối liên
kết giữa bài mới và bài cũ thông qua một số công việc: Chuẩn bị kỹ các câu hỏi
ở phần củng cố lại bài học; Cho HS chuẩn bị bài ở nhà theo hệ thống câu hỏi đó;
Chọn câu hỏi kiểm tra bài phù hợp với từng đối tượng; Mức độ kiểm tra ở mỗi
lần tăng dần từ dễ đến khó với học sinh dưới mức trung bình để các em có cơ
hội tiến bộ. Khơng vội trách phạt HS khơng thuộc bài khi chưa hiểu rõ ngun
nhân…
Ví dụ: Sau khi học: “Bài 2: Cách tính thời gian trong lịch sử”, HS liên
kết được với nội dung bài mới và bài cũ (Bài 1: Lịch sử là gì) đó là muốn biết và
hiểu lịch sử cần phải xác định được thời gian, sắp xếp thứ tự sự kiện theo thời
13


gian. Việc xác định thời gian là nguyên tắc cơ bản quan trọng trong việc tìm
hiểu và học lịch sử.
4. Người học thành cơng là người có thể tạo ra hoặc sử dụng những
phương pháp khác nhau để đạt đến mục tiêu học tập.
Trước đây người học thường thụ động, chủ yếu tiếp nhận kiến thức qua sự
truyền thụ của giáo viên thì trong bối cảnh hiện nay, khi phương pháp dạy học
lấy người học làm trung tâm đang dần phổ biến thì người học cũng có sự thay
đổi để đạt đến mục tiêu học tập đó là tự học với nhiều phương pháp khác nhau
như: Lập kế hoạch và mục tiêu – đề ra các phương pháp tự học cụ thể, tự tìm
kiếm tài liệu, tự kiểm tra kiến thức, học cách ghi nhớ, chọn lọc thông tin, kiến
thức…
VD: khi học sinh học Lịch sử, vì đặc thù của Lịch sử là mơn học thuộc
lịng nên HS khơng thế nhớ bao quát được tất cả kiến thức chỉ sau một, hai buổi
ôn tập. Để việc nắm kiến thức được tốt, HS có thể tự tìm tới các phương pháp
như:

- Chia nhỏ các mốc lịch sử và gắn cho nó những ghi chú quan trọng.
- Viết lại những gì đã học và đối chiếu để việc học sử được rành mạch và
nhớ lâu thì nên có sự so sánh, đối chiếu những nội dung đã được học với nhau.
Học thuộc lòng bằng phương pháp viết là cách học hiệu quả để nhớ bài được
lâu nhất.
- Học nhóm: Việc thảo luận, trao đổi kiến thức giữa những người học với
nhau rất hiệu quả và thường mang lại một kết quả học tập tốt. Với mơn lịch sử
thì sự tranh luận sẽ giúp việc ôn luyện, củng cố kiến thức được rành mạch và
giúp HS nhớ bài rất lâu.

14



×