Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Một cách hiểu về thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.47 KB, 35 trang )

Một cách hiểu về thơ
Thơ, thơ ca hay thi ca, là một khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học có
vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng. Một bài văn cũng
có thể là một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc
cho người đọc một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn
mang tính vần giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm
hưởng nhạc tính trong bài. Thơ thường dùng như một hình thức biểu tả cảm
xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc
sống, như khi người ta đứng trước một phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng
trước một thảm cảnh. Sự tương tác giữa tình cảm con người và hoàn cảnh
tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn bày tỏ với một phong độ chắt
lọc, tinh khiết, không rườm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhưng
cô đọng và triết khúc. Muốn làm được như vậy, người làm thơ phải có một
con mắt quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và nhanh tróng liên tưởng giữa
những hình ảnh quan sát được với những gì vốn có trước đây.
Tính nhạc trong thơ là một hình thức làm cho bài thơ dễ được cảm nhận bởi
người nghe hay người đọc và sức cảm nhận nhanh tróng này tương tự như
hiệu ứng của việc xem phim và nghe âm nhạc trong phim hòa quyện với
nhau cùng một lúc. Câu chữ trong thơ văn, hay trong ngôn ngữ, giúp con
người tái tạo lại hình ảnh mà nó miêu tả, song âm thanh và vần điệu của các
từ lại gây cảm xúc về âm nhạc. Sự kết nối khéo léo giữa hai tính chất này
của ngôn ngữ thúc đẩy sự tìm tòi các từ có âm thanh hay, xác thực với tình
cảm người viết muốn truyền, đồng thời tìm tòi những từ mới. Tính âm nhạc
còn thể hiện trong việc sử dụng các từ diễn tả âm thanh như "rì rào", "vi
vút", "ầm ầm", "lanh canh" v.v. Chính vì tính chất này, việc làm thơ nhiều
khi tương tự như việc làm toán, hoặc việc bài binh bố trận trong quân sự, mà
bài toán hay kẻ thù phải chinh phục chính là cảm xúc của họ, và câu chữ
hoặc từ là phép toán hay lực lượng quân đội mà họ có, và người làm thơ phải
nhanh chóng tìm ra phương pháp biểu tả tình cảm của mình dưới một hình
thức cô đọng, hợp lý, với một số lượng từ rất nhỏ. Để lùng tìm những câu,
chữ, từ, nghĩa nhanh chóng, người làm thơ thường phải kinh qua một quá


trình luyện tập lâu dài, bằng cách đọc sách, học cách biểu tả tình cảm của
mình bằng những câu chữ ngắn gọn, đồng thời có cảm quan nhạy bén với
ngữ nghĩa của từ được dùng. Thơ còn đòi hỏi tính phân tích các từ nghép và
cô đọng từ. Chính vì thế, nhiều khi do làm thơ, người làm thơ dễ rơi vào tình
trạng liên tưởng giữa từ của nghĩa này sang từ của nghĩa khác. Khi được
dùng trong thơ, người ta còn gọi là sự "chơi chữ".
Tính hội họa trong thơ, hay còn gọi là tính tạo hình, là một tính chất cơ bản.
Người làm thơ, trước khi viết thơ, thường rơi vào tình trạng mà người ta gọi
là "cảm hứng". Trong tình trạng này, các hình ảnh thu được trong trí nhớ, có
thể bao gồm cả các khung cảnh ở bên ngoài quan sát được, liên kết với nhau,
tạo nên một thế giới nhỏ bé. Hình ảnh có thể rõ đến mức người ta gần như
cảm thấy có thể động vào những vật thể, ngửi thấy mùi vị, thấy sự chuyển
động của vật thể, thấy màu sắc v.v. Người làm thơ sẽ sống trong thế giới ấy
trong khi họ đang nghĩ về bài thơ, họ sẽ đi lại, vào các góc của thế giới của
mình, nhìn rõ hơn các vật cảnh, liên kết thêm những màu sắc, những chuyển
động, những dãy liên tiếp của các sự kiện xảy ra, hay nói cách khác, họ xa
rời cái thế giới mà họ đang sống. Chính vì hiện tượng này, người ta có câu
nói đùa, chỉ các nhà thơ là thơ thẩn, nằm mơ hay mơ mộng như người ở trên
cung trăng. Đây là một hiện trạng có thật. Sự hưng phấn do được sống trong
thế giới riêng của mình, được xắp đặt nó theo ý riêng của mình, được thêm
thắt, chắt lọc, được cho các vật chuyển động, xoay quanh các vật, chiêm
ngưỡng chúng, cảm giác chúng v.v. gây nên sự ham mê, thôi thúc người làm
thơ tiếp tục sống và diễn tả lại chúng bằng từ ngữ. Không những quan sát và
diễn tả không thôi, họ còn phải nâng sự quan sát của họ lên đến một mức độ
nhạy bén, hoa mỹ, không tầm thường - đây chính là sự khác biệt giữa thơ và
truyện hay với các loại hình nghệ thuật khác. Một số cách dùng từ để thể
hiện:
Quan
sát
Cách diễn tả thường

thấy
Cách diễn tả có tính thơ hơn
mưa ảm đạm, xối xả, rầu rĩ
thì thầm, lõm bõm, quất mặt, vắt
nước, bạc trời đất, xiên ngang trời
buồn
thảm, rầu, ơi là buồn,
héo hắt, tênh
lãng đãng, nham nhở, đặc sệt, nhỏ
giọt, thở khói đen, bám rễ, đeo trên
ngực
hoa nở, thắm, thơm lừng, chúm chím, nứt ra, ngóc đầu, nhảy
thơm ngát, thơm nồng
múa, hát vị ngọt, phanh lồng ngực tỏa
hương
Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh thường được thấy rất nhiều trong các bài
thơ. Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ mộng. Có những hình
ảnh khắc khổ, vuông thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ xộ,
đôi khi gớm ghiếc. Mỗi một hình ảnh đều nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan
của người làm thơ lúc họ viết. Một trong những ví dụ về hình ảnh có thể tìm
thấy trong tập Truyện Kiều của Nguyễn Du
[1]
:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Do ảnh hưởng của quan niệm hội họa dưới thời người làm thơ còn sống,
Nguyễn Du thường sử dụng phong thái thủy mặc trong thơ của mình. Phong
cảnh đơn sơ, chấm điểm, phác thảo và nhẹ nhàng, nhưng không kém sức
quyến rũ. Một câu khác của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Hay Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Hay gần đây hơn của nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài Nghe thầy đọc thơ:
Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghiêng mặt sông xa
Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa
Không chỉ là những hình ảnh đẹp, tĩnh tại, hình ảnh trong thơ còn động đậy,
hoạt bát. Người đọc thơ vừa hình tượng được vật thể, vừa thấy màu sắc, vừa
thấy sự chuyển động của chúng. Chính vì lý do này, nhiều khi các vật được
miêu tả trong thơ được nhà thơ cho thêm tính "hoạt họa" của nó, hay còn gọi
là "nhân cách hóa". Dùng động từ cho những vật tưởng là vô tri, vô giác
cũng giống như việc thổi sức sống vào trong vật thể, làm nó sống động trong
đầu người đọc thơ. Chẳng hạn Trần Đăng Khoa đã viết trong bài Mặt bão:
Bão đến ầm ầm
Như đoàn tàu hỏa
Bão đi thong thả
Như con bò gầy
Hay trong bài "Góc Hà Nội"
Nắng tháng tư xỏa mặt
Che vội vàng nỗi nhớ đã ra hoa.
..
Thành phố ngủ trong rầm rì tiếng gió
Nhà ai quên khép cửa
Giấc ngủ thôi miên cả bến tàu
[2]


Đương nhiên khi đọc những câu thơ trên, chúng ta còn thấy tính ẩn dụ, so
sánh hình ảnh. Tính tương đương của hình ảnh làm cho người đọc dễ liên
tưởng hơn, đặc biệt khi để miêu tả một trạng thái với nhiều chi tiết mà tính
chắt lọc của thơ không cho phép người ta được rườm rà. Ví von, ẩn dụ còn
gây hiệu ứng về các trạng thái tình cảm, chẳng hạn như người ta cảm thấy
những vật vô tri, vô giác, hay những hoàn cảnh tự nhiên bỗng trở nên đáng
yêu hơn, ngộ nghĩnh hơn, đáng ghét hơn, hay đáng sợ hãi hơn v.v. Những
hình ảnh ví von ngộ nghĩnh thường thấy trong các bài thơ của thiếu nhi làm,
chẳng hạn mấy câu thơ Khoa làm lúc 9 tuổi trong bài Buổi sáng nhà em:
Ông trời nổi lửa đằng đông
Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
..
Chị tre chải tóc bên ao
Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương
Bác nồi đồng hát bùng boong
Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà
Song nó cũng xuất hiện trong những bài của những nhà thơ lớn tuổi. Ví dụ
Nguyễn Mỹ trong bài Con đường ấy
[3]
:
Nắng bay từng giọt - nắng ngân vang
Ở trong nắng có một ngàn cái chuông
Hoặc Hàn Mặc Tử trong bài Một Nửa Trăng:
Hôm nay chỉ có nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Đặc biệt tính ví von trong thơ Hồ Xuân Hương gây nhiều trạng thái tình cảm
nửa hư, nửa thực, gần như trêu chọc người đọc, như trong bài Đánh Cờ:
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.

Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Hay trong bài Ốc nhồi (thơ Hồ Xuân Hương):
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.
Nếu hình ảnh trong đầu của nhà thơ không sống động, thì người đọc thơ
cũng không có cảm quan sống động của bài thơ. Sự tương tác giữa họa, nhạc
trong thơ có thể gần như tương tự với sự đóng góp của họa sĩ, nhạc sĩ, hay
nói cách khác, sự dàn dựng một bộ phim, và người họa sĩ, nhạc công, đạo
diễn phim v.v. tất cả đều chỉ bởi nhà thơ với ngòi bút và những từ ngữ trong
một hệ thống ngôn ngữ mà ra.
Cách sử dụng dùng hình ảnh động đậy bằng việc cho thêm các động từ cũng
thường được thấy trong các bài thơ Đường, đặc biệt là trong các vế đòi hỏi
tính đối lập. Chẳng hạn Hồ Xuân Hương trong bài Lên chơi đông sơn tự:
Đông Sơn cảnh chiếm một hồ riêng,
Uyên báu bay về, khói pháp chen,
Đá núi điểm đầu, mưa phất xuống,
Ngàn hoa nở rộ, gió tung lên,
Đế Bà hương hỏa thơm bên xóm,
Trịnh Chúa xe qua vết cũ còn,
Cứu độ bè từ qua bể khổ,
Chim âu ngủ đứng bến ngư thôn.
Một điểm khá quan trọng trong phim ảnh, nhạc, thơ hoặc bất cứ một hình
thức nghệ thuật nào là tính lôgic của các sự kiện. Sự phát triển của các hình
ảnh từ nhỏ đến lớn, từ trầm đến thanh, từ mịn màng đến gồ ghề v.v. phải
luôn luôn được cân nhắc. Người đọc thơ bị lôi cuốn một phần cũng vì tính

lôgic của nó. Rất nhiều bài thơ, ngay cả của những thi sĩ nổi tiếng, do sắp
xếp các hình ảnh trong thơ thiếu tính lôgic mà bài thơ của họ không được
mấy người để ý. Những hình ảnh đẹp họ gợi lên, hay những tương tác giữa
các nhân vật trong thơ, cũng như tiến trình dẫn đến cao trào không có một sự
phát triển lôgic nhất định, gây cảm giác bấp bênh, lõm bõm, và rời rạc cho
người đọc. Nhạc trong thơ, hay sự tiến trình của cao trào cũng như thuôi trào
trong thơ, cũng tương tự như tiến trình của âm nhạc, đòi hỏi phải theo cung,
theo nhịp và theo sự tiến triển của thời gian. Trong hội họa tiến trình này còn
được hiểu như tiến trình của các gam màu, đồng dạng hoặc đối lập. Thơ
không phải là một tổ hợp của các hình ảnh lộn xộn, song là một chuỗi các
hình ảnh được gắn lại với nhau theo một quá trình sắp đặt hợp lý, không kể
tính thuận nghịch. Chính vì đặc tính này, người làm thơ, hay các nhà thơ,
còn có thể được gọi là các "nghệ sĩ". Họ không chỉ là người biết nhiều từ
vựng, biết mường tượng phong cảnh giỏi, song họ là người biết sắp xếp các
sự kiện hợp lý, và các bài thơ của họ tái tạo lại tình cảm, tái tạo lại sự kiện
trong đầu người đọc nhanh tróng và gắn bó, như sự phát triển tình cảm của
họ khi họ viết một bài thơ. Nắm bắt được sự phát triển tình cảm của mình,
gây dựng được cao trào đòi hỏi nhà thơ gần như có thêm một bản sao của
chính mình. Họ phải quan sát cảm quan và sự tiến triển tình cảm của chính
bản thân, ghi nhớ chúng và viết lại. Cảm quan của nhà thơ, sự hội tụ của các
sự kiện bên ngoài, tính triết lý v.v. đều ảnh hưởng bởi ngoại cảnh và môi
trường xã hội. Không một nhà thơ nào không bị ảnh hưởng của điều kiện
chính trị, lịch sử, phong cách suy nghĩ của thời đại khi họ còn sống.
Tứ thơ, hay ý tứ của bài thơ, là tình cảm, hình ảnh chủ đạo mà bài thơ muốn
truyền đạt. Phong cách là cách trọn từ, cách diễn đạt ý tưởng của mình,
chẳng hạn: ngộ nghĩnh, đơn sơ, mộc mạc, đơn giản, thanh thoát, gồ ghề, góc
cạnh, mỉa mai, châm biếm, hoặc là cao thượng, đầy tính triết lý v.v. Cấu tứ
của bài thơ là cấu trúc và ý tưởng gộp lại. Cách sắp xếp các câu thơ, sự sắp
xếp của bài thơ, luật sử dụng trong bài thơ, vần điệu và tính nhạc đều là một
phần của cấu tứ. Để có một cấu tứ tốt, người làm thơ thường phải nâng tầm

mắt mình cao hơn tình cảm của mình, bao quát toàn bộ bài thơ, làm chủ
chính tác phẩm của mình.
Một điểm nữa khá quan trọng, song lại có thể là lỗ hổng lớn nhất trong tất cả
các bài bàn luận về thơ là dư âm. Dư âm là cảm quan người đọc có được sau
khi đọc một cụm từ, một câu thơ, một đoạn thơ, hay một bài thơ. Tuy nguồn
gốc của dư âm là ở bản thân cấu kết của các từ, cách sử dụng từ, của âm
thanh và hình ảnh do các từ tạo ra, song kết quả của dư âm còn do ảnh
hưởng của tâm trạng người đọc, cảm quan của người đọc, hay nói cách khác,
khả năng cảm nhận của người đọc. Sở dĩ dư âm là một lỗ hổng lớn là vì tính
khó bao trùm được của bất cứ một bàn luận nào về khía cạnh này. Có thể nói
dư âm là kết xuất của cảm quan của người viết thơ cộng với cảm quan của
người đọc thơ. Tạo được dư âm như mình mong muốn là cái thần của người
làm thơ. Nó cũng tương tự như cảm quan của người nghe âm nhạc, sau khi
nghe một đoạn nhạc. Tính mỹ thuật và âm hưởng của bài thơ, của đoạn nhạc
là cái làm cho người ta nhớ và mến trọng. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà thơ
dùng ngoại cảnh để nói nội tình hơn là phân tích tình cảm nội tâm, tức là đi
gián tiếp hay hơn là đi trực tiếp, hay lấy cái chung để nói cái riêng tư hay
hơn là lấy cái riêng tư để nói cái riêng tư. Dư âm còn có thể là cái hương vị
của bài thơ, từ đó người đọc cảm nhận được phong thái, cái hay cái đẹp
trong tâm tư của nhà thơ. Nếu tôi nói hoa thơm thì người đọc chưa chắc đã
cảm thấy hoa thơm, nhưng nếu tôi nói thoảng đưa trong không gian thì người
đọc thấy cái gì nhè nhẹ, hình dung được cái hương bay. Hay nói cách khác,
người làm thơ không diễn tả những gì hiển hiện trước mặt, không nói những
gì hiển nhiên vốn có, bằng ngôn ngữ cửa miệng, đầu lưỡi, tức là thứ ngôn
ngữ vẫn dùng thường ngày, song dùng một cách khác, gián tiếp chỉ đến điều
mình muốn nói. Một trong những ví dụ là cách dùng hình ảnh cái bàn với
những cái ghế trống rỗng trong vở nhạc kịch "Những người khốn khổ",
phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của Victor Hugo.
There's a grief that can't be spoken.
There's a pain goes on and on.

Empty chairs at empty tables
Now my friends are dead and gone.
...
Phantom faces at the window.
Phantom shadows on the floor.
Empty chairs at empty tables
Where my friends will meet no more.
Tạm dịch:
Có những nỗi thương tiếc không bật được thành lời.
Có những nỗi đau lê gót chẳng dừng.
Những cái ghế vắng vẻ bên những cái bàn trống không
Những người bạn của tôi giờ đã chết và không còn nữa.
...
Ảo ảnh của những gương mặt ngoài cửa sổ.
Những bóng ma trên sàn nhà.
Những cái ghế vắng vẻ bên những cái bàn trống không
Nơi những người bạn của tôi không còn gặp nhau được nữa.
Nếu cộng những câu trên với bản nhạc hát chúng thành bài hát thì dư âm là
những giọt nước mắt trào ra. Như vậy việc dùng hình ảnh gián tiếp để nói
cái nỗi đau ở trong lòng có tác động mạnh hơn, có sức truyền cảm lớn hơn,
hơn là chỉ đơn giản nói "những người bạn của tôi chết cả rồi".
Làm thơ là một việc khó và không phải ai cũng có thể làm được. Nhiều khi
người ta cho rằng khả năng làm thơ là một thiên phú, trời cho và thường gây
cảm xúc thán phục nếu ai đó có khả năng "xuất khẩu thành thơ". Đương
nhiên khi làm thơ, người làm thơ phải có hiểu biết và một trí tuệ nhất định,
song kể cả khi dùng trí tuệ thì trí tuệ của người làm thơ cũng bị cảm xúc của
tình cảm chủ quan chi phối.
• Thơ là thể loại văn học lấy cảm xúc, lấy trí tuệ súc tích được diễn đạt
theo hình thức có vần điệu hoặc tự do (không vần điệu). Trong việc
sáng tác các thể loại văn học thì nhà thơ là người cần thiên phú nhất,

cho nên ít khi do học mà làm được thơ hay, dù nếu đã làm được thơ
hay và cũng được học thì vẫn tốt hơn.
• Thơ tồn tại như một loại thể văn học, còn "chất Thơ" hay "chất Thi
ca" thì tồn tại ở nhiều loại hình, loại thể văn nghệ và trong thiên nhiên
nói chung. Ví dụ một phong cảnh đẹp, một không khí môi trường gợi
cảm xúc thi ca - như mùa thu vàng, chiều đông tuyết nhẹ rơi lãng
đãng, khi tiễn hay đón gặp lại người thân sau nhiều năm xa vắng...
làm cho tâm hồn tràn lên cảm xúc trữ tình, khiến ta như muốn ca lên,
hát lên để biểu lộ một cái gì đó dạt dào hay xao xuyến.
Nói tóm lại thi ca là tất cả những gì thuộc tình cảm và lý trí chịu sự chi phối
của cảm xúc rung động đa dạng của con người. Khi nào bạn còn những rung
động đó, nghĩa là tâm hồn bạn còn chất thi ca, còn khiến bạn sống có ý nghĩa
hơn trên cõi đời này. Thơ, ngoài đặc điểm đó, lại là một nghệ thuật tuân theo
các tính chất riêng của thể loại này - trong đó yếu tố trời cho làm thơ là số
một. Những tính chất riêng của thể loại thơ là một vấn đề lớn, mà muốn hiểu
nó chúng ta cần tham khảo từ nhiều nguồn như các giáo trình văn học, cũng
như các nguồn khác.
[sửa] Phân tích
[sửa] Âm
[4]
Bài chi tiết: Tiếng Việt
Âm (sound) do sự nhóm họp của một hoặc nhiều nguyên âm tạo nên. Những
âm gần giống nhau, không kể các phụ âm đứng trước hay đứng sau hay sự
tác động của các dấu gây sự trầm bổng của âm, tạo nên vần trong thơ. Chẳng
hạn, âm đơn:
à, ca, cha, đá, lá, ta
âm kép:
biên, chiêm, chuyên, xuyên
Bảng phân các loại âm sau đây được trích từ Hệ thống thanh trong tiếng Việt
(Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm):

Loại thanh Tên các thanh Dấu chỉ thanh Chua thêm
Bằng
phù bình thanh
trầm thượng thanh
không có dấu
dấu huyền
Trắc phù thương thanh ngã (~)
trầm thương thanh
phù khứ thanh
trầm khứ thanh
hỏi (?)
sắc (')
nặng (.)
phù nhập thanh
trầm nhập thanh
sắc (')
nặng (.)
riêng cho các tiếng
đằng sau có phụ âm
ch, p, và t
Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai,
ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng
thanh (hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề
hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của
thơ.
[sửa] Vần
Vần (rhyme) là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống
nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các
câu trong bài thơ với nhau. Thường vần được dùng để nối câu gieo vào chữ
cuối cùng của câu thơ. Có hai loại vần:

• vần bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền — ba, bà
• vần trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng — bả, bã, bá, bạ
Chữ "đấy", "cấy" cùng phát ra một âm "ây" song đều thuộc trắc thanh.
Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" và thuộc bình thanh.
Vần thể còn được quan niệm là vần giàu hay nghèo:
• Vần giàu (hay còn gọi là Vần Chính): những chữ có cùng âm và thanh
o Thanh bằng: Phương, sương, cường, trường
o Thanh trắc: Thánh, cảnh, lãnh, ánh
• Vần nghèo (hay còn gọi là Vần Thông): đồng thanh nhưng với âm
tương tự
o Thanh bằng: Minh, khanh, huỳnh, hoành
o Thanh trắc: Mến, lẽn, quyện, hển
Ví dụ hai câu dùng Vần Chính:
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông
[5]

Cưỡng vận
Khi hai vần là Vần Thông với nhau mà thôi.
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
Lạc vận
Khi hai vần không thuộc Vần Chính hay Vần Thông.
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Trong thơ Việt, có hai cách gieo vần
• Gieo vần ở giữa câu (Yêu Vận hay "vần lưng"): Chữ cuối của câu trên
vần với một chữ nằm bên trong câu dưới như trong thể thơ lục bát,
chữ cuối câu có sáu chữ vần với chữ thứ sáu của câu tám chữ sau đó.
Chẳng hạn Nguyễn Du truyện Kiều (1(6)-2(6)) (2(8)-3(6)) (3(8)-4(6))

(4(8)-..):
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
• Gieo vần ở cuối câu (Cước Vận hay "vần chân"): Các chữ ở cuối câu
vần với nhau.
Vần tiếp
các cặp trắc bằng xen kẽ tiếp nhau. Chẳng hạn Xuân Diệu trong
Tương Tư Chiều (2,3) (4,5) (6,7):
1. Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm,
2. Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em.
3. Không gì buồn bằng những buổi chiều êm,
4. Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
5. Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối;
6. Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành;
7. Mây theo chim về dãy núi xa xanh
8. Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ.
9. Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
Vần tréo
Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ ba và
chữ cuối câu thứ hai vần với câu thứ tư. Chẳng hạn Anh Thơ trong bài
Tiếng chim tu hú (1,3) (2,4):
1. Nắng hè đỏ hoa gạo
2. Nước sông Thương trôi nhanh
3. Trên đường đê bước rảo
4. Gió nam giỡn lá cành
Nhiều khi chỉ cần chữ cuối câu thứ hai vần với câu thứ tư mà thôi.
Chẳng hạn Quang Dũng trong bài Đôi bờ (2,4):
1. Xa quá rồi em người mỗi ngả

2. Bên này đất nước nhớ thương nhau
3. Em đi áo mỏng buông hờn tủi
4. Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Vần ôm
Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ tư và
chữ cuối câu hai vần với câu thứ ba. Vần trắc ôm vần bằng, hay ngược
lại. Chẳng hạn Nguyên Sa trong Áo lụa Hà Đông (1,4) (2,3):
1. Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
2. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
3. Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
4. Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Vần ba tiếng
Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu một, câu hai và câu thứ tư vần
với nhau. Câu ba khác vần. Chẳng hạn Thâm Tâm trong Tống Biệt
Hành (1,2,3).
1. Đưa người ta không đưa qua sông
2. Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
3. Bóng chiều không thắm không vàng vọt
4. Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Cách gieo vần dùng chữ cuối cùng của câu cũng xuất hiện trong các bài thơ
của châu Âu, chẳng hạn như hai câu trích trong bài On His Being Arrived to
the Age of Twenty-three của nhà thơ người Anh John Milton (tiếng Anh):
That I to manhood am arrived so near,
And inward ripeness doth much less appear,
Hay tạm dịch là:
Tuổi thành xuân đến quá nhanh
Đã nào một chút trưởng thành trong tôi
Ở đây âm "ia" (của near và appear) được dùng để làm vần nối hai câu thơ.
[sửa] Điệu
[6]

Điệu (rhythm), hay còn gọi là nhạc điệu, tạo nên do âm thanh của từ được
chọn và nhịp điệu ngắt câu. Nhạc trong thơ được tạo nên bởi ba yếu tố: vần,
tiết tấu và từ. Thơ lục bát, ca dao là một thể loại giàu nhạc tính.
• Âm hưởng của vần:
(a)- Vần bằng thường gây cảm giác nhẹ nhàng, mềm mại.
Gió mơn man sợi nắng mành
Sương còn đu ngọn lá xanh miệt mài
Dương gian hé rạng hình hài
Trời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi
[7]

(b) - Vần trắc thường gây cảm giác mạnh mẽ, động đậy, tỉnh thức.
Gió mơn man sợi nắng mành
Sương còn đu ngọn lá xanh miệt mài
Dương gian hé rạng hình hài
Trời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi
• Tiết tấu của câu: Tiết tấu là nói đến cái nhịp, cái điệu của câu thơ. dựa
vào chỗ ngắt đoạn, tức chỗ chia câu thành từng vế, mỗi vế có nghĩa
trọn vẹn. Đó là nhịp dài (--), khi ngâm người ta ngừng lại ngân nga
lâu một chút. Ngoài ra, trong mỗi vế, khi ngâm tùy theo hứng, người
ta cũng có thể ngừng lại ngân nga ngắn hơn ở những chỗ vế chia
thành từng bộ phận, đó là nhịp ngắn (-).
Dương gian (-) hé rạng (-) hình hài (--)
Trời (-) se sẽ lạnh (-), đất ngai (--) ngái mùi(--)
• Nhịp trong thơ: tạo nên do sự phân định của câu và của từ, tương tự
khi viết cho dấu phẩy, khi đọc ngưng hơi.
Nhịp (4/4) - (2/2/2/2)
Em ngồi cành trúc (--) em tựa cành mai (--)
Đông đào (-) tây liễu (-) biết ai (-) bạn cùng (--)
Nhịp (2/2/2) - (2/2/2/2)

Trời mưa (-) ướt bụi (-) ướt bờ (-)
Ướt cây (-) ướt lá (--) ai ngờ (-) ướt em (--)
Nhịp (2/4) - (2/2/2/2)
Yêu mình (--) chẳng lấy được mình (--)
Tựa mai (-) mai ngã (--) tựa đình (-) đình xiêu (--)
Nhịp (2/4) - (4/4)
Đố ai (-) quét sạch lá rừng (--)
Để ta khuyên gió (--) gió đừng rung cây (--)
Nhịp (2/4) - (2/4/2)
Hỡi cô (-) tát nước bên đàng (--)
Sao cô (-) múc ánh trăng vàng (--) đổ đi (--)
Nhịp (4/2) - (2/4/2)
Trách người quân tử (-) bạc tình (--)
Chơi hoa (--) rồi lại bẻ cành (--) bán rao (--)
Nhịp (3/2/2) - (4/3/2)
Đạo vợ chồng (-) thăm thẳm (-) giếng sâu (--)
Ngày sau cũng gặp (--) mất đi đâu (-) mà phiền (--)
• Nhạc tính của từ: Theo ngữ học, mỗi từ đơn của ta thường là một âm
tiết, khi phát lên nhẹ hay mạnh, trong hay đục là tùy theo vị trí phát
âm của nó trong khẩu cung (kể từ môi đến cuống họng, kể cả độ mở
của miệng). Một từ được phát lên tại vị trí nào trong khẩu cung là phải
chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố tạo nên nó: nguyên âm, phụ âm đầu,
phụ âm cuối và thanh. Vì thế từ nào có:
1. nguyên âm bổng như: i, ê, e
2. phụ âm vang như: m, n, nh, ng
3. thanh bổng như: không dấu, dấu sắc, dấu hỏi, thì từ được phát
ra, âm sẽ cao, trong và nhẹ.
Ngược lại, từ nào gặp phải :
1. nguyên âm trầm: u, ô, o,
2. phụ âm tắc: p, t, ch, c,

và thanh trầm: dấu huyền, dấu ngã, dấu nặng thì từ phát ra âm sẽ đục
và nặng.
Sự trong đục của các từ ngắt nhịp trong câu, và nhất là của các từ
dùng làm vần có ảnh hưởng nhiều nhất đến nhạc tính của thơ.
Hôm qua (-) tát nước đầu đình (--)
Bỏ quên cái áo (-) Trên cành hoa sen (--)
Em được (--) thì cho anh xin (--)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×