Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.15 KB, 96 trang )

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤ
CẤP TẠM

1.1.

Khái niệm, ý nghĩa củ

1.1.1.

Khái niệm về biện phá

1.1.2.

Ý nghĩa của việc áp dụ

1.2.

Cơ sở khoa học của vi

pháp khẩn cấp tạm thờ
1.2.1.

Bảo đảm quyền tự quy

1.2.2.


Bảo đảm tính hiệu quả

1.2.3.

Bảo đảm quyền lợi hợ

1.3.

Lược sử hình thành và

khẩn cấp tạm thời tron
1.3.1.

Giai đoạn trước năm 1

1.3.2.

Giai đoạn từ 1945 đến

1.3.3.

Giai đoạn từ 1990 đến

1.3.4.

Giai đoạn từ năm 2005

Chương 2: CÁC QUY

THỜ


2.1.

Các biện pháp khẩn cấ

2.1.1.

Các biện pháp buộc th

2.1.1.1.

Buộc thực hiện trước m


2.1.1.2.

Buộc thực hiện trước

hại do tính mạng, sức
2.1.1.3.

Buộc người sử dụng

công, tiền bồi thường

nghề nghiệp cho ngư
2.1.2.

Các biện pháp khẩn c
đang tranh chấp


2.1.2.1.

Kê biên tài sản đang

2.1.2.2.

Cấm chuyển dịch qu
tranh chấp

2.1.2.3.

Cấm thay đổi hiện tr

2.1.2.4.

Cho thu hoạch hoặc

2.1.3.

Các biện pháp phong

2.1.3.1.

Phong tỏa tài khoản

bạc nhà nước, phong
2.1.3.2.

Phong tỏa tài sản của


2.1.4.

Các biện pháp cấm h
nhất định

2.1.4.1.

Giao người chưa thàn

nom, nuôi dưỡng, ch
2.1.4.2.

Tạm đình chỉ thi hàn

2.1.4.3.

Cấm hoặc buộc đươn
định khác

2.1.5.

Các biện pháp khẩn c

2.2.

Thủ tục áp dụng, tha
khẩn cấp tạm thời

2.2.1.


Thủ tục áp dụng biện


2.2.2.

Thủ tục thay đổi, áp dụng b
cấp tạm thời

2.3.

Cơ chế bảo đảm quyền và

2.3.1.

Buộc thực hiện biện pháp b

2.3.2.

Trách nhiệm do áp dụng
không đúng

2.3.3.

Khiếu nại, kiến nghị về qu

bỏ biện pháp khẩn cấp tạm

Chương 3: THỰC TIỄN TH


PHÁP KHẨN

3.1.

Thực tiễn thực hiện các qu
tạm thời

3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoà
khẩn cấp tạm thời
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có một vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc bảo vệ một cách có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự trong tố tụng dân sự. Các quy định về biện pháp khẩn cấp
tạm thời đã luôn được các nhà lập pháp quan tâm và ghi nhận trong các văn
bản pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Chẳng hạn,
như trong Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng năm 1921; các văn bản hướng
dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong các văn bản pháp luật trước đây, chế định các biện pháp khẩn cấp tạm
thời đã được quy định khá chi tiết, cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự của Việt

Nam 2004. Các quy định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm hại khi tham gia vào các quan
hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Tuy nhiên,
thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về biện pháp khẩn cấp
tạm thời cũng đã nảy sinh những khó khăn, vướng mắc nhất định.

Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn
thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về biện pháp khẩn cấp tạm thời, em
đã mạnh dạn chọn đề tài "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
dân sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy, đã có một số công
trình nghiên cứu khoa học về vấn đề các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Có thể

1


kể tên những công trình được thực hiện đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến
"Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự" cụ thể là:
-

Luận văn thạc sĩ Luật học: "Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp

luật tố tụng dân sự Việt Nam", của Nguyễn Văn Pha, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 1997;
-

ThS. Trần Anh Tuấn: "Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong

Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam", Tạp chí Luật học, Đặc san góp ý dự thảo

Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 ;
-

ThS. Trần Anh Tuấn: "Các qui định về biện pháp khẩn cấp tạm thời

trong Bộ luật Tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng", Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 12/2005;
-

TS. Trần Anh Tuấn: "Luật so sánh và thực tiễn xây dựng Bộ luật Tố

tụng dân sự Việt Nam", Tạp chí luật học, chuyên đề sử dụng luật so sánh trong
hoạt động lập pháp, số 4/2007 ;
ThS. Trần Phương Thảo: "Chế định biện pháp khẩn cấp tạm
thời",
Đặc san về Bộ luật Tố tụng dân sự, 2005;
-

ThS. Trần Phương Thảo: "Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam",
Tạp chí luật học, số 1/2009...
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ tập trung
nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về biện pháp khẩn cấp tạm thời. Em
xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng dân sự Việt Nam". Đây là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu vấn
đề một cách tổng thể và chi tiết cả về phương diện lý luận, luật thực định và
thực tiễn thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Trên cơ
sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật về biện pháp
khẩn cấp tạm thời cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp này trong quá


2


trình giải quyết các vụ việc dân sự tại các Toà án, em mong muốn đưa ra
những đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về cải cách tư pháp; chế định các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các giai
đoạn phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam; các quan điểm nghiên
cứu luật học và thực trạng về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tố tụng dân sự; tham khảo qui định ở một số nước trên thế giới để hiểu
rõ và có hệ thống đối với chế định các biện pháp khẩn cấp tạm thời, từ đó đưa
ra được một số kiến nghị nhằm hợp lý hóa và thống nhất về chế định này
trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói
riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tố tụng dân sự trên cơ sở lý luận, quan điểm luật học, phương hướng cải
cách tư pháp, pháp luật thực định, thực tiễn áp dụng trong tố tụng dân sự ở
Việt Nam và tham khảo pháp luật thực định ở một số nước trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền.

Đồng thời việc nghiên cứu cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, đánh giá và tổng kết kinh nghiệm, suy diễn

lôgíc để thực hiện đề tài.

3


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài được nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về biện pháp khẩn cấp tạm thời mà còn nhằm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
những vướng mắc, bất cập từ đó đề xuất những giải pháp có giá trị nhằm hoàn
thiện chế định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự, nâng
cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời theo pháp
luật hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về biện pháp khẩn cấp
tạm thời và kiến nghị.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI


1.1.1. Khái niệm về biện pháp khẩn cấp tạm thời
Quyền con người là một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm được
pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Ngay từ khi lập nước đến nay, từ Bản tuyên
ngôn độc lập đầu tiên năm 1945 đến Hiến pháp 1992 - đạo luật có giá trị pháp
lý cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đều ghi nhận và
bảo hộ quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế…Chính vì vậy, trong lĩnh
vực tố tụng tại Toà án, quyền được tham gia tố tụng và được bảo đảm về
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cũng là một khía cạnh của quyền
con người. Do đó, khi những lợi ích hợp pháp của đương sự bị xâm phạm thì
đòi hỏi phải có một công cụ pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích đó. Tuỳ
theo tình huống mà các công cụ này có thể được quy định khác nhau. Đôi khi
là công cụ được pháp luật ghi nhận mà chủ thể có thể sử dụng trong trường
hợp cấp bách để bảo vệ ngay tức khắc quyền lợi của mình.
Khi tham gia vào các quan hệ giao lưu dân sự, thương mại, lao động
việc tranh chấp về quyền lợi là điều không thể tránh khỏi. Vì theo đuổi quyền
lợi cá nhân ích kỷ của bản thân có thể dẫn tới việc cố tình lẩn tránh, không
tuân theo pháp luật dẫn đến việc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể khác. Đây là nguyên nhân dẫn tới trên thực tế trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự Toà án đã gặp không ít những trường hợp đương sự có
các hành vi hủy hoại, xâm phạm chứng cứ, làm hư hại tài sản đang là đối
tượng của sự tranh chấp, tẩu tán, chuyển nhượng tài sản tranh chấp, thay đổi
hiện trạng tài sản đang tranh chấp… dẫn tới những thiệt hại cho quyền lợi của

5


chủ thể khác hoặc bản án của Toà án xét xử không thể thi hành được trên thực
tế. Ngoài ra, khi quyền lợi của nguyên đơn đã bị tổn hại nếu không có biện
pháp cần thiết để tạm thời ngăn chặn, khắc phục thiệt hại thì quyền lợi ích của

nguyên đơn sẽ không được bảo đảm trên thực tế. Do vậy, đương sự cần được
trao quyền yêu cầu Toà án kịp thời áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm đáp
ứng những nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo đảm quyền lợi của đương sự
hoặc bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án dân sự có hiệu quả.
Có thể thấy đối với những trường hợp này trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự, Toà án phải áp dụng ngay một hoặc một số biện pháp cần thiết
để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng hoặc để đảm
bảo thi hành án như: Giao người chưa thành niên cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức chăm nom; buộc phải thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng,
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; niêm phong, thu giữ tài liệu; kê biên tài sản,
cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp, phong toả tài sản… Trong tố
tụng dân sự, các biện pháp này được gọi là biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Vậy xét về bản chất thì biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân
sự là biện pháp như thế nào và có tính chất đặc trưng gì. Đây chính là vấn đề
mà chúng ta cần nghiên cứu làm rõ. Qua nghiên cứu lý luận có thể thấy rằng
khái niệm về biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được đề cập trong các giáo trình
về tố tụng dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội qua các thời kỳ và Giáo
trình Luật Tố tụng dân sự của Học Viện tư pháp.
Theo Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam - Trường Đại học pháp
lý Hà Nội 1991 "Những biện pháp khẩn cấp tạm thời là những biện pháp được
thi hành theo quyết định của tòa trước khi vụ án dân sự được giải quyết để
đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ bằng chứng" [24].
Như vậy, khái niệm này đã chỉ ra được mục đích của việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời là để đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo

6


vệ bằng chứng và việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ được
thực hiện trước khi vụ án dân sự được giải quyết.

Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 1998, đã cụ thể hơn về thời điểm Toà án có thể áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Theo đó, biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong quá
trình giải quyết vụ án và trước khi mở phiên tòa: "Biện pháp khẩn cấp tạm
thời là những biện pháp mà Toà án có thể quyết định áp dụng trong quá trình
giải quyết vụ án, trước khi mở phiên tòa nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách
của đương sự hoặc để bảo vệ bằng chứng" [1].
Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời, trên cơ sở các quy định của Bộ
luật này các nhà nghiên cứu đã đưa ra một khái niệm mới về biện pháp khẩn
cấp tạm thời cho phù hợp hơn với thực tiễn. Theo đó, "Biện pháp khẩn cấp
tạm thời là biện pháp Toà án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình
trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm việc thi hành án" [2]. Khái
niệm về biện pháp này đã được tu chỉnh cho phù hợp hơn trên cơ sở thay đổi
vị trí của các thuật ngữ và bổ sung thêm mục đích của việc áp dụng. Theo đó,
"Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Toà án quyết định áp dụng trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của
đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tình trạng tài sản tránh gây thiệt hại
không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án" [3]. Có thể coi đây
là một khái niệm khá đầy đủ, hợp lý và phù hợp hơn với thực tiễn áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khái niệm này đã chỉ rõ biện pháp khẩn cấp tạm
thời không chỉ được áp dụng trong các vụ án dân sự mà còn được áp dụng
trong cả các việc dân sự và đương sự có thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp
này trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Tác giả Tưởng Duy Lượng trong cuốn sách về "Pháp luật tố tụng dân
sự và thực tiễn xét xử", xuất bản năm 2009 cũng đã đưa ra định nghĩa về biện
pháp khẩn cấp tạm thời như sau:

7



Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Tòa án quyết định
áp dụng trước khi thụ lý hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng
chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại không thể
khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án [9].
Định nghĩa này đã chỉ rõ hơn về thời điểm áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong tố tụng dân sự.
Có thể thấy rằng, các khái niệm trên đã đề cập đến những đặc điểm cơ
bản của biện pháp khẩn cấp tạm thời, cũng như mục đích của việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tuy
nhiên, xét về lý luận và thực tiễn để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, trong một số trường hợp biện pháp khẩn cấp tạm thời có
thể được Toà án áp dụng trước khi thụ lý vụ việc dân sự hoặc được áp dụng
một cách độc lập với vụ việc dân sự tại Toà án. Chẳng hạn, việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp khẩn cấp hoặc trong quá trình Trọng
tài thương mại giải quyết các tranh chấp thương mại.
Từ các phân tích trên, kế thừa công trình nghiên cứu của những người
đi trước , tác giả mạnh dạn đưa ra khái niêṃ mới về biện pháp khẩn cấp tạm
thời với điểm nhấn về thời điểm áp dụng và tính độc lập tương đối của biện
pháp này với vụ án như sau: Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp do Toà
án quyết định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự hoặc được áp dụng
độc lập với vụ việc đó nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo
toàn tình trạng tài sản, bảo vệ chứng cứ hoặc bảo đảm cho việc thi hành án
dân sự.
Xét về tính chất, biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp có đồng
thời hai tính chất là tính khẩn cấp và tính tạm thời:
Tính khẩn cấp của biện pháp khẩn cấp tạm thời xuất phát từ chính
mục đích của việc áp dụng các biện pháp cần thiết. Việc áp dụng biện pháp


8


khẩn cấp tạm thời là nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc bảo
vệ bằng chứng, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xét xử và thi hành án sau
này. Vì thế, trong trường hợp khẩn cấp nếu Toà án không áp dụng kịp thời các
biện pháp cần thiết có thể dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng không thể
khắc phục được đối với một bên đương sự hoặc gây trở ngại cho việc giải
quyết chính xác vụ việc và cho quá trình thi hành án. Tình thế khẩn cấp được
thiết lập khi quyền lợi của một bên đương sự đang bị đe dọa, đang trong tình
thế cấp bách hoặc khi chứng cứ đang có nguy cơ bị tiêu hủy, tài sản tranh
chấp có nguy cơ bị tẩu tán.
Tình thế khẩn cấp này đòi hỏi các biện pháp cần thiết phải được áp
dụng ngay trong một thời hạn hợp lý để có thể giải quyết nhanh chóng, kịp
thời yêu cầu của đương sự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Toà án
phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong một
thời gian ngắn, đồng thời quyết định cũng phải được thi hành ngay nếu không
sẽ không con ý nghĩa trên thực tế nữa. Ví dụ: Nếu bị đơn có hành vi tẩu tán,
hủy hoại tài sản đang tranh chấp thì theo yêu cầu của nguyên đơn, Toà án phải
ra ngay quyết định áp dụng biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp để tránh
việc tẩu tán, hủy hoại tài sản đó và quyết định này phải được thi hành ngay.
Sự chậm trễ trong việc ra quyết định kê biên có thể dẫn tới việc tẩu tán, hủy
hoại tài sản gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn.
Như vậy, tính khẩn cấp trong việc áp dụng các biện pháp cần thiết đòi
hỏi Toà án phải quyết định một cách rất nhanh chóng về việc áp dụng hay
không áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của đương sự có yêu cầu. Tuy nhiên, việc quyết định một cách quá vội vàng
các biện pháp khẩn cấp cũng có nguy cơ gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp
của người bị áp dụng biện pháp này và những người có quyền lợi liên quan
đến biện pháp được áp dụng. Do đó, khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

đòi hỏi Toà án phải rất thận trọng và thực hiện đúng quy định của pháp luật.

9


Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng phải thiết lập những cơ chế cần thiết để
bảo đảm quyền lợi của những người liên quan tới biện pháp được áp dụng
như: buộc người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp thực hiện biện pháp bảo
đảm; trách nhiệm bồi thường khi việc áp dụng biện pháp khẩn cấp không
đúng gây thiệt hại cho người khác; quyền khiếu nại, kiến nghị về việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Tính chất tạm thời là tính chất thứ hai của biện pháp khẩn cấp tạm thời
và là tính chất cần thiết để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự,
đảm bảo biện pháp được áp dụng là đúng đắn, cần thiết và đúng pháp luật.
Tính chất này thể hiện ở chỗ quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời không
phải là quyết định về việc giải quyết nội dung vụ việc dân sự mà nó chỉ là một
quyết định về tố tụng nhằm tạm thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trước
khi Toà án có quyết định chính thức và cuối cùng về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong vụ việc dân sự đó. Biện pháp khẩn cấp tạm thời thực ra chỉ là
một giải pháp tình thế, nó không tồn tại vĩnh viễn mà chỉ có thể tồn tại trong
một khoảng thời gian nhất định và có thể bị thay đổi, hủy bỏ theo
ý chí của người yêu cầu hoặc của Toà án giải quyết vụ việc. Nếu lý do của
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn nữa như điều kiện, hoàn
cảnh của đương sự thay đổi, các hành vi xâm phạm, hủy hoại tài sản đã chấm
dứt, một bên đã thực hiện nghĩa vụ của mình thì theo yêu cầu của đương sự
Toà án phải quyết định thay đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời đã được áp dụng.
Như vậy, hai tính chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời có mối liên
quan mật thiết với nhau. Tính khẩn cấp đòi hỏi Toà án phải nhanh chóng
quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ kịp thời quyền lợi của

đương sự có yêu cầu. Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là nguy cơ gây thiệt hại
tới quyền lợi của người bị áp dụng. Trong những trường hợp này tính chất tạm
thời đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế tới mức thấp nhất những

10


thiệt hại có thể phát sinh. Việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
sẽ đảm bảo tính chính xác và hợp lý của biện pháp được áp dụng, bảo vệ được
lợi ích hợp pháp của những người liên quan tới biện pháp khẩn cấp tạm thời
được áp dụng.
1.1.2. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Toà án quyết định áp dụng
nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, để bảo vệ bằng chứng, bảo
toàn tình trạng hiện có của tài sản hoặc để bảo vệ việc thi hành án. Quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tuy chưa phải là quyết định của Toà án
về việc giải quyết vụ việc dân sự nhưng vẫn có ý nghĩa rất lớn đối với việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Qua việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời những khó khăn trước mắt của đương sự được giải quyết,
kịp thời khắc phục được những hậu quả, thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây
ra, ngăn chặn được những hành vi hủy hoại bằng chứng làm sai lệch nội dung
vụ việc dân sự, bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân
sự. Mặt khác, nó còn có tác dụng kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản và
đảm bảo việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
Thực tế thấy rằng, khi quyền và lợi ích của một chủ thể bị xâm phạm thì
về phương diện tâm lý bao giờ họ cũng muốn tìm kiếm giải pháp ngăn chặn ngay
sự xâm hại đó, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra đối với mình.
Trong điều kiện như vậy, nếu pháp luật không có những quy định về các biện
pháp khẩn cấp tạm thời thì đương sự có thể tự mình hành xử, tùy tiện áp dụng
các biện pháp trái pháp luật nhằm đạt được mục đích của mình, dẫn đến những

tác động tiêu cực đối với trật tự an toàn xã hội nói chung. Các quy định về biện
pháp khẩn cấp tạm thời là công cụ pháp lý quan trọng để các đương sự có thể
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách hợp pháp.

Như vậy, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn có ý nghĩa xã

11


hội sâu sắc. Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, biện pháp khẩn cấp
tạm thời ngày càng trở thành công cụ pháp lý vững chắc để các đương sự bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi tham gia vào các quan hệ dân sự, thương
mại và lao động.
1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DẤN SỰ

1.2.1. Bảo đảm quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự
Quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự là một trong những
nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự 2005.
Nguyên tắc này thể hiện sự tôn trọng ý chí, nguyện vọng của các đương sự
trong tố tụng dân sự. Toà án chỉ có trách nhiệm thụ lý, giải quyết khi có đơn
yêu cầu, khởi kiện của đương sự. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ việc
Toà án cũng chỉ xem xét, giải quyết những nội dung thuộc phạm vi mà đương
sự có yêu cầu trong đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu mà thôi. Nghĩa là những
gì đương sự không yêu cầu giải quyết (tức không nêu trong đơn) thì Toà án
không được xem xét, giải quyết.
Tôn trọng nguyên tắc này, khi xây dựng các qui định về biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự, các nhà làm luật cũng đề cao sự tự
quyết định và định đoạt của đương sự bằng việc qui định cho họ có quyền yêu

cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và Toà án sẽ áp dụng khi có yêu cầu
hợp pháp của đương sự. Khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của
đương sự là hợp pháp thì Toà án có trách nhiệm áp dụng đúng biện pháp,
đúng phạm vi yêu cầu của đương sự
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, mặc dù không có đơn
yêu cầu của đương sự, Toà án vẫn có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Pháp luật qui định các trường hợp này là xuất phát từ
chính lợi ích của đương sự. Có thể do đương sự chưa thành niên hoặc không

12


hiểu biết về quyền lợi của mình, không hiểu biết về pháp luật hoặc trong tình
trạng không thể yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp cần thiết hay cần phải bảo
vệ quyền lợi của những người lao động… Trong những trường hợp này thì
việc pháp luật ghi nhận Toà án có quyền tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời mặc là hoàn toàn cần thiết nhằm giải quyết các yêu cầu cấp bách của
đương sự trong các vụ án về hôn nhân, gia đình, tranh chấp về lao động, về
bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm hại…
1.2.2. Bảo đảm tính hiệu quả của biện pháp được áp dụng
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, kịp thời ngăn chặn những hành vi gây thiệt
hại, tẩu tán tài sản, hủy hoại chứng cứ và đảm bảo thi hành án. Do vậy, đòi hỏi
khi xây dựng các qui định về biện pháp khẩn cấp tạm thời nhà làm luật phải
tính đến hiệu quả của biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng từ đó xây
dựng nên các quy định phù hợp với tính khẩn cấp của biện pháp.
Tính hiệu quả được thể hiện ở các quy định về việc áp dụng, thay đổi,
huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nhanh chóng và kịp thời. Mặt khác,
các quy định về thủ tục áp dụng phải đơn giản, thuận tiện. Tránh tình trạng
yêu cầu về thủ tục, giấy tờ quá rườm rà, thiếu linh hoạt, đương sự phải mất

nhiều thời gian mới đáp ứng đầy đủ dẫn tới việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời không còn ý nghĩa thực tế nữa do chứng cứ đã bị hủy hoại hoặc tài
sản đã bị tẩu tán, chuyển nhượng...
Ngoài ra, để việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phát huy
hiệu quả thì các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời được xây dựng phải
đáp ứng yêu cầu về tính bí mật, bất ngờ của biện pháp được áp dụng. Ví dụ,
như các biện pháp kê biên, cấm chuyển dịch, phong toả tài khoản, tài sản của
người có nghĩa vụ trong vụ án các tranh chấp kinh doanh, thương mại hoặc
dân sự nếu không đảm bảo tính bí mật và bất ngờ thì có thể dẫn tới hậu quả

13


đương sự tẩu tán tài sản, chuyển nhượng tài sản, rút tiền từ tài khoản trước khi
biện pháp được áp dụng và hậu quả là biện pháp được áp dụng không còn ý
nghĩa thực tế, việc giải quyết vụ án sẽ có nhiều khó khăn, phức tạp hoặc thi
hành án sẽ không được đảm bảo.
1.2.3. Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự
Phải nói rằng, tất cả các qui định của pháp luật tố tụng dân sự đều
nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Pháp luật qui
định cho đương sự có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
nhưng để tránh sự lạm quyền từ chính người có yêu cầu, cũng như từ phía các
cơ quan tiến hành tố tụng, và đặc biệt tránh thiệt hại cho người bị áp dụng thì
phải giới hạn chặt chẽ các điều kiện áp dụng. Chỉ khi đáp ứng đầy đủ các điều
kiện này thì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mời được thực thi.
Trong một số trường hợp cần phải quy định về việc người đưa ra yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "buộc phải thực hiện biện pháp bảo
đảm" cần thiết (như nộp một khoản tiền, kim khí quí, đá quí, giấy tờ có giá)
để đảm bảo cho yêu cầu của mình. Qui định này giúp ngăn ngừa sự lạm quyền
từ phía người có yêu cầu đồng thời là một giải pháp có tính thực tế nhằm bồi

thường những thiệt hại mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng phải gánh chịu.
Vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi biện pháp khẩn
cấp tạm thời được áp dụng không đúng cũng là một giải pháp cần thiết để bảo
đảm quyền lợi của bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Do đó, pháp
luật cần quy định trường hợp ra quyết định áp dụng không đúng, gây thiệt hại
cho người bị áp dụng thì những chủ thể có liên quan tới việc áp dụng biện
pháp này sẽ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo đó, người yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng, gây thiệt hại sẽ phải bồi
thường và Toà án ra quyết định áp dụng không đúng, gây thiệt hại cũng sẽ

14


phải bồi thường cho người bị áp dụng. Đi xa hơn nữa thì nhà lập pháp cũng
cần phải thiết kế những quy định theo hướng trường hợp Toà án ra quyết định
không chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của người
có yêu cầu mà gây ra thiệt hại cho người đó thì cũng có trách nhiệm bồi
thường thiêt hại.
Ngoài ra, việc ghi nhận đương sự có quyền khiếu nại, kiến nghị các
quyết định áp dụng, không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án là
rất quan trọng và cần thiết. Quy định này vừa đảm bảo quyền lợi hợp pháp
của các bên đương sự, vừa tránh được sự lạm quyền, giúp Toà án có thể sửa
chữa, khắc phục kịp thời những sai lầm của mình khi ra các quyết định áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
1.3. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHẾ ĐỊNH VỀ BIỆN
PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
Trước thời kỳ Pháp thuộc, do nền kinh tế phong kiến còn lạc hậu, kém

phát triển nên pháp luật cũng chưa phát triển. Trong các văn bản pháp luật ban
hành vẫn chưa có sự phân biệt các lĩnh vực rõ ràng, riêng biệt về hành chính,
dân sự, hình sự và tố tụng.
Có thể thấy văn bản đáng chú ý trong thời kỳ này có quy định về biện
pháp khẩn cấp tạm thời là "Bộ luật dân sự - Thương sự - Tố tụng" thi hành
trong các tòa Nam án Bắc Kỳ được ban hành theo nghị định ngày 02/12/1921
và có hiệu lực thi hành ngày 1/1/1923 trong phạm vi Bắc Kỳ. Bộ luật này có
một số nội dung đáng chú ý quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Bộ luật này quy định đương sự được quyền yêu cầu Toà án áp dụng
phương pháp bảo thủ, chỉ giới hạn tài sản là những nông vụ tức là những hoa
màu sản phẩm nông nghiệp, bởi thực tiễn xã hội bấy giờ tài sản tranh chấp
chủ yếu là những sản phẩm nông nghiệp. Điều này quy định cụ thể tại

15


Chương I, tiết VI, thủ tục phụ đái, mục thứ nhất về phương pháp bảo thủ.
Điều 81 Bộ luật này quy định:
Nếu trong khi làm sự kiện chánh, có một bên đương sự vì cớ
gì sợ rằng những nông vụ đã hay là chưa thâu hoạch của đất bị kiện,
bị tán thất, làm cho mình phải thiệt hại, thì bên đương sự ấy có thể
xin Toà án đã thụ lý việc sức giao nông vụ ấy cho người đệ tam
hoặc lý dịch sở tại khán thủ, sức nông vụ ấy nếu cần thâu hoạch mà
bảo lưu hay phát mại.Nếu phát mại thì đem bản ký tồn tại phòng lục
sự Toà án, chờ đến khi có án nhất định quyết nghĩ nông vụ ấy thuộc
về ai… [15].
Như vậy, có thể thấy ngay từ thời kỳ này pháp luật đã quan tâm đến áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, coi đó là biện pháp khẩn cấp để đáp ứng
yêu cầu cấp bách của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Bộ luật cũng
quy định cụ thể về thủ tục và hình thức giải quyết yêu cầu của đương sự cũng

như mối quan hệ giữa việc áp dụng phương pháp bảo thủ với việc giải quyết
toàn bộ vụ kiện. Theo đó, việc áp dụng phương pháp bảo thủ này không ảnh
hưởng đến việc giải quyết toàn bộ vụ kiện. Việc kháng cáo đối với bản án
chính sẽ có hiệu lực đối với cả án xử về áp dụng phương pháp bảo thủ. Điều
84 Bộ luật này quy định:
Cái án về vụ kiện phụ đái và việc chấp hành tạm thời không
hề dự phán về tình lý việc kiện chánh; thuộc về tình lý việc kiện
chánh, sau sẽ có án nhất định phán xử. Án nhất định ấy sẽ chỉ rõ cái
phần nông vụ hoặc giá bán là của người nào. Sự kháng cáo cái án
xử về việc kiện chánh tự nhiên chiếu pháp luật, sẽ có hiệu lực tới
cái án xử về việc kiện phụ đái [15].
Bộ luật này cũng có quy định về hình thức yêu cầu xin áp dụng
phương pháp bảo thủ nữa là "Phê chuẩn vào đơn khẩn cấp thẩm sát". Quy
định này cho phép thẩm phán giải quyết việc kiện được ghi ý kiến của mình

16


vào ngay trong đơn yêu cầu của đương sự. Đơn của đương sự phải nói rõ về
sự vụ gì hoặc xin áp dụng phương pháp gì mới có giá trị xem xét. Và khi phê
chuẩn đơn thẩm phán phải nói rõ về vụ việc, phương pháp áp dụng, người
phải chấp hành (Điều 34). Ngoài ra, luật còn quy định thẩm quyền của thẩm
phán thụ lý việc kiện cũng có thể được phép tự mình ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu thấy cần thiết (Điều 347).
Như vậy, các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật dân
sự thương sự tố tụng 1921 có giá trị tham khảo quan trọng như quy định về thời
điểm yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với động sản và
bất động sản có thể ngay từ khi trình đơn khởi kiện, để đảm bảo quyền lợi của
đương sự; hoặc về trách nhiệm phải nộp khoản tiền để bồi thường thiệt hại nếu
đương sự có yêu cầu sai. Các quy định này đã được các nhà làm luật hiện nay

tiếp thu và phát triển trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.

1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, ngày 10 tháng 10 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số
hiêṇ hanh ơ Bắc , Trung, Nam bô ̣cho đến khi ban hanh nhưng bô
̀̀

̀̉

dụng cho toàn quốc. Phù hợp với quy định của Sắc lệnh này , Bô ̣luâṭGian yếu
Nam ky năm
̀̀

Trung ky ban hanh năm

̀̀

thành lập chính quyề n nhân dân.

Ngày 22 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh
số97/SL vâñ cho phep ap dung ̣ cac luâṭlê ̣cu nhưng vơi điều kiêṇ không đươc ̣
trái với các nguyên tắc do chính Sắc lệnh này quy định
Sắc lênḥ số 50/SL vềcai cach bô m
̣ ay tư phap va luâṭtốtung ̣ co quy đinḥ về
phương phap bao thu đăc ̣ biêṭ . Theo đó, "trong trương hơp ̣ cấp bach , tòa án
̀́

nhân dân huyêṇ co quyền ấn đinḥ cac phương phap bao thu đối vơ


17


kiêṇ không thuôc ̣ thẩm quyền cua toa an nhân dân huyêṇ
nhâṇ thấy , trong thơi ky tư
̀̀ ̀ ̀

ta thấy hầu như không co nhưng văn ban nao quy đinḥ vềcac thu
̀́

dân sư. ̣

Sau khi khang chiến chống Phap thắng lơị , Bô T
̣ ư phap đa ra Thông tư
̀́

số 19-VHH ngay 30 tháng 6 năm 1955 và Thông tư số
̀̀
ngày 6 tháng 12 năm 1955; Tòa án nhân dân tối cao ra chỉ thị số 772/CT-TATC
ngày 10 tháng 7 năm 1959 đinh chi viêc ̣ ap dung ̣ luâṭlê ̣cu cua đếquốc
̀̀
phong kiến màSắc lênḥ số 97/SL quy đinḥ vâñ cho taṃ giữ
viêc ̣ các cơ quan Nhànước ban hành những văn bản pháp luâṭquy đinḥ vềtổ
chức các Tòa án ; Bô ̣Tư pháp , Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành
những văn bản bước đầu hướng dâñ các Tòa án môṭsốthểlê ̣vềthủtuc ̣ giải
quyết các vu ̣viêc ̣ dân sư ̣như Thông tư số 1507 - HCTP ngày 24 tháng 8 năm
1956 của Bộ Tư pháp về tư pháp xã và quyền công nhận thuận tình ly hôn

;


Thông tư số 61 - HCTP ngày 9 tháng 5 năm 1957 của Bộ Tư pháp về thẩm
quyền cua toa an huyêṇ hoăc ̣ thi ̣xa trong viêc ̣ công nhâṇ thuâṇ tinh ly hôn va
̀̉
hiêụ lưc ̣ của biên bản hòa giải thành
Thơi ky nay , các văn bản quy định riêng về tố tụng dân sự rất ít mà
chủ yếu là hướng dẫn các thủ tục về giải quyết các việc ly hôn

̀̀

̀̀

các quy định về
không co .
̀́
tháng 1 năm 1962 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về vấn đề thẩm
quyền, trình tự giải quyết việc ly hôn
quy đinḥ hiêụ lưc ̣ cua quyết đinḥ công nhâṇ thuâṇ tinh ly hôn
thủ tục hòa giải đối với các đương sự trong vụ án ly hôn
khẩn cấp tạm thời và hiệu lực của quyết định áp d ụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời, quyền chống án đối với quyết đinḥ này , quyền lơịcủa người thứ ba .

18

Măc ̣ du v




miền Nam, năm 1972 chính quyền Sài Gòn đã ban hành Bộ luật dân


sự và thương sự tố tụng, trong đó có quy định khá cụ thể, chi tiết về biện pháp
khẩn cấp tạm thời.
Thủ tục cấp thẩm được quy định từ Điều 456 tới Điều 459 Bộ luật Dân
sự và Thương sự tố tụng. Theo đó, thủ tục này sẽ được Chánh án toà sơ thẩm
áp dụng trong các trường hợp khẩn cấp hay khi cần quyết định về những khó
khăn liên quan đến việc thi hành một chứng khoán có hiệu lực chấp hành
(Điều 456). Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp được tiến hành một cách
nhanh chóng, có thể cả trong ngay lễ hay bất cứ vào ngày giờ nào (Điều 457)
và Toà án không xét đến nội dung vụ tranh chấp (Điều 458).
Về hiệu lực của án lệnh cấp thẩm, Bộ luật này quy định: "Án lệnh cấp
thẩm được đương nhiên thi hành tạm và không cần ký quỹ tiền đảm bảo nếu
án lệnh không bắt buộc đóng. Chánh án có thể truyền thi hành tạm án văn trên
nguyên bản, trước hoặc sau khi trước bạ" (Điều 459). Ngoài ra, luật cũng quy
định về thời hạn kháng cáo đối với án lệnh cấp thẩm.
Ngoài ra, Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng 1972 cũng có những
quy định về án lệnh phê đơn (Điều 453). Theo quy định này, Chánh án với tư
cách riêng của mình có quyền phê chuẩn biện pháp áp dụng vào ngay trong
đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và án lệnh đó sẽ có hiệu lực
thi hành.
Chế định án lệnh phê đơn được áp dụng không hạn chế về thời điểm
giải quyết vụ án, có thể được áp dụng trước khi "khởi tố", trong lúc tranh tụng
hoặc ngoài hẳn trường hợp tranh tụng. Nguyên đơn cũng có thể kháng cáo án
lệnh trong vòng 15 ngày từ ngày nhận án lệnh.
Như vậy, các quy định về chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng 1972 có nhiều điểm tương đồng với Bộ
luật dân sự và thương sự tố tụng Bắc Kỳ 1921.

19



1.3.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004
Văn bản quan trọng nhất phải kể đến trong giai đoạn này đó là Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được thông qua ngày 29-11-1989 và
có hiệu lực thi hành ngày 1-1-1990. Pháp lệnh này đã dành chọn chương VIII
để quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Theo quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này, trong quá trình giải
quyết vụ án, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, có thể áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của
đương sự hoặc bảo vệ bằng chứng, gồm 7 biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:
-

Buộc một bên phải thực hiện việc cấp dưỡng

Giao người chưa thành niên cho cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức chăm

nom
-

Trả tiền lương hoặc tiền công lao động

-

Kê biên tài sản đang tranh chấp để tránh việc tẩu tán

-

Cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp

Cho thu hoạch và bảo quản sản vật có liên quan đến việc tranh
chấp

-

Cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định.

Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Pháp lệnh quy định:
Trước khi mở phiên toà nếu có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
thì đương sự phải làm đơn, Viện kiểm sát phải có văn bản gửi đến Toà án. Toà
án nghe lời trình bày của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến yêu cầu
đó trước khi ra quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Nếu cần phải áp dụng ngay, Toà án sẽ ra quyết định áp dụng ngay.
Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay. Tuy
nhiên, các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với
Chánh án của Toà án đang giải quyết vụ án về quyết định này. Trong thời

20


hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án phải
xem xét và trả lời.
Trong lĩnh vực giải quyết các vụ án kinh tế, vấn đề biện pháp khẩn cấp
tạm thời cũng đã được quy định trong các điều luật từ Điều 41 đến Điều 44
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16-3-1994.
Theo quy định tại Điều 41 Pháp lệnh này, quyền yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trước hết thuộc về các đương sự để bảo vệ bằng chứng,
bảo đảm việc thi hành án. Ngoài ra, Toà án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu
bằng văn bản của Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Bên cạnh đó, để tránh tình trạng đương sự lạm dụng quyền yêu cầu của
mình dẫn tới việc gây thiệt hại đối với đương sự bên kia, Pháp lệnh này đã quy
định về trách nhiệm bồi thường của đương sự có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời nếu họ có lỗi trong việc gây thiệt hại. Trong trường hợp Toà án ra

quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật mà gây thiệt hại
thì phải bồi thường. Quy định này tránh được sự tuỳ tiện của Toà án trong việc ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Khác với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh
này quy định việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được tiến hành
ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết vụ án (khoản 1 Điều 41). Có
thể nói đây là quy định rất linh hoạt, phù hợp với tính chất khẩn cấp của yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ án. Để
đảm bảo tính nhanh chóng trong việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, Pháp lệnh cũng quy định thời hạn tối đa mà Toà án phải xem xét và
ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là 3 ngày. Pháp lệnh này
quy định 4 biện pháp khẩn cấp tạm thời cơ bản (Điều 42) gồm kê biên tài sản
tranh chấp, phong toả tài sản; cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác
thực hiện một số hành vi nhất định; cho thu hoạch và bảo quản sản vật có liên
quan đến tranh chấp; cho bán sản phẩm, hàng hoá dễ bị hư hỏng.

21


Về cơ bản, các quy định trên có nhiều điểm tương đồng với Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên, điểm tiến bộ của Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đó là có thêm quy định về biện pháp
phong toả tài khoản. Đây chính là quy định rất phù hợp với đặc thù của các vụ
án kinh tế, cũng như thực tiễn đời sống xã hội. Ngoài ra, Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự không có quy định về thay đổi, huỷ bỏ các biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, thiếu sót này đã được khắc phục trong
Điều 43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
Trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp lao động, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động 11-4-1996, cũng có những quy định về biện pháp

khẩn cấp tạm thời trong các điều từ Điều 43 đến Điều 46 của Pháp lệnh này.

Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Pháp lệnh này
cũng có nhiều điểm tương đồng với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế như quyền yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
quyền tự quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án nếu xét
thấy cần thiết, trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho đương sự, thời điểm và thời hạn áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thủ tục thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời, hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của lĩnh vực giải quyết các tranh chấp lao
động Điều 44 của Pháp lệnh này quy định Toà án có thể áp dụng những biện
pháp khẩn cấp tạm thời sau đây:
1.
Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải
người
lao động.
2.

Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bồi

thường, trợ cấp do tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho
người lao động.

22


×