Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

thực trạng của thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.24 KB, 36 trang )

thực trạng của thị trờng xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực của việt nam
I. đặc điểm của thị trờng xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực của Việt nam
1. Về cơ hội
Thành quả 15 năm đổi mới nền kinh tế đã đa thế và lực của nớc ta
lên một tầm cao mới. Trong xu thế toàn cầu hoá khu vực hoá thành một xu
hớng tất yếu thúc đẩy hầu hết các quốc gia mở rộng thị trờng bằng cách
giảm bớt, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan; chuyển dịch
một cách thông thoáng hàng hoá, vốn đầu t, tiền tệ, dịch vụ, lao động giữa
các quốc gia với quy mô ngày càng lớn; hình thành vô số tổ chức kinh tế, tài
chính mang tính toàn cầu và khu vực; ký kết hàng vạn hiệp định song phơng
đa phơng, hàng trăm công ớc kinh tế quốc tế, phát triển nhiều tập đoàn
xuyên quốc gia...Khu vực hoá tập hợp những quốc gia trong từng khu vực
với những mục đích đa dạng, hình thức phong phú. Khu vực hoá góp phần
thúc đẩy tự do hoá thơng mại, đầu t, dịch vụ trong phạm vi khu vực cũng nh
giữa các khu vực, tao lập những khu vực rộng lớn với một chính sách tài
chính tiền tệ, công nghệ, thị trờng thống nhất, giúp cho các quốc gia thành
viên tiết kiệm chi phí, tạo mối trờng kinh doanh có hiệu quả, tạo lợi thế
trong hợp tác cạnh tranh trên thị trờng quốc tế. Việt Nam cũng không nằm
trong xu thế đó, ta đã có quan hệ kinh tế với hơn 130 nớc trên thế giới và
nhiều tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hoá Việt Nam đã có mặt tại tất
cả các nớc lớn nh: Mỹ, EU, Nhật Bản và các trung tâm kinh tế lớn. Một số
ngành sản xuất phát triễn với tốc độ cao, tạo đợc khối lợng lớn về sản phẩm
hàng hoá chất lợng cao, ổn định, giá thành hạ, có sức cạnh tranh trên thị tr-
ờng quốc tế. Cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu ngày càng đợc
thông thoáng, tạo môi trờng pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt
động.
Thành tựu to lớn về đối ngoại của nớc ta và những diễn biến trên thị tr-
ờng thế giới đã đặt nớc ta nhiều thuận lợi mới để mở rộng hơn nữa kinh tế
đối ngoại làm cho nền kinh tế đối ngoại trở thành đòn bẩy quan trọng góp


phần thúc đẩy nhanh sự tăng trởng kinh tế.
Thị trờng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam nh: dầu thô,
hàng dệt may, thuỷ sản, gạo, cà phê, hàng da, than đá, cao su, điện tử-tin
học-viễn thông chủ yếu tập trung ở các thị trờng nh khu vực Châu á-Thái
Bình Dơng chiếm 57,4%, khu vực Âu-Mỹ chiếm 37%, khu vực Châu Phi
chiếm khoảng 4,6%.
Nhìn vào cơ chế xuất khẩu hàng chủ lực của Việt Nam thì thấy khu vực
Châu á-Thái Bình Dơng chiếm u thế 37,4%. Trong những thập kỹ tới khu
vực này vẫn tiếp tục phát triễn năng động và đạt tốc độ tăng trởng cao hơn
các khu vực khác. Nổi bật nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan,
Malayxia, Thái Lan, Xingapo, ấn Độ. Trong khu vực, xu hớng tự do hoá th-
ơng mại và đầu t càng phát triễn mạnh mẽ, tiếp tục diễn ra sự liên kết nhiều
nấc: đại khu vực, khu vực, tiểu khu vực, tứ gíac, tám giác. Về tình hình
chính trị thì khu vực Châu á-Thái Bình Dơng là đối tợng ổn định so với các
khu vực khác. Các trung tâm kinh tế thế giới, các nớc lớn đều hớng trọng
tâm hoạt động kinh tế, chính trị và Châu á-Thái Bình Dơng, xem đây là
chứa đựng nhiều yếu tố quyết định sự phát triễn của mình. Nhiều dự báo cho
rằng, trong thế kỷ 21 trung tâm thơng mại thế giới sẽ chyển sang Châu á-
Thái Bình Dơng.
Một sự kiện rất quan trọng đối với thị trờng xuất khẩu của chúng ta là
hiệp định thơng mại Việt-Mỹ đã đợc ký kết và hạ nghị viện và thợng nghị
viện Mỹ vừa thông qua mở ra một cơ hội to lớn vèe giao lu buôn bán thơng
mại giữa hai nớc. Thị trờng Mỹ là một thị trờng lớn đợc đánh giá là thị trờng
tiêu thụ lớn nhất thế giới. Các nhóm hàng mà Việt Nam có thể xuất khẩu
sang Mỹ đó là: cà phê, chè, gia vị, hải sản chế biến, nhất là tôm đông lạnh và
hàng dệt may mặc. Ngoài những mặt hàng trên, Việt Nam có những thế
mạnh nh: cao su, dàu thô, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, các loại đậu, hàng
thủ công mỹ nghệ, đồ chới trẻ em.. dều có thể xuất khẩu sang Mỹ.. Những
thành quả to lớn về đối nội, đối ngoại của nớc ta và những diễn biến trên thị
trờng đã đặt nớc ta nhiều thuận lợi mới để mỏ rộng kinh tế đối ngoại, làm

cho kinh tế đối ngoại nói chung và xuất khẩu nói riêng trỏ thành đòn bẩy để
thúc đẩy nhanh sự tăng trởng kinh tế. Về tình hình chính trị xã hội của n-
ớc ta ổn định, sự cải tiến liên tục tình hình kinh tế, pháp luật, chính sách
thông thoáng đó là những nhân tố tạo niềm tin và hấp dẫn với các đối tác n-
ớc ngoài.
2. Về khó khăn và thách thức
Mặc dù thành quả của 15 năm đổi mới đã làm cho bộ mặt kinh tế nớc tá
khác xa hơn trớc. Nhng chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng nớc
ta là một nớc kém phát triễn. Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ tụt hậu về
kinh tế ngày càng xa so với các nớc trong khu vực và trên thế giới do phát
triễn của nớc tá quá thấp, lại phải đối phó cạnh trnah gay gắt trên thị trờng
quốc tế. Không hội nhập thị trờng đợc; nhng hội nhập với nền kinh tế thế
giới, nền kinh tế của nớc ta lại không tránh khỏi phải chịu ảnh hởng của xu
thế tự do hoá thơng mại, của biến động giá cả quốc tế và lãi suất ngân
hàng, của tình hình cung cầu và vốn đầu t, của nhu cầu đa dạng của thị trờng
nớc ngoài trong khi bố trí cơ cấu kinh tế...
Về hàng xuất khẩu caủa Việt Nam nói chung và cũng nh hàng xuất
khẩu chủ lực của nớc ta đang đứng trớc một sự cạnh tranh gay gắt với các
khu vực nh: Thái Lan, Indonesia, Philíppin, Malaysia...Đặc biệt là Trung
Quốc vừu trở thành viên chính thức của tổ chức Thơng mại thế giới WTO đủ
tạo ra một lợi thế rất lớn cho hàng Trung Quốc cạnh tranh chiếm thị phần
các thị trờng trên thế giới. Việc Trung Quốc gia nhập WTO là một cản trở rất
lớn cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trờng thế giới. Bởi vì những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nh: may mặc, da dày, hàng nông sản,
thủ công mỹ nghệ... cũng là thế mạnh của Trung Quốc.
Mỹ và phơng tây tiếp tục thực hiện mu toán diễn biến hoà bình ở Việt
Nam, gây áp lực với ta về vấn đề dân chủ, nhân quyền, đa nguyên đa
đảng. Chính sách hai mặt của Trung Quốc đối với Việt Nam cha hề thay đổi;
hành động lấn chiếm lãnh thổ của ta, đặc biệt là trên biển, đặt ta trong tình
trạng luôn luôn phải cảnh giác. Đối phó với sức uy hiếp ngày càng tăng,

cuộc chạy đua trong khu vực Châu á-Thái Bình Dơng diễn ra hết sức phức
tạp, đe doạ an ninh chủ quyền lãnh thổ nớc ta buộc chúng ta phải hết sức coi
trọng việc cũng cố và tang cờng khả năng quốc phòng.
Bên cạnh đó nền kinh tế của chúng ta còn nhiều yếu kém: đội ngủ cán
bộ làm công tác đối ngoại vừa thiếu lại vừa yếu; tổ chức bộ máy kinh tế kém
hiệu quả đã tác động không thuận đến sự phát triễn kinh tế đối ngoại.
Những tình hình trên đã đặt nớc ta nững khó khắn trong hoạch định
chiến lợc cũng nh trong điều hành quản lý, đòi hỏi nớc ta phải phát triễn vợt
bậc, mau chống trởng thành để đủ sức chống đỡ các ảnh hởng nói trên
3. Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sang các thị trờng
3.1. Nhóm hàng nguyên vật liệu
Nhóm hàng này với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá chiếm
trên 20% kim nghạch xuất khẩu của nớc ta. Đối với mặt hàng dầu thô, thị tr-
ờng xuất nhập khẩu gồm: Ôxtraylia, Singapore, Nhật Bản và Trung Quốc,
mặt hàng xuất khẩu chủ lực này trong tơng lai sẽ giảm dần sau khi nhà máy
lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động. Dự kiến đến năm 2005 lợng dầu thô
xuất khẩu vchỉ còn là 12 triệu tấn so với hiện nay là 16 triêụ tấn. Và đến
năm 2010 kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ giảm đáng kể.
Về than đá, thị trờng xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản, Trung Quốc, Tây
Âu... Dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà máy nhiệt điện
mới nên dù sản lợng có thể lên tới 15 triệu tấn/năm(hiện nay là 10-12 triệu
tấn/năm) xuất khẩu cũng chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn(5 trong 10 năm tới,
mang lại kim ngạch khoảng 120-150 triệu USD). Nhìn chung giá xuất khẩu
than khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung ứng trên thị trờng thế
giới tơng đối dồi dào, vả lại vì lý do môi trờng nên cầu có xu hớng giảm.
Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác để bù vào thiếu hụt
của dầu thô và than đá là rất hạn chế. Nh vậy, tới năm 2005, nhóm nguyên
liệu có khả năng chỉ còn đóng góp 9% kim ngạch xuất khẩu(2,5 tỷ USD) so
với trên 20% hiện nay; đến năm 2010 tỷ trọng của nhóm này sẽ giảm xuống
còn cha đầy 1%(dới 500 triệu USD) hoặc 3.5%(khoảng 1,75 tỷ USD), tuỳ

theo phơng án khai thác dầu thô. Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để
thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu.
3.2. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
Hiện nay nhóm hàng này chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với
những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, rau quả, thuỷ sản, hạt tiêu,
và nhân điều, tất cả đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm. Nhóm hàng
này có xu hớng tăng kim ngạch tuyệt đối nhng tỷ trọng tuyệt đối của nhóm
sẽ giảm xuống còn 22%(tơng đơng 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2%(t-
ơng đơng 8-8.6 tỷ USD) vào năm 2010. Nguyên nhân là do xuất khẩu nông
nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu(nh diện tích có hạn, khả
năng khai thác và đánh bắt có hạn). Bên cạnh đó nhu cầu của thế giới cũng
có hạn, giá cả lại không ổn định.
Theo Bộ Thơng Mại hạt nhân tăng trởng của nhóm sẽ là mặt hàng thuỷ
sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thế giới lại
tăng khá ổn định, bình quân tăng mỗi năm trên 13%. Thị trờng xuất khẩu
chính của mặt hàng này là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc...
Đối với mặt hàng gạo, do nhu cầu thế giới tơng đối ổn định, khoảng 20
triệu tấn/ năm, nhiều nớc nhập khẩu chú trọng vào an ninh lơng thực, thâm
canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu. Trong hoàn
cảnh đó, dự kiến suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều lắm ta cũng có thể xuất khẩu
đợc khoange 4-4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng 1 tỷ USD. Để nâng
cao kim ngạch, cần đầu t cải tiến cơ cấu và chất lợng gạo xuất khẩu; khai
thác các thị trờng mới nh: Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ, ổn định và duy
trì thị trờng truyền thống nh Indonesia, Philippin.. thông qua các hợp đồng
G-to-G, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung,
ổn định giá cả thị trờng tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.
Đối với hàng cà phê, thị trờng xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ,
Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó khăn
lớn về thị trờng nhng giá cả khó ổn định.
Nhìn chung, để nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản đạt đợc giá trị kim

ngạch xuất khẩu trong tơng lai thì cần chú trọng khâu chế biến, bảo quản, vệ
sinh thực phẩm, chuyên chở, đóng gói, phân phối để có thể thẳng tới khâu
tiêu dùng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng.
3.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo
Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là 30%
kim ngạch xuất khẩu. Hạt nhân của nhóm này là dệt may và dày dép. Hiệp
định thơng mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã đợc ký kết và thông qua, đây là một
cơ hội rất to lớn để dệt may và dày dép phát triễn, dự báo tới năm 2010 kim
ngạch của mỗi mặt hàng đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD. Thị trờng xuất khẩu
chính của hai mặt hàng này là EU, Nhật Bản, đặc biệt là thị trờng Nhật Bản,
đây là thị trờng phi quota. Và trong những năm tới phải gia tăng nổ lực thâm
nhập vào các thị trờng Mỹ, Trung Đông và châu đại dơng. Do mực tiêu kim
ngạch của toàn nhóm chế biến, chế tạo là trên 20 tỷ USD nên ngoài dệt may
và dày dép cần tiếp cận thị trờng quốc tế, dự báo nhu cầu của ngời tiêu dùng,
từ đó không những đáp ứng mà cố gắng tạo ra những ngành hàng mới. Trớc
mắt, chủ yéu dựa vào cơ cấu đầu t và thực tiến sản xuất trong những năm
qua cũng nh thị trờng quốc tế, chúng ta cần chú trọng vào những mặt hàng
nh thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu
dùng, sản phẩm cơ khí, điện, sản phẩm nhựa.
Mặt hàg thủ công mỹ nghệ hiện nay đạt xấp xĩ 200 triệu USD. Đây là
ngành nhiều tiềm năng, dung lợng thị trờng thế giới còn lớn. Nếu có chính
sách đúng đắn để khởi động tiềm năng thì có thể đạt kim ngạch.
II. thực trạng của thị trờng xuất khẩu các nmặt
hàng chủ lực của việt nam
1. Các thị trờng xuất khẩu chính của Việt Nam
1.1. Thị trờng Châu á- Thái Bình Dơng
Thị trờng Châu á - Thái Bình Dơng là một thị trờng xuất khẩu trọng
điểm của Việt Nam. Với kim ngạch 9,7 tỷ USD chiếm tỷ trong gần 60%
trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Với những thuận lợi nh dung lợng
thị trờng lớn, vị trí địa lý gần gủi, là một khu vực phát triễn năng động. Tại

khu vực này, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1998 gần nh đã kết
thúc với sự phục hồi kinh tế ở các nớc Malaysia, Singapore, Hàn Quốc, Thái
Lan... Trong số các nớc bị ảnh hởng nghiêm trong nhất của cuộc khủng
hoảng, Hàn Quốc đã dẫn đầu qua tình trạng phục hồi với mức tăng GDP
9%(1999) so với 6%(1998), Singapore có mức tăng 5%(1999) so với mức
âm 0,2%(1998), Hồng Kông tăng 0,7%(1999) so với âm 4,7%(1998),
Indonesia tăng 2%(1999) so với mức âm 7,5%(1998), Thái Lan tăng
4%(1999) so với mức âm 8%(1998), Malaysia tăng 3%(1999) so với mức
âm(1998), Philippin tăng 2,9%(1999) so với mức âm 0,2%(1998). Các nớc
Nam á nh ấn Độ, Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trởng ổn định. Đây là điều
kiện rất thuận lợi để giao lu hàng hoá của Việt Nam vào khu vực Châu á-
Thái Bình Dơng tăng rất nhanh. Dự kiến đến năm 2005 xuất khẩu của Việt
Nam vào khu vực Châu á-Thái Bình Dơng tiếp tục tăng 10-12%/năm, nhng
từ năm 2006-2010 sẽ còn 8%/năm. Với tốc độ tăng trởng nh dự báo thì đầu
năm 2003 khu vực này chiếm khoảng 60% thị trờng xuất khẩu của cả nớc và
đến năm 2010 thì còn khoảng 30%.
Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang khu vực này vẫn là
những mặt hàng truyền thống nh: dầu thô, gạo, hạt điều, cà phê, cao su, hải
sản, rau quả tơi... Đặc biệt là các sản phẩm gia súc, gia cầm, hoa quả nhiệt
đới, rau củ, dầu thô, khi đốt, điện năng có khả năng tăng mạnh trong thời
gian tới.
Sản lợng một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam có thể xuất khẩu vào
các nớc Châu á-Thái Bìn Dơng là:
Dầu thô 10 triệu tấn/năm
Than đá 4 triệu tấn/năm
Gạo 1,5 triệu tấn/năm
Cao su 200.000 tấn/năm
Cà phê 100.000tấn/năm
Chè 50.000 tấn/năm
Hạt tiêu 50.000 tấn/năm

Hạt điều 20.000 tấn/năm
Thuỷ sản 1.000.000 tấn/năm
Dày dép 200 triệu USD
Những mặt hàng này chủ yếu xuất khẩu vào các thị trờng trọng điẻm
nh: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc(cả Hồng Kông) và các nớc
ASEAN.
1.1.1. ASEAN
ASEAN là một thị trờng khá lớn với khoảng 500 triệu dân, ở sat Việt
Nam, tuy trớc mắt gặp khó khăn tạm thời song tiềm năng phát triễn còn lớn.
Việt Nam gia nhập ASEAN là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự
chuyển hoá mối quan hệ giữa Việt Nam và các nớc thành viên khác mang
đậm tính chất hợp tác. Nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế các nớc thành
viên có thể bổ sung cho nhau đem lại sự phồn vinh cho mỗi nớc và cho cả
khu vực. Hiện nay ASEAN chiếm khoảng 25-30% kim ngạch xuất nhập
khẩu của Việt Nam và khoảng 15% tổng vốn đầu t của nớc ngoài vào Việt
Nam.
Hiện nay các nớc ASEAN đang chuẩn bị tiến hành thực hiện Hiệp định
khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA), thực hiện chơng trình u đãi thuế
quan có hiệu lực chung(CEPT). Khu mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) ra đời
hớng vào các mục đích nh: mở rộng và tăng cờng buôn bán giữa các nớc
ASEAN, thúc đẩy hợp tác đầu t trong nội bộ khu vực và thu hút đầu t nớc
ngoài vào ASEAN, xây dựng ASEAN thanh một khu vực sản xuất có sức
cạnh tranh mạnh hớng vào toàn cầu.
Để thực hiện AFTA, năm 1992 các nớc ASEAN đã ký kết thực hiện ch-
ơng trình u đãi thuế quan có hiệu lực chung(CEPT). Mục tiêu của CEPT là
giảm thuế quan trong thơng mại nội bộ ASEAN xuống 0-5%, đồng thời loại
bỏ tất cả các hạn chế về định lợng và hàng rào phi thuế quan khác. Có thể
nói khi khu vực mậu dịch AFTA thành công, hàng rào thuế quan giữa các n-
ớc ASEAN không còn nữa thì việc giao lu giữa các nớc ASEAN dễ dàng.
Đây thực sự là điều kiện rất tốt để gia tăng hàng xuất khẩu của Việt Nam

sang các nớc ASEAN nhng đồng thời nó cũng đặt ra một thách thức rất lớn
về sự cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong nớc và trong khu vực
ASEAN.
1.1.2. Thị tr ờng Nhật Bản
Từ năm 1986 đến nay, lợng hàng Việt Nam nhập khẩu của Nhật Bản đã
tăng 3-4 lân trong khi lợng hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng
từ 13-14 lần. Vậy mà, suốt từ năm 1988 đến nay Nhật Bản luôn là nớc xuất
siêu. Sau Indonesia, Việt Nam là nớc đang phát triễn tại Châu á luôn xuất
siêu sang Nhật Bản, trờng hợp này rất hiếm. Nhật Bản đợc đánh giá là bạn
hàng lớn nhất trong 8 bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong những năm
qua(8 bạnn hàng này chiếm 89% kim ngạch xuất khẩu và trên 80% kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam; đó là: Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông,
SNG, Pháp, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan). Nếu lấy mốc năm 1985 là
năm cuối cùng trớc khi đổi mới từ năm 1986 đến nay để so sánh với năm
1997, là một năm mà quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ kinh tế nói riêng
giữa hai nớc còn cha chịu tác động tiêu cực trực tiếp của cuộc khủng hoảng
tài chính- tiền tệ Châu á trong 2 năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng kinh
tế kéo dài của chính Nhật Bản từ đầu thập niện 90 đến nay thì kim ngạch
buôn bán hai chiều Việt-Nhật năm 1997 đã tăng 19,9 lần so với con số tơng
ứng của năm 1985. Tốc độ tăng trởng thơng mại bình quân giữa hai nớc là
30%; trong đó tăng trởng xuất khẩu là 33,2% và nhập khẩu là 38,9%, đều
tăng nhanh hơn nhiều so với tốc đọ tăng trởng xuất khẩu chung của ngoại th-
ơng Việt Nam kể cả Xuất khẩu và nhập khẩu.
Trong 3 năm gần đây, 1997-1999, đặc biệt là hai năm 1997-1998 kinh
tế Nhật Bản vốn cha thoát khỏi suy thoái kéo dài từ thập niên 90, lại đã gặp
khó khăn nghiêm trọng do sự tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài
chính Châu á. Tình hình suy thoái kinh tế nặng nề đã tác động đến chi tiêu
và đầu t của ngời Nhật, làm ảnh hởng xấu đến quan hệ thơng mại, đặc biệt là
nhập khẩu của Nhật Bản đối với các nớc khác; trong đó có Việt Nam. Thế
nhng, vợt lên trên mọi khó khăn, các cơ quan xúc tiến phát triễn thơng mại

mà trực tiếp vào cuộc là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì thế năm
1999, về cơ bản chúng ta vẫn duy trì đợc thế cân bằng tơng đối trong quan
hệ buôn bán với Nhật Bản những năm trớc. Trong khi đó hoạt động xuất
khẩu của ta sang Nhật vẫn tiến triễn khả quan với tốc độ tăng trởng xuất
khẩu 23% trong năm 1999 của hoạt động ngoại thơng Việt Nam. Với tăng
trởng liên tục của các hoạt động xuất nhập khẩu cho ta thấy rõ ràng là quan
hệ hợp tác Việt Nam-Nhật Bản trong những năm qua đã ngày càng khẳng
định hơn vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu đối với hoạt động ngoại
thơng Việt Nam.
Trong các mặt hàng xuất khẩu vào thị trờng Nhật Bản thì đáng lu ý là
các mặt hàng tôm đông lạnh và mực, hàng may mặc, cà phê, than đá đang là
nhng mặt hàng có tốc độ tăng rất nhanh. Tôm đông lạnh Việt Nam chiếm tỷ
phần xấp xỉ 10% thị phần nhập khẩu của Nhật Bản. Nhật Bản cũng đã trở
thành thị trờng lớn nhất đối với hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam, lại
là thị trờng phi hạn ngạch nên tiềm năng của thị trờng này cho hàng may
mặc xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn. Than đá của Việt Nam xuất khẩu
sang Nhật gần đây đạt mức kỷ lục hơn triệu tấn/năm. Thị trờng cà phê, dày
dép của Nhật Bản cũng hứa hẹn nhiều triễn vọng đối với hàng xuất khẩu của
Việt Nam. Có một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong vài năm gần
đây đã có tính cạnh tranh cao cả về chất lợng và giá cả, đáng chú ý là may
mặc, khăn lau tay, một số hàng thuỷ snr nh tôm và mực. Năm 1998, Việt
Nam đã vơn tới vị trí một trong 4 nớc hàng đầu sang Nhật về một số mặt
hàng nh than đá(đứng thứ 2), mực(thứ 2), tôm(thứ 4),... Phần lớn các đối thủ
cạnh tranh mặt hàng này của Việt Nam tại thị trờng Nhật Bản là một số nớc
Châu á nh: Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
Philippin, ấn Độ... Rõ ràng là Việt Nam đã từng bớc chiếm lĩnh thị trờng
Nhật Bản, một thị trờng có sức tiêu thụ rất mạnh, những đã từng nổi tiếng là
khó tính. Không những thế, nhìn về triễn vọng, xuất khẩu hàng Việt Nam
sang Nhật Bản còn có khả năng tiếp tục phát triễn khả quan hơn nữa, khi mà
nền kinh tế Nhật Bản kể từ năm 1999 đến nay đang phục hồi trở lại. Nhu cầu

tiêu dùng của ngời Nhật đối với hàng hoá tiêu dùng của Việt Nam sẽ ngày
càng gia tăng hơn, nếu họ quen sử dụng, còn các hàng hóa tiêu dùng cho sản
xuất của Việt Nam vẫn xuất sang Nhật nh: dầu thô, than đá, sắt thép... thì
thực tiễn đã cho thấy đó là những hàng hoá nguyên vật liệu thiết yếu dùng
cho sản xuất công nghiệp mà nền kinh tế Nhật Bản luôn luôn cần tới. Năm
1998 có thể nói nền kinh tế của Nhật Bản đang chạm tới đáy của sự suy
thoái, với tốc độ tăng trởng 18%, đạt kỹ lục cha từng có từ 5 thập niên gần
đây, song quan hệ thơng mại của nớc ta khi đó Nhật vẫn là thị trờng tiêu thụ
chủ yếu, chiếm tới 60-70% tổng doanh thu xuất khẩu các sản phẩm dầu thô,
than đá và hàng may mặc thuỷ sản của ta.
Mặc dù quan hệ thơng mại Việt-Nhật đã có sự phát triễn liên tục, khả
quan nh vậy song nghiêm túc thừa nhận, so với tiềm năng thực có vẫn còn
hạn chế. Cụ thể là, nếu tính đến thời điểm năm 1997 , năm mà hoạt động
buôn bán giữa hai nớc đã đợc ghi nhận là phát triễn khả quan nhất, ta thấy
kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-Nhật đã chiếm 0,46% trong tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Nhật Bản. Nếu so sánh tơng quan giữa thơng mại giữa
các nớc trong khu vực với Nhật Bản thì con số tỷ trọng đó là nhất nhỏ bé.
Theo số liệu của Quỷ tiền tệ Quốc tế(IMF) tỷ trọng kim ngạch xuất nhập
khẩu của các nớc ASEAN trong tổng kim ngạch ngoại thơng của Nhật Bản
là: Thái Lan là 3,7%, Malaysia là 4,5%, Indonesia là 5,2%...
Tơng tự trên, mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng đều hàng
năm với mức bình quân khá cao là 20% kể từ năm 1990 đến nay, trong đó
tăng cao nhất là 25% trong năm 1999, song đến nay Việt Nam vẫn là một
bạn hàng xuất khẩu nhỏ bé của Nhật Bản. Năm 1998 khoảng 0,5%, trong khi
tỷ trọng của Trung Quốc là cao nhất: 13,2%, Singapore là: 2,9%, Malaysia
là: 2,7%, Thái Lan là: 2,6%, Indonesia là: 2,3% và thấp nhất là Philippin
cũng đạt tới 1,7%, còn cao hơn Việt Nam 3,4 lần.
Vậy để hàng hoá của Việt Nam thâm nhập vào thị trờng Nhật Bản tơng
xứng với tiềm năng của hai nớc thì:
-Trớc hết, đó là vấn đề về chất lợng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam

sang Nhật. Phải thừa nhận rằng chúng ta đã có nhiều cố gắng về vấn đề này
vì thế càng ngày trong danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam càng có
thêm những mặt hàng chiếm đợc u thế cao về chất lợng nh: hàng may mặc,
hàng thực phẩm hải sản, tôm, mực, bạch tuộc, hàng thủ công mỹ nghệ... Thế
nhng qua thực tiễn xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Nhật Bản những
năm qua ta cần phải chấp nhận một thực tế là nhìn chung chất lợng hàng hoá
của ta cha đồng đều, còn thua kém nhiều nớc trong khu vực, đặc biệt là chất
lợng quảng cáo, thông tin trên bao bì, cũng nh kỹ thuật đóng gói còn đơn
điệu, kém hấp dãn và độ dài thời gian bảo hành sản phẩm còn cha chuẩn
xác nh quảng cáo giới thiệu trên các bao bì hàng hoá. Từ đó đặc ra bên cạnh
vấn đề chất lợng cao, Việt Nam cần chú ý nhiều hơn nữa đến khâu thông tin,
quảng cáo tiếp thị với thị trờng Nhật Bản, mà trớc hết là chú ý tới hình thức
mỹ thuật và chất lợng kỹ thuật của bao bì hàng hoá và vấn đề tiết kiệm giá
thành sản phẩm để giảm giá ở mức hợp lý mới có thể cạnh tranh đợc với
hàng hoá của các nớc khác .
-Thứ hai là: hoàn tiện và nâng cao các biện pháp thâm nhập tị trờng
Nhật Bản. Về vấn đề này của ta còn quá đơn giản và cha chủ động. Việc
thâm nhập thị trờng Nhật bằng hình thức tiếp cận trực tiếp thị trờng cha đợc
các doanh nghiệp của ta quan tâm đúng mức, trong đó có nguyên nhân đó là
chi phí khảo sát thị trờng rất tốn kem, các doanh nghiệp của ta dù có muốn
khảo sát trực tiếp cũng cha có thể thực hiện đợc vì một thực tế là phần lớn
các doanh nghiệp Việt Nam còn ở quy mô nhỏ, cha có đủ tiềm lực kinh tế
làm ăn lớn. Chính vì thế mà cho đến nay các doanh nghiệp Việt Nam không
thể nắm bắt kịp thời chính xác đợc nhu cầu hàng hoá, thị hiếu tiêu dùng
cũng nh các quy định về quản lý xuất nhập khẩu của Nhật Bản... Do vậy việc
xuất khẩu hàng sang Nhật Bản hoàn toàn phụ thuộc vào phía đối tác Nhật.
-Thứ ba là: mở rộng quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam.
Quy mô của các doanh nghiệp Viêt Nam hiện nay còn nhỏ bé và do ph-
ơng thức gom hàng của ta để xuất khẩu lâu nay vẫn cha khắc phục hết tình
trạng sản xuất nhỏ, manh mún... Vì thế rất khó khăn trong việc đáp ứng các

hợp đồng lớn, hoặc các hợp đồng đột xuất ngoài kế hoạch dự kiến của phía
ta nhng phía Nhật lạ có nhu cầu.
Tóm lại, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong những năm qua
đã phát triễn khả quan hơn trớc nhiều song vẫn cha thực sự xứng với tiềm
năng và nhu cầu phát triễn của mỗi nớc. Cần phải có những giải pháp đồng
bộ để phát huy lợi thế so sánh của nớc ta.
1.2. Thị trờng EU
Chính sách thơng mại Việt Nam-EU có nhiều chuyển biến tích cực. Bắt
đầu từ tháng 11/1990 quan hệ Việt Nam và cộng đồng Châu Âu đã đợc bình
thờng hoá. Tháng 12/1993 Việt Nam đã ký hiệp định buôn bán hàng dệt may
với EU. Với hiệp định này hàg dệt may xuất sang EU tằng từ 130 triệu USD
năm 1992 lên 294 triệu USD năm 1993. Ngày 17/7/1995, tại Brussel đã ký
hiệp định hợp tác giữa cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và EU, trong đó
EU dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc(MFN) và quy chế u đãi thuế
quan phổ cập(GSP). Hiệp định này tạo cơ sở pháp lý quan tropng là nền tảng
cho việc thcs đẩy quan hệ Việt Nam-EU trên nhiều lĩnh vực nh: kinh tế, th-
ơng mại, đầu t, khoa học kỹ thuật, giáo dục...
Chính cơ sở pháp lý trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam khai
tác các lới thế so sánh để xuất khẩu sang EU, nhất là hàng dệt may và dày
dép. Từ chổ hầu nh bị cấm vận, nhóm hàng này của Việt Nam xuất khẩu
sang EU năm 2000 đạt gần 700 triệu USD.Riêng mặt hàng dày dép ,từ 1995
đến nat đợc xuất khẩu tự do sang EU .
Đến năm 1991 tông kim nghạch xuất nhập khẩu giữa hai bên mới là
392 triệu USD (Trong đó Niệt Nam xuất 193 triệu USD , nhập 200 triệu
USD)thi đến năm 1999 thi con số này là 3.9 tỹ USD tâng gâp 10 lần( trong
đó Việt nam xuất gần 2,9 tỹ USD , nhập 1 tỷ USD )tỷ lệ hàng chế biến ngày
càng tăng .
Đến nay cả Việt nam và EU đều xem nhau là đối tác quan trọng. Trong
các quốc gia EU, Đức là bạn hàng thứ 4 của Việt Nam, Anh là nớc thức 9,
Pháp và Hà Lan đứng thứ 12 và 13. Mới đây EU công nhận Việt Nam áp

dụng cơ chế kinh tế thị trờng. Nhờ đó mà hàng hoá Việt Nam không còn bị
bất lợi so với hàng của các nớc khác khi EU điều tra và thi hành các biện
pháp chống phá giá. Những thuận lợi này càng tạo thêm các cơ hội mới cho
hai bên mở rộng các quan hệ kinh tế thơng mại và đầu t trong thời gian tới.
Về những mặt hàng cụ thể, khả năng thâm nhập thị trờng EU của các
sản phẩm truyền thống của Việt Nam nh: dày dép, quần áo, thuỷ sản... nên
tăng thêm do đang đợc giảm miễn thuế GSP. Trong khi đó nhiều nhóm hàng
của các nớc có khả năng rất mạnh trên thị trờng EU đã bị loại khỏi diện đợc
hởng GSP(do tỷ lệ tổng sản phẩm trong nớc tính trên đầu ngời của các nớc
đó đã đạt tới mức không đợc hởng GSP nữa, hoặc do nhóm hàng nào đó đã
chiếm tới 25% thị phần hoặc bán phá giá tai thị trờng EU).
Với việc EU công nhận 40 doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã đủ tiêu
chuẩn xuất khẩu sang EU là điều kiện thuận lợi để đảm bảo xuất khẩu ổn
định. Ngoài ra điều này còn giúp nâng cao uy tính về chất lợng hàng thuỷ
sản Việt Nam trên các thị trờng khác, tăng khả năng thâm nhập thị trờng của
nhóm hàng này.
Đặc biệt là mấy năm gần đây hàng điện tử Việt Nam xuất sang EU đã
tăng nhanh, đến năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 60 triệu USD.
Sản phẩm tủ công mỹ nghệ cũng đợc ngời tiêu dùng EU u thích. Nếu sản
phẩm đợc sản xuất theo đơn đặt hàng của mùa vụ(hàng lu niệm phục vụ các
sự kiện văn hoá xã hội chẳng hạn), đảm bảo chất lợng, mẩu mả và thời gian
giao hàng, chắc chắn khả năng thâm nhập vào thị trờng EU sẽ rất lớn. Đấy là
điều các doanh nghiệp Việt Nam cần lu ý và nên hợp tác chặt chẻ với các
doanh nghiệp để nắm bắt thông tin thị trờng.
EU thực sự là một thị trờng đầy tiềm năng, với số dân 374,2 triệu ngời
với GDP hơn 9000 tỷ USD, đợc xác định là khu vực thị trờng rộng lớn phát
triễn cao. Nhng để hàng hoá của Việt Nam xâm nhập vào thị trờng này ngày
một rộng lớn thì vấn đề mấu chốt ở đây là Việt Nam phải đáp ứng đợc yêu
cầu chất lợng cao của EU, việc Việt Nam có mở rộng đợc thơng mại sang
các thành viên EU chủ yếu là yêu cầu này. Đối với các doanh nghiệp Việt

Nam hiện nay, điều quan trọng là phải nghiên cứu xem họ có nhu cầu gì,
nhu cầu đến đâu và bảo hoà cha, đây chính là bí quyết trong cuộc cạnh tranh
với các nớc khác để mở rộng xuất khẩu sang thi trờng EU.
Bên canh những thuận lợi lớn thì xuất khẩu những mặt hàng chủ lực của
Việt Nam vẫn còn những trở ngại khó khăn:
Thứ nhất là những hạn chế bởi hạn ngạch nhập khẩu mà cụ thể là đối
với hàng dệt may của Việt Nam. Mặc dù khối lợng hàng dệt may đã tăng lên
nhiều so với trớc nhng còn thấp so với khả năng cung cấp của Việt Nam và
nhu cầu mua hàng của các nhà nhập khẩu EU.
Thứ hai là hàng rào thuế quan của EU đối với một số mặt hàng nông
sản của Việt Nam có thể xuất sang EU lại rất cao. Chẳng hạn nh thuế nhập
khẩu gạo lên trên 100%, đờng gần 200%(mặc dù đã đợc giảm thuế theo
GSP), trong khi một số lợng lớn hàng của nhiều nớc khác đợc giảm nhiều
hơn hoặc đợc miễn thuế do đợc hởng các u đãi thơng mại riêng. Hàng hoá
Việt Nam xuất sang EU khó cạnh tranh đợc với các hàng hoá của các vùng
Châu Phi, Thái Bình Dơng, Caribe, cũng nh một số nớc Đông Âu do các nớc
này đợc hởng các u đãi thơng mại theo công ớc Lomé hoặc các hiệp định ký
kết.
Thứ ba là theo quy định của EU, nớc xuất khẩu phải có kế hoạch và
thiết bị đầy đủ để giám sát dự lợng độc tố trong nhóm hàng noong sản và
thực phẩm. Do cơ quan chức năng của Việt Nam cha đáp ứng đợc yêu cầu
trên nên từ trớc đến nay nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm, nh thịt chẳng
hạn, cha xuất đợc sang EU. Ngoài ra, một trở ngại rất quan trọng là các
doanh nghiệp Việt Nam châ lập đợc quan hệ đối tác trực tiếp với nhà nhập
khẩu mà phần lớn hàng Việt Nam phải xuất qua trung gian và dới dạng gia
công(theo ớc tính, hiện nay từ 10-45% tổng giá trị giày dép và quần áo của
Việt Nam xuất khẩu sng EU là qua trung gian).
1.3. Thi trờng Mỹ
Đây là nớc nhập khẩu hàng lớn nhất thế giới, mỗi năm nhập khẩu 1000
tỷ USD hàng hoá, với nhu cầu đa dạng, nắm bắt những đỉnh cao về công

nghệ nguồn.
Sau khi quan hệ ngoại giao đợc bình thờng hoá, quan hệ buôn bán giữa
Việt Nam vẫn còn gặp những trở ngại lớn do hai nớc cha ký đợc Hiệp định
thơng mại song phơng và do Hoa Kỳ cha dành quy chế tối huệ quốc(MFN)

×