Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.77 KB, 118 trang )

Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật

Trần Thị Thu Trang

Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan
của tội phạm trong luật hình sự việt nam

Luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội – 2010


Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật

Trần Thị Thu Trang

Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan
của tội phạm trong luật hình sự việt nam
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

Luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Đức Hồng Hà

Hà nội - 2010


MỤC LỤC



Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU

MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI

1.1.

lý luận chung về dấu hiệu định tội

1.1.1.

Khái niệm dấu hiệu định tội

1.1.2.

Đặc điểm của dấu hiệu định tội

1.2.

lý luận chung về dấu hiệu định thuộc
phạm

1.2.1.

Khái niệm dấu hiêụ đinḥ tôịthuôcc̣ mặ


1.2.2.

Phân loại dấu hiệu định tội thuộc mặ

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC

LUẬT HÌNH SỰ VỀ DẤU H

CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM

2.1.

Thực tiễn áp dụng các quy định của p
hiệu lỗi

2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy định của p
hiệu động cơ và mục đích phạm tội

2.2.1.

Thực tiễn áp dụng các quy định của p
hiệu động cơ phạm tội

2.2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy định của p
hiệu mục đích phạm tội



Chương 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN ÁP
HOÀN THIỆN CÁC QUY

HÌNH SỰ VỀ DẤU HIỆU ĐỊ
QUAN CỦA TỘI PHẠM

3.1.

Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy

về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ q
Nam từ năm 2000 đến năm 2009
3.1.1.

Những kết quả đạt được trong thực t
của pháp luật hình sự về dấu hiệu đị
quan của tội phạm

3.1.2.

Những hạn chế, thiếu sót trong thực

định của pháp luật hình sự về dấu hi
quan của tội phạm
3.1.3.

Nguyên nhân của những hạn chế, th
dụng các quy định của pháp luật hìn

thuộc mặt chủ quan của tội phạm

3.2.

Phương hướng hoàn thiện các quy đ

dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan
3.2.1.

Phương hướng hoàn thiện các quy đ
về dấu hiệu lỗi

3.2.2.

Phương hướng hoàn thiện các quy đ

về dấu hiệu động cơ và mục đích ph
́

KÊT LUÂN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Định tội danh là quá trình xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội
trên thực tế với các yếu tố trong cấu thành tội phạm. Vấn đề định tội là một
vấn đề khó khăn phức tạp và đặc biệt quan trọng. Bởi vì, như Mác nói, hiệu

quả của pháp luật hình sự phụ thuộc rất nhiều vào tính đúng đắn của công tác
xét xử. "Định tội danh đúng sẽ là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình
sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật"
[7, tr. 7-8]; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; củng cố uy
tín của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Thực tiễn xét xử những năm qua ở Việt Nam cho thấy, việc định tội
danh vẫn còn không ít sai sót, dẫn đến những hậu quả tiêu cực. Bởi vậy, việc
giải quyết vấn đề này cả về mặt lý luận và thực tiễn có ý nghĩa quan trọng và
đặc biệt cấp thiết, góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội phạm. Đó cũng chính là lý do để
tác giả chọn đề tài: "Dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm
trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
"Dấu hiệu định tội" là một nội dung quan trọng của luật hình sự, nó
quyết định việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Chính vì thế đã có nhiều công trình
nghiên cứu về đề tài này dưới nhiều góc độ khác nhau, cả ở trong và ngoài
nước như: ở Liên xô cũ có công trình như "Luật hình sự Nga và các bài
giảng", Phần chung, tập 1, NXB. Khoa học, Maxcơva, 1994 của Viện sĩ
Taganxev N.X; "Lý luận chung về định tội danh" Maxcơva, 1999 (tiếng Nga)

1


của Viện sĩ, GS.TSKH luật Kudriavtxev A.N; "Lý luận chung về cấu thành tội
phạm", NXB. Sách pháp lý, Maxcơva (tiếng Nga) của GS.TSKH. Luật
Trannhin A.N … Ở Việt Nam, đã có các công trình nghiên cứu về vấn đề này
như: "Tội phạm và cấu thành tội phạm" (Chương VI) - Sách Tội phạm học,
luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, 1994 của

PGS.TS. Trần Văn Độ; "Luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực
tiễn", NXB. Công an nhân dân, 1997 của PGS.TS. Kiều Đình Thụ; "Cấu
thành tội phạm, lý luận và thực tiễn", NXB. Tư pháp, 2004 của PGS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa; "Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự" (Phần
chung), NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 của GS.TSKH. Lê Cảm; "Tội
giết người và đấu tranh phòng, chống tội phạm giết người ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay", (Sách chuyên khảo), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2008
của TS. Đỗ Đức Hồng Hà...
Tuy nhiên, trong các công trình trên chưa có công trình nào nghiên
cứu đầy đủ, có hệ thống về dấu hiệu định tội trong luật hình sự Việt Nam dưới
góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực tiễn xét xử ở Việt Nam giai đoạn từ
năm 2000 đến năm 2009.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý

luận những nội dung cơ bản của các quy phạm pháp luật về dấu hiệu định tội
thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam và đề xuất
những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về dấu hiệu định tội
thuộc mặt chủ quan của tội phạm.
-

Từ mục đích như trên, luận văn có nhiệm vụ: 1) Đưa ra được khái

niệm và phân loại dấu hiệu định tội. 2) Đánh giá đúng thực tiễn áp dụng các
quy phạm pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm. 3)
Đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy phạm pháp luật về dấu hiệu định tội
thuộc mặt chủ quan của tội phạm… sát đúng và có tính khả thi cao.


2


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ
quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam.
-

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ

quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình sự, cả lý
luận và thực tiễn xét xử ở Việt Nam, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước và pháp luật, về tội phạm và hình phạt; những thành tựu của các
ngành khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Tội phạm học…
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ
thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều
tra xã hội học… qua đó rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn
thiện các quy định về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm.
6. Ý nghĩa của luận văn
-

Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các khái niệm, các

đặc điểm cơ bản và phân loại dấu hiệu định tội theo quy định của luật hình sự
Việt Nam, luận văn làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản
của dấu hiệu này.

-

Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm

pháp luật về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm trong thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta, đồng thời nêu và phân tích những
vướng mắc, bất cập, thiếu sót xung quanh việc quy định về dấu hiệu định tội
thuộc mặt chủ quan của tội phạm và thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất phương
hướng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về dấu hiệu này
trong pháp luật hình sự Việt Nam.

3


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về dấu hiệu đinḥ tôịvà dấu hiệu định tội
thuôcc̣ măṭchủquan của tôịphaṃ .
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về
dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội phạm.
Chương 3: Đánh giá thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện
các quy định của pháp luật hình sự về dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan
của tội phạm.

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI

THUỘC MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI

1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định tội
Dấu hiệu định tội là những dấu hiệu đặc trưng điển hình, phản ánh
được đầy đủ tính chất nguy hiểm của một tội phạm và để phân biệt tội phạm
này với tội phạm khác. Đó là những dấu hiệu được quy định trong cấu thành
tội phạm cơ bản của một tội phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự.
Cũng như những hoạt động khác của con người trong xã hội, hành vi
phạm tội luôn diễn ra theo một quá trình nhất định. Người cố ý phạm tội luôn
mong muốn thực hiện đầy đủ quá trình đó để đạt được mục đích của mình.
Nhưng trong thực tế, có những trường hợp vì nguyên nhân khách quan, người
phạm tội đã không thực hiện được toàn bộ quá trình phạm tội mà phải dừng
lại ở những thời điểm khác nhau. Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm, luật
hình sự Việt Nam đã phân ra ba mức độ thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Vấn đề các giai đoạn thực hiện
tội phạm chỉ đặt ra đối với tội cố ý trực tiếp. Đối với tội cố ý gián tiếp hay vô
ý chỉ có thể là trường hợp không mong muốn tội phạm xảy ra cho nên không
thể quy định có việc "chuẩn bị" hay "chưa đạt" để buộc họ phải chịu trách
nhiệm hình sự về điều chưa xảy ra và họ cũng không mong muốn nó xảy ra.
a. Dấu hiệu định tội trong tội phạm hoàn thành
Các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản sẽ là dấu
hiệu định tội cho trường hợp phạm tội của người thực hiện và là trường hợp
tội phạm hoàn thành. Tức là, đối với một tội danh, nhà làm luật mô tả trong

5



các điều luật phần riêng dấu hiệu đặc trưng của tội phạm để làm cơ sở pháp lý
cho việc xác định và phân biệt tội phạm này với tội phạm khác và có thể cả
với trường hợp chưa phải là tội phạm. Mỗi một tội danh được quy định trong
Bộ luật hình sự đều phải có một cấu thành tội phạm cơ bản, trong cấu thành
tội phạm có thể có nhiều trường hợp phạm tội được mô tả với các dạng hành
vi phạm tội khác nhau hoặc với các đối tượng tác động khác nhau. Dựa vào
cấu thành tội phạm có thể nhận thức được mô hình cấu trúc của một loại tội
mà không có sự hiểu rộng ra hoặc hẹp đi và cũng không có sự nhầm lẫn giữa
cấu trúc của tội này với cấu trúc của tội khác. Nội dung biểu hiện của các yếu
tố cấu thành tội phạm được phản ảnh dưới dạng dấu hiệu của cấu thành tội
phạm phải là những nội dung biểu hiện có tính đặc trưng của một loại tội. Cấu
thành tội phạm cơ bản đồng thời cũng là sự phản ánh pháp lý bản chất xã hội
của một loại tội phạm, cho nên những dấu hiệu trong cấu thành tội phạm đòi
hỏi phải thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của một loại tội. Như
vậy, vấn đề đặt ra cho các nhà làm luật khi lựa chọn những nội dung biểu hiện
đặc trưng của bốn yếu tố cấu thành tội phạm để phản ánh trong cấu thành tội
phạm là phải đảm bảo những dấu hiệu của cấu thành tội phạm vừa đủ cần
thiết cho sự xác định ranh giới giữa tội phạm này với tội khác nhưng đồng
thời cũng phải phản ánh được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
đó. Thông thường, những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cần thiết để phân
biệt tội phạm mà cấu thành tội phạm phản ánh với những tội phạm khác có
thể cũng là những dấu hiệu thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội
của loại tội đó. Ví dụ: Ở tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự) nhà làm luật
quy định dấu hiệu hành vi tước đoạt tính mạng người khác và dấu hiệu lỗi cố
ý là những dấu hiệu đặc trưng đủ cho phép phân biệt tội giết người với những
tội khác. Nhưng ta có thể thấy, nếu chỉ riêng những dấu hiệu đó thôi thì chưa
đủ để thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội giết người, mà
cần phải thêm dấu hiệu hậu quả chết người cùng dấu hiệu quan hệ nhân quả
giữa hành vi tước đoạt tính mạng người khác và hậu quả chết người. Vì thế,


6


trong cấu thành tội phạm tội giết người theo luật hình sự Việt Nam từ trước
đến nay đều có dấu hiệu hậu quả chết người.
Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm hoàn thành được biểu hiện bằng
lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) hay vô ý (vô ý do cẩu thả hoặc vô
ý vì quá tự tin) nhưng cũng có thể bằng hai hình thức lỗi (lỗi cố ý với hành vi
và lỗi vô ý với hậu quả do hành vi gây ra). Sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự
các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm là nhằm xác định hình thức lỗi
của tội phạm được thực hiện và vai trò của lỗi trong việc định tội danh đối với
tội phạm hoàn thành. Khi định tội danh đối với tội phạm hoàn thành trong mặt
chủ quan của tội phạm, người định tội danh phải chứng minh được lỗi (cố ý
hoặc vô ý) của chủ thể của tội phạm đó, tức là phải xác định được yếu tố lý trí
và ý chí của người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tương ứng. Việc xác
định rõ ràng và chính xác của mặt chủ quan của tội phạm được thực hiện với
hai hình thức lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự
giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự dựa trên các hình thức lỗi.
TSKH Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa khoa học về vấn đề định tội danh
đối với tội phạm hoàn thành, theo đó thì:
Định tội danh đối với tội phạm hoàn thành là sự đánh giá
về mặt pháp lý hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực
hiện trên cơ sở đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự giống
nhau giữa các dấu hiệu của hành vi ấy với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể do điều luật tương ứng trong phần các tội
phạm Bộ luật hình sự quy định [11, tr. 60].
Như vậy, khi xây dựng các cấu thành tội phạm cơ bản thì luôn phải có
sự thống nhất giữa tội danh với sự mô tả trong cấu thành tội phạm. Trong
trường hợp có những hành vi phạm tội khác nhau cùng được mô tả trong cấu
thành tội phạm thì tội danh phải bao quát được hết các hành vi phạm tội khác

nhau đó mà không thể lấy một hành vi phạm tội làm tội danh, cũng như

7


không thể ghép tất cả các hành vi phạm tội đó thành tội danh. Thực tiễn xét
xử các vụ án hình sự cho thấy, có nhiều vụ án mà người phạm tội chỉ có một
hành vi phạm tội, nhưng tội danh đó bao hàm nhiều hành vi phạm tội? Vậy
xác định tội danh cho người phạm tội đó như thế nào cho đúng, cho hợp lý thì
đó không phải là điều dễ dàng đối với các nhà áp dụng pháp luật.
b. Dấu hiệu định tội trong tội phạm chưa hoàn thành
Các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội phạm chưa
hoàn thành là dấu hiệu định tội cho trường hợp phạm tội của người thực hiện
và là trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. Luật hình sự
không chỉ coi hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cơ bản là tội phạm mà còn coi cả hành vi chuẩn bị cho việc thực hiện tội
phạm cố ý cũng như hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm của một tội cố ý vì nguyên nhân khách quan là tội phạm. Để có sở pháp
lý cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đòi hỏi phải quy định những trường
hợp phạm tội này dưới hình thức cấu thành tội phạm trong luật hình sự. Đó là
cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của phạm tội
chưa đạt. Hai cấu thành tội phạm này không quy định trực tiếp cho từng tội
danh mà chúng được quy định trong các quy phạm thuộc Phần chung Bộ luật
hình sự. Đó là các dấu hiệu có tính chất chung cho tất cả các tội danh nhưng
chưa phải là cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm
của phạm tội chưa đạt của tội phạm cụ thể. Cấu thành tội phạm này chỉ được
hình thành trên cơ sở kết hợp cấu thành tội phạm của tội phạm cụ thể với quy
định chung về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Bất cứ hành vi nào,
không có ngoại lệ, đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì đều phải thỏa mãn
những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm. Nếu đối chiếu hành vi chuẩn bị

phạm tội hay phạm tội chưa đạt với chỉ riêng cấu thành tội phạm cơ bản thì
hành vi này không thỏa mãn hoặc chưa thỏa mãn hết những dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cơ bản. Nhưng nếu đặt cấu thành tội phạm cơ bản trong mối

8


liên hệ với điều luật quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì hành vi
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều thỏa mãn những dấu hiệu tổng
hợp của cấu thành tội phạm cơ bản và của chế định các giai đoạn thực hiện tội
phạm. Sự tổng hợp những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản với những
dấu hiệu của chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm chính là cấu thành tội
phạm dự phòng cho cấu thành tội phạm cơ bản - cấu thành tội phạm của hành
vi chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa đạt. Cơ
sở pháp lý duy nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi chuẩn bị phạm
tội và hành vi phạm tội chưa đạt là sự thỏa mãn dấu hiệu của những cấu thành
tội phạm dự phòng này.
Đối với tội phạm chưa hoàn thành ở giai đoạn thứ nhất - chuẩn bị
phạm tội, tội danh sẽ được xác định theo điều luật tương ứng của Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự về tội phạm cụ thể (tội phạm hoàn thành) với sự viện
dẫn kèm theo điều luật về hành vi chuẩn bị phạm tội và quyết định hình phạt
tại Phần chung Bộ luật hình sự (Điều 17 và Điều 52).
Đối với tội phạm chưa hoàn thành ở giai đoạn thứ hai - phạm tội chưa
đạt, tội danh được xác định theo điều luật tương ứng của Phần các tội phạm
Bộ luật hình sự về tội phạm cụ thể (tội phạm hoàn thành) với sự viện dẫn kèm
theo của điều luật về hành vi phạm tội chưa đạt và quyết định hình phạt tại
Phần chung Bộ luật hình sự (Điều 18 và Điều 52)
Tội phạm chưa hoàn thành chỉ đặt ra đối với các tội có lỗi cố ý vì tội
phạm chưa hoàn thành là tội do cố ý không được thực hiện đến cùng trong
toàn bộ quá trình thực hiện tội phạm, hoạt động phạm tội chỉ ở một trong hai

giai đoạn (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) do những nguyên nhân
khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của người phạm tội. Theo
nguyên tắc chung, người chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều phải
chịu trách nhiệm hình sự về cùng tội danh như trường hợp tội phạm hoàn
thành theo cùng một điều luật và cùng trong phạm vi chế tài mà điều luật đó

9


quy định. Tuy nhiên, luật hình sự không đặt trách nhiệm hình sự của người
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ngang bằng với mức độ trách nhiệm
hình sự của trường hợp phạm tội hoàn thành do đây là những trường hợp
phạm tội với mức độ thực hiện phạm tội khác nhau vì thế mà mức độ nguy
hiểm cho xã hội cũng khác nhau.
TSKH Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa khoa học về định tội danh đối với
tội phạm chưa hoàn thành như sau:
Định tội danh đối với tội phạm chưa hoàn thành là sự đánh
giá về mặt pháp lý hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực
hiện trong hoạt động phạm tội sơ bộ trên cơ sở đối chiếu, so sánh
và kiểm tra để xác định sự phù hợp ở một mức độ nhất định nào đó
giữa các dấu hiệu của hành vi ấy trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội
hoặc (và) giai đoạn phạm tội chưa đạt với các dấu hiệu của các
cấu thành tội phạm cụ thể do điều luật tương ứng tại Phần các tội
phạm do Bộ luật hình sự quy định [11, tr. 93] .
Khi định tội danh đối với hành vi phạm tội chưa hoàn thành, việc xác
định đúng giai đoạn thực hiện tội phạm là việc làm rất quan trọng bởi vì với
mỗi tội danh, nhà làm luật quy đinh thời điểm hoàn thành tội phạm không
giống nhau. Ví dụ như trong "tội cướp tài sản" (Điều 133) thì tội phạm hoàn
thành từ thời điểm người phạm tội có hành vi tấn công, dù người phạm tội có
chiếm đoạt được tài sản hay chưa, nhưng đối với một số tội phạm khác thì

thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm người phạm tội lấy được tài sản
khỏi nơi cất giữ.
c. Dấu hiệu định tội trong đồng phạm
Tội phạm có thể chỉ do một người thực hiện nhưng cũng có thể do
nhiều người cùng thực hiện. Khi có nhiều người cố ý cùng thực hiện tội phạm
thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm. Trong luật hình sự Việt Nam, đồng
phạm được coi là hình thức phạm tội đặc biệt. Các dấu hiệu được mô tả trong

10


cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm là các dấu hiệu định tội cho trường
hợp phạm tội của người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức thực hiện tội
phạm. Theo luật hình sự Việt Nam, người bị coi là tội phạm và phải chịu trách
nhiệm hình sự về một tội cố ý cụ thể bao gồm những người đã thực hiện hành vi
phạm tội được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản và cả người có hành vi cố
ý ảnh hưởng đến việc thực hiện hành vi phạm tội đó. Đó có thể là hành vi tổ
chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội phạm và hành vi giúp sức
thực hiện tội phạm. Để có cơ sở pháp lý cho việc cho việc truy cứu trách nhiệm
hình sự ba loại hành vi phạm tội - tổ chức, xúi giục và giúp sức thực hiện tội
phạm, luật hình sự quy định bên cạnh cấu thành tội phạm cơ bản của mỗi tội
phạm cố ý ba cấu thành tội phạm khác mô tả ba loại hành vi cần truy cứu trách
nhiệm hình sự này. Như vậy, đối với mỗi loại tội phạm cố ý tồn tại bốn loại hành
vi phạm tội khác nhau. Hành vi thực hiện tội phạm được phản ánh trực tiếp trong
cấu thành tội phạm cơ bản, ba hành vi còn lại được phản ánh trong các cấu thành
tội phạm bổ sung là cấu thành tội phạm của hành vi tổ chức thực hiện tội phạm,
cấu thành tội phạm của hành vi xúi giục thực hiện tội phạm và cấu thành tội
phạm của hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Khác với cấu thành tội phạm cơ
bản, cấu thành tội phạm bổ sung (đồng phạm) không được quy định trực tiếp cho
từng tội danh. Dấu hiệu của hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức thực hiện tội

phạm được quy định trong các quy phạm thuộc Phần chung Bộ luật hình sự. Đó
là các dấu hiệu có tính chất chung cho tất cả các tội danh nhưng chưa phải là cấu
thành tội phạm của hành vi đồng phạm của tội phạm cụ thể. Cấu thành tội phạm
này chỉ được hình thành trên cơ sở kết hợp cấu thành tội phạm của tội phạm cụ
thể với quy định chung đó.

Trong đồng phạm có các dấu hiệu đặc trưng về mặt chủ quan như:
Phải có sự cùng cố ý của những người đồng phạm khi tham gia vào việc thực
hiện tội phạm với lỗi cố ý, tức họ đều biết hoạt động phạm tội của nhau. Mỗi
người đồng phạm đều ý thức được rằng, bằng hành vi của mình cùng với hành
vi của những người khác, họ đã phạm tội hoặc góp phần vào việc thực hiện

11


tội phạm. Những người đồng phạm đều cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức
để mặc cho hậu quả phạm tội chung xảy ra. Luật hình sự Việt Nam đã xác
định, tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về cùng một tội
danh, theo cùng một điều luật và trong phạm vi chế tài luật định. Trong đồng
phạm, hành vi của những người tổ chức, xúi giục hay giúp sức dù chưa đưa
đến việc thực hiện tội phạm nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự do
vậy vẫn cần phải xác định tội danh đối với những người này.
Có thể hiểu định tội danh đối với tội phạm được thực hiện dưới hình
thức đồng phạm là sự đánh giá về mặt pháp lý hành vi nguy hiểm cho xã hội
do hai người trở lên cùng cố ý thực hiện. Trên cơ sở đối chiếu, so sánh để xác
định sự phù hợp giữa các tình tiết trong hành vi của từng người đồng phạm
với các dấu hiệu của các cấu thành tội phạm cụ thể do điều luật tương ứng tại
Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định, người định tội danh sẽ xác định
tên tội mà những người đồng phạm đã cùng thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm của dấu hiệu định tội

Dấu hiệu định tội là dấu hiệu được mô tả trong các cấu thành tội phạm
làm tiêu chí để xác định một người thực hiện hành vi: Phạm tội gì? Với vai trò
như thế nào? Thực hiện tội phạm hay là tiến hành tổ chức, xúi giục hay giúp sức
thực hiện hành vi phạm tội. Nếu có, thì thực hiện ở giai đoạn nào của tội phạm?
Giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay tội phạm hoàn thành.
Các dấu hiệu định tội trong các trường hợp trên được người áp dụng
pháp luật đối chiếu với các tình tiết thực tế của vụ án trong quá trình định tội
danh cho hành vi phạm tội. Những tình tiết thực tế của hành vi phạm tội cụ thể
đã xảy ra phù hợp với các dấu hiệu định tội được gọi là các tình tiết định tội.

Nghiên cứu Bộ luật hình sự ta nhận thấy, dấu hiệu định tội có ở tất cả
các cấu thành tội phạm cơ bản:
Dấu hiệu chủ thể khi tội phạm đó đòi hỏi chủ thể đặc biệt: Như trong
các tội phạm về chức vụ thì chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, là người

12


có chức vụ, quyền hạn. Chủ thể của những tội này ngoài hai dấu hiệu thông
thường là độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, bắt buộc phải có dấu hiệu
thứ ba là người có chức vụ, quyền hạn. Ví dụ trong tội tham ô (Điều 278 Bộ
luật hình sự), chỉ những người có những dấu hiệu đặc biệt đã được quy định
trong cấu thành tội phạm cơ bản mới có thể trở thành chủ thể của tội tham ô.
Đó là những dấu hiệu có chức vụ, quyền hạn quản lí tài sản. Những người
không có chức vụ, quyền hạn này chỉ có thể là đồng phạm trong tôị tham ô
với vai trò là người xúi giục, tổ chức hay giúp sức.
Dấu hiệu hành vi khách quan: Hành vi khách quan được phản ánh
trong tất cả các cấu thành tội phạm. Không có hành vi khách quan thì không
có tội phạm. Ví dụ: Hành vi khách quan của các tội phạm về ma túy (chương
XXIV Bộ luật hình sự) tuy khác nhau về hình thức thể hiện, về tính chất và

mức độ nguy hiểm cho xã hội nhưng giống nhau ở chỗ đều là hành vi vi phạm
các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy.
Dấu hiệu lỗi (nội dung lỗi được quy định chung trong Phần chung của
Bộ luật hình sự): Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ cấu thành
tội phạm nào.
Ngoài ra còn có thể có dấu hiệu định tội khác và dấu hiệu này chỉ có ở
một số tội phạm nhất định. Những dấu hiệu đó có thể là: 1) Đặc điểm của đối
tượng tác động như dấu hiệu tài sản bị giao nhầm hoặc do tìm được, bắt
được... là dấu hiệu định tội của tội chiếm giữ trái phép tài sản... 2) Đặc điểm
của phương tiện phạm tội như dấu hiệu của đưa hối lộ phải là tiền, tài sản
hoặc những lợi ích vật chất khác là dấu hiệu định tội của tội nhận hoặc đưa
hối lộ...; 3) Đặc điểm của địa điểm phạm tội như dấu hiệu qua biên giới là dấu
hiệu của tội buôn lậu... [65, tr. 215].
Hành vi được xác định là tội phạm thì các tình tiết, biểu hiện của nó
phải được làm rõ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm để xử lý một cách
thỏa đáng. Hơn nữa, khi quyết định hình phạt, tòa án "...cân nhắc tính chất và

13


mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự" (Điều 45 Bộ luật
hình sự). Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
thực chất là việc xem xét và đánh giá các tình tiết tạo nên tính nguy hiểm của
tội phạm. Những tình tiết đó có thể là tình tiết thuộc về hành vi phạm tội,
thuộc về đối tượng tác động của tội phạm, thuộc về nhận thức, thái độ của
người phạm tội đối với việc phạm tội, thuộc về những đặc điểm riêng biệt,
phẩm chất cá nhân của người phạm tội... Những tình tiết đó có thể được quy
định là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều
46 và khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự). Mặt khác, theo quy định tại khoản 2

Điều 46 thì "... Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ... ".
Như vậy, để hiểu và vận dụng đúng thì cần có một khái niệm và chung thống
nhất về các tình tiết trong Bộ luật hình sự. Các tình tiết hình sự bao gồm nhiều
loại, nó phản ánh tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm; phản ánh điều
kiện khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến hành vi phạm tội; phản ánh không
gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh tội phạm xảy ra. Mặt khác, các tình tiết
của tội phạm còn phản ánh những đặc điểm nhất định, những phẩm chất cá
nhân cũng như hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội...
Các tình tiết định tội luôn gắn với sự kiện phạm tội, phản ánh tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và những đặc điểm
riêng biệt của người phạm tội. Khi các tình tiết phù hợp và thỏa mãn dấu hiệu
cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự sẽ cho
phép xác định được người phạm tội đã phạm tội gì, theo điều nào trong Bộ
luật hình sự.
Các tình tiết có vai trò quan trọng trong việc xác định và xử lý tội
phạm. Các tình tiết hình sự được nhà làm luật sử dụng để phản ánh tội phạm,
xây dựng những cấu thành tội phạm với những khung hình phạt khác nhau;
xây dựng các quy định về các tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng trách nhiệm

14


hình sự, phản ánh mức độ trách nhiệm hình sự khác nhau của các trường hợp
phạm tội cụ thể (trong khung hình phạt). Đồng thời các tình tiết của tội phạm
còn được nhà làm luật sử dụng để xây dựng các chế định liên quan đến tội
phạm và hình phạt cũng như những nguyên tắc, đường lối xử lý tội phạm. Các
tình tiết được nhà giải thích luật sử dụng để phân biệt các tội phạm khác nhau;
đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của các trường hợp phạm tội trong cùng
loại tội; làm rõ mức độ nguy hiểm cũng như mức độ trách nhiệm hình sự của
các trường hợp phạm tội cụ thể. Các tình tiết hình sự được người áp dụng

pháp luật sử dụng làm căn cứ để định tội, định khung hình phạt cũng như để
quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nếu thiếu những tình tiết cụ thể,
những căn cứ xác đáng có thể dẫn đến việc định tội danh, định khung hình
phạt hay quyết định hình phạt không đúng, không phù hợp, làm cho hình phạt
không đạt được mục đích khi áp dụng đối với người phạm tội.
Trong Bộ luật hình sự, các tình tiết hình sự có sự biểu hiện hết sức đa
dạng. Mỗi tình tiết có ý nghĩa cũng như mức độ phản ánh khác nhau. Mỗi tội
phạm cụ thể bao giờ cũng là sự tổng hợp của nhiều tình tiết khác nhau. Đối với
vụ án cụ thể cần phải xác định rõ vị trí, ý nghĩa pháp lý của mỗi tình tiết hình sự
là tình tiết định tội, định khung hình phạt hay tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng
trách nhiệm hình sự để sử dụng chúng hợp lý. Vận dụng không đúng các tình tiết
này có thể dẫn tới việc định tội hoặc định khung hình phạt sai.

Sự phân biệt rõ các tình tiết là tình tiết định tội, tình tiết định khung
hay tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ có ý nghĩa đối
với tội phạm cụ thể. Một tình tiết có thể là tình tiết định tội của tội này nhưng
lại là tình tiết định khung hình phạt của tội khác và đối với tội khác nữa nó lại
chỉ là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Tình tiết
"gây hậu quả nghiêm trọng" là tình tiết định tội của tội trộm cắp, tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản hay nhiều tội phạm khác. Nhưng đối với tội cướp hay
tội cướp giật tài sản, nó chỉ là tình tiết định khung tăng nặng (khoản 2

15


Điều 133, Điều 135 Bộ luật hình sự). Còn đối với tội cố ý gây thương tích thì
tình tiết " gây hậu quả nghiêm trọng" lại chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
Trong vụ án thường có nhiều tình tiết, thậm chí có các tình tiết có ý
nghĩa trái ngược nhau. Trường hợp vừa có tình tiết "gây hậu quả nghiêm

trọng" lại vừa có tình tiết "tự nguyện sửa chữa", "bồi thường thiệt hại" hoặc
"khắc phục hậu quả"; hoặc trường hợp vừa có nhiều tình tiết tăng nặng nhưng
đồng thời lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do vậy, phải
xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và ảnh hưởng của các tình tiết đối với tội
phạm. Mỗi tình tiết cần được đánh giá riêng lẻ đồng thời còn phải được đánh
giá tổng hợp trong mối quan hệ của toàn bộ vụ án. Bởi lẽ, tội phạm là thể
thống nhất không thể chia cắt, tất cả các tình tiết - biểu hiện của tội phạm đều
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết thì tất
cả các tình tiết đó đều phải được xem xét, đánh giá tổng hợp, các tình tiết có ý
nghĩa trái ngược nhau thì phải xem xét xem tình tiết nào có ý nghĩa nhiều hơn.
Sự khác nhau giữa tình tiết định tội, tình tiết định khung và tình tiết giảm nhẹ,
tăng nặng trách nhiệm hình sự là ở chỗ: Các tình tiết định tội, định khung chỉ
riêng biệt cho từng tội phạm; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm
hình sự có thể áp dụng cho tất cả các tội hoặc cho nhiều tội khác nhau. Tình
tiết định tội được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản của mỗi loại tội.
Tình tiết định khung hình phạt được phản ánh trong cấu thành tội phạm giảm
nhẹ hay tăng nặng của mỗi loại tội. Còn tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự được quy định chung tại Điều 46 và Điều 48 Bộ luật hình sự.
Đối với mỗi tội phạm cụ thể, tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định
khung hình phạt thì không còn được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Bởi vì, tình tiết khi đã được sử dụng (và sử dụng một cách
triệt để) trong việc xử lý tội phạm thì nó không còn cơ sở để sử dụng cho lần tiếp
theo. Nếu mỗi tình tiết của tội phạm lại được sử dụng hai lần hoặc nhiều

16


hơn hai lần thì lần thứ hai và những lần tiếp sau đều là việc sử dụng không có
cơ sở. Điều đó dẫn đến hậu quả là giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội một cách không có căn cứ. Và như vậy, cũng chính

là vi phạm nguyên tắc pháp chế và các nguyên tắc khác của luật hình sự. Với
mỗi tội phạm cụ thể, các tình tiết có ý nghĩa độc lập trong việc phản ánh tội
phạm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, một số tình tiết cụ thể chỉ có ý
nghĩa hay thể hiện đầy đủ ý nghĩa của nó khi kết hợp với các tình tiết khác.
Ví dụ: Tại Điều 95 Bộ luật hình sự, tình tiết "phạm tội trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh" chỉ có ý nghĩa định tội khi kết hợp với tình tiết
"do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc
đối với người thân thích của người đó"...
Mỗi tội phạm đều là thể thống nhất của các tình tiết. Các tình tiết của
tội phạm luôn có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau. Các tình tiết phải
được xem xét, đánh giá một cách độc lập, riêng rẽ nhưng đồng thời cũng phải
cân nhắc, đánh giá chúng trong mối quan hệ biện chứng của toàn bộ vụ án. Có
như vậy, mới xác định được rõ vị trí, ý nghĩa cũng như ảnh hưởng của chúng
đối với tội phạm để từ đó có biện pháp xử lý thỏa đáng, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật... Nhà làm luật khi quy định tội phạm đã lựa chọn những tình
tiết thực tế điển hình của hiện tượng xã hội điển hình phản ánh vào trong luật
hình sự. Thông qua nhà làm luật, một số tình tiết đặc trưng, điển hình của tội
phạm trở thành những dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung hình phạt hay
dấu hiệu giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các tình tiết là dấu hiệu định tội là những tình tiết mà nếu không có nó
thì hành vi không cấu thành tội phạm hoặc nếu có nó thì hành vi cấu thành tội
phạm khác nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết tăng nặng) hoặc ít nghiêm trọng
hơn (nếu là tình tiết giảm nhẹ). Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói tới các tình
tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, còn tình tiết là dấu hiệu định tội có thể không
phải là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ.

17


Ví dụ: Lén lút là dấu hiệu định tội trộm cắp tài sản, nhưng nó không

phải là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định
tại Điều 48 hoặc Điều 46 Bộ luật hình sự. Yêu cầu của việc phân biệt trong
trường hợp này không phải là hai tình tiết với nhau, tình tiết nào là dấu hiệu
định tội, tình tiết nào là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, mà sự phân biệt ở
đây là khi một tình tiết nào đó được quy định tại Điều 46 hoặc Điều 48 mà
tình tiết đó đã là dấu hiệu định tội rồi thì khi quyết định hình phạt Tòa án
không được coi tình tiết đó là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng nữa. Ví dụ
tình tiết "giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" là dấu hiệu
định tội được quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự, khi quyết định hình phạt
đối với người phạm tội này, Tòa án không được coi tình tiết phạm tội do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết giảm nhẹ nữa [45].
Việc xác định chính xác các tình tiết thực tế của vụ án có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng đối với việc định tội danh đúng tội phạm đã thực hiện. Do đó,
Tòa án nhân dân tối cao thường xuyên chỉ rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự
cần thiết tất yếu của việc xác định chính xác các tình tiết đó. Việc điều tra
không đầy đủ các tình tiết có ý nghĩa cơ bản đối với việc định tội danh là cơ
sở trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Khi bác bỏ các sự kiện làm cơ sở cho việc
định tội danh được thể hiện trong bản án của tòa án cấp dưới, thì Tòa án cấp
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không thể không thay đổi việc định
tội danh, bản án cũng không thể được coi là đúng đắn, nếu như các tình tiết cơ
bản lấy làm cơ sở chứng minh về tính có lỗi và định tội danh không được điều
tra làm sáng rõ.
Trong các trường hợp định tội danh các sự kiện cụ thể theo các điều
luật chưa được áp dụng để buộc tội bị cáo, thì Tòa án cần phải xuất phát từ
nguyên tắc là sự thay đổi trong việc định tội danh chỉ được tiến hành với điều
kiện nếu hành vi của bị cáo đang được tiến hành định tội danh theo điều luật
mới không chứa đựng các dấu hiệu tội phạm của tội nặng hơn và không khác
một cách cơ bản theo các tình tiết thực tế với sự buộc tội theo đó bị cáo bị

18



truy tố trước Tòa án và sự thay đổi buộc tội đó không làm xấu đi tình trạng
của bị cáo, không vi phạm quyền bào chữa của họ.
Tất cả trường hợp nói trên và các trường hợp tương tự có thể nêu ra
đều nhằm lưu ý rằng việc định tội danh cần phải phù hợp hoàn toàn với các
tình tiết, sự kiện đã được xác định, được làm rõ trong quá trình điều tra và giải
quyết các vụ án hình sự của Tòa án. Cần lưu ý rằng tính hiện thực của sự tồn
tại các tình tiết thực tế không phụ thuộc vào ý thức của chúng ta. Tất cả các
tình tiết phản ánh những thay đổi hiện thực đang diễn ra trong thế giới khách
quan mang tính chất không thể đảo ngược. Pháp luật tố tụng hình sự quy định
rằng cần phải trả vụ án để điều tra bổ sung trong trường hợp đưa ra sự buộc
tội nặng hơn hoặc một sự buộc tội khác một cách cơ bản theo các tình tiết
thực tế với sự buộc tội được đưa ra ban đầu.
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH THUỘC MẶT CHỦ QUAN
CỦA TỘI PHẠM

1.2.1. Khái niệm dấu hiêụ đinḥ tôịthuôcc̣ mặt chủ quan của tội phạm

Với ý nghĩa là một mặt của hiện tượng thống nhất, mặt chủ quan của
tội phạm không tồn tại độc lập mà luôn luôn gắn với mặt khách quan của tội
phạm. Nếu mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới
khách quan thì mặt chủ quan có thể được hiểu là hoạt động tâm lý bên trong
của người phạm tội. TSKH Lê Cảm đã đưa ra một định nghĩa khoa học về
khái niệm mặt chủ quan của tội phạm:
Là đặc điểm tâm lý bên trong của cách cư xử có tính chất
tội phạm xâm hại đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình
sự, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức
cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực

hiện và đối với hậu quả của hành vi đó (lỗi) [9, tr. 376].

19


Nếu những dấu hiệu ở mặt khách quan không liên quan đến những dấu
hiệu ở mặt chủ quan thì không cấu thành tội phạm. Luật hình sự Việt Nam
không quy tội khách quan tức là chỉ dựa vào hành vi phạm tội mà không xem
xét đến thái độ của chủ thể thực hiện hành vi. Ngược lại, luật cũng không quy
tội chủ quan, mà luật hình sự chỉ xem xét trách nhiệm hình sự khi hành vi
khách quan có quan hệ logic với những dấu hiệu chủ quan của chủ thể thực
hiện hành vi.
Các nội dung thuộc mặt chủ quan của tội phạm có ý nghĩa và vị trí
không giống nhau trong các cấu thành tội phạm. Lỗi là dấu hiệu chủ quan bắt
buộc của tất cả các cấu thành tội phạm (dấu hiệu định tội), còn động cơ phạm
tội và mục đích phạm tội là dấu hiệu định tội của một số cấu thành tội phạm.
Trong một số trường hợp khác, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội được
luật hình sự quy định là dấu hiệu định khung hình phạt (dấu hiệu của cấu
thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ) hoặc là tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Lỗi là dấu hiệu cơ bản nhất của mặt chủ quan của tội phạm. Động cơ,
mục đích được coi là những dấu hiệu của tội phạm. Đúng như TSKH Lê Cảm
đã nói:
Động cơ và mục đích không phải là các dấu hiệu được xếp
ngang hàng với lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm, vì tự bản thân
mình lỗi là toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm, còn động cơ và mục
đích suy cho cùng, chẳng qua cũng chỉ là các dấu hiệu tùy nghi thuộc
mặt chủ quan của tội phạm - các yếu tố của lỗi mà thôi [9, tr. 378].

1.2.2. Phân loại dấu hiệu định tội thuộc mặt chủ quan của tội

phạm a. Dấu hiêụ lỗi
Có quan điểm cho rằng lỗi là thành phần cơ bản của mặt chủ quan.
Trong mặt chủ quan, ngoài lỗi ra còn có động cơ, mục đích phạm tội, các yếu
tố xúc cảm v.v... [66, tr. 193]. Nhưng cũng có quan điểm khác cho rằng lỗi là

20


thái độ tâm lý. Thái độ tâm lý của con người là một thể thống nhất không tách
rời giữa nhận thức, động cơ, mục đích, ý chí và các yếu tố tâm lý khác. Hơn
nữa, ngoài cố ý và vô ý, động cơ, mục đích có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng
trong định tội cũng như trong quyết định hình phạt. Vì vậy, lỗi chính là mặt
chủ quan của tội phạm. Nói một người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
tức là nói đến toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm mà không tách rời nó với
động cơ, mục đích phạm tội [66, tr. 193].
Theo quan điểm thống nhất trong luật hình sự thì "lỗi là thái độ tâm lý
của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu
quả do hành vi đó gây ra". Khái niệm lỗi trong luật hình sự biểu hiện rõ nét ý
thức vô trách nhiệm của người phạm tội đối với các quan hệ xã hội. Nội dung
cơ bản của lỗi không phải chỉ có mối quan hệ tâm lý giữa người phạm tội và
hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà còn là mối quan hệ giữa tội phạm đối với
xã hội và các yêu cầu khác của xã hội. Hay nói một cách khác là người phạm
tội đã quyết định với ý thức chủ quan của mình chứ không phải do bất kỳ một
tác động bên ngoài nào. Những mối quan hệ này luôn luôn tồn tại dưới dạng
của một mối quan hệ tâm lý nhất định là giữa người phạm tội và hành vi phạm
pháp. Khoa học luật hình sự đã chứng minh lỗi là mối quan hệ qua lại giữa
người phạm tội với xã hội và trật tự xã hội. Mặt khác, theo quan điểm của
Mác xít thì lỗi trong luật hình sự phải là lỗi của hình sự cá nhân. Chỉ có thể
hiểu như vậy thì mới có đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng
chính sách hình sự đúng đắn.

Hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm khi nó được thực hiện
trong những trạng thái tâm lý nhất định, nó thể hiện mối quan hệ tinh thần
giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi nguy hiểm đó gây ra. Khi tiến
hành thực hiện một tội phạm cụ thể nào đó, con người có thể thấy được hậu
quả thiệt hại sẽ xảy ra nhưng trong một số trường hợp con người cũng không
lường trước được hậu quả thiệt hại sẽ xảy ra như thế nào. Vì vậy, một người
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự, khi người đó gây ra một hành vi

21


×