Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Kinh nghiệm của các nước ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ trên biển thông qua cơ chế tài phán quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.03 KB, 109 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

MAI HNH TRANG

KINH NGHIệM CủA CáC NƯớC ASEAN TRONG việc
GIảI QUYếT TRANH CHấP BIÊN GiớI, LãNH THổ
TRÊN BIểN THÔNG QUA CƠ CHế TàI PHáN quốc tế

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

MAI HNH TRANG

KINH NGHIệM CủA CáC NƯớC ASEAN TRONG việc
GIảI QUYếT TRANH CHấP BIÊN GiớI, LãNH THổ
TRÊN BIểN THÔNG QUA CƠ CHế TàI PHáN quốc tế
Chuyờn ngnh: Lut quc t
Mó s: 60 38 01 08

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS NGUYN B DIN

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Mai Hạnh Trang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP BIÊN
GIỚI - LÃNH THỔ TRÊN BIỂN....................................................................... 6
1.1.

Khái quát về chủ quyền quốc gia trên biển......................................6

1.1.1. Khái niệm chủ quyền quốc gia............................................................. 6

1.1.2. Chủ quyền trên biển của quốc gia........................................................ 7
1.2.

Khái quát tranh chấp chủ quyền biên giới - lãnh thổ trên biển...11

1.2.1. Khái niệm tranh chấp quốc tế.............................................................11
1.2.2. Tranh chấp chủ quyền biên giới - lãnh thổ trên biển..........................12
1.3.

Phân loại tranh chấp chủ quyền biên giới - lãnh thổ trên biển....14

1.3.1. Tranh chấp vùng biển chồng lấn.........................................................14
1.3.2. Tranh chấp vùng nước lịch sử............................................................ 16
1.3.3. Tranh chấp đảo, quần đảo...................................................................18
1.4.

Giải quyết tranh chấp biên giới - lãnh thổ trên biển
thông qua cơ chế tài phán quốc tế.................................................. 19

1.4.1. Tòa trọng tài quốc tế Lahaye (PCA)...................................................19
1.4.2. Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS)................................................ 26
1.4.3. Tòa trọng tài về Luật biển theo phụ lục VII.......................................29
1.4.4. ICJ (ICJ)............................................................................................. 32


Chƣơng 2: MỘT SỐ VỤ TRANH CHẤP VỀ BIÊN GIỚI-LÃNH
THỔ TRÊN BIỂN CỦA CÁC NƢỚC ASEAN ĐƢỢC GIẢI
QUYẾT THÔNG QUA CƠ CHẾ TÀI PHÁN QUỐC TẾ
2.1.


37

Vụ tranh chấp giữa Malaisia và Indonesia về chủ quyền
đối với đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan................................. 37

2.1.1. Nội dung vụ việc.................................................................................37
2.1.2. Phán quyết của Tòa án........................................................................41
2.2.

Vụ tranh chấp giữa Malaisia và Singapore về chủ quyền đối
với đảo Đá trắng, các đá “South Ledge” và “Middle Rocks”......51

2.2.1. Nội dung vụ việc.................................................................................51
2.2.2. Phán quyết của Tòa án........................................................................54
2.3.

Tranh chấp giữa Bangladesh và Myanmar về phân định
biên giới hàng hải trên vịnh Bengal................................................65

2.3.1. Nội dung vụ việc.................................................................................65
2.3.2. Phán quyết của Tòa án........................................................................67
Chƣơng 3: VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC ASEAN
CHO VIỆT NAM TRONG VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP BIÊN GIỚI -LÃNH THỔ TRÊN BIỂN HIỆN NAY........68
3.1.

Kinh nghiệm rút ra từ phán quyết của Tòa án đối với các
vụ tranh chấp chủ quyền trên biển của các nƣớc ASEAN...........68

3.1.1. Từ vụ tranh chấp giữa Malaisia và Indonesia về chủ quyền

Pulau Ligitan và Pulau Sipadan......................................................... 68
3.1.2. Từ vụ tranh chấp giữa Malaisia và Singapore về chủ quyền đối
với đảo Đá Trắng, các đá “South Ledge” và “Middle Rocks”...........69
3.1.3. Từ vụ tranh chấp giữa Bangladesh và Myanmar về phân
định hàng hải trên vịnh Benagal.........................................................70
3.1.4. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong đấu tranh
bảo vệ chủ quyền biên giới, lãnh thổ trên biển của Việt Nam...........71


3.2.

Kinh nghiệm về kiềm chế tranh chấp và lựa chọn hƣớng
giải quyết tranh chấp.......................................................................76

3.2.1. Kiềm chế và quản lý tranh chấp..........................................................76
3.2.2. Đưa tranh chấp ra bên thứ ba..............................................................77
3.2.3. Lựa chọn cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp..........................79
3.3.

Kinh nghiệm về việc chuẩn bị đƣa tranh chấp ra cơ quan
tài phán quốc tế................................................................................ 83

3.3.1. Lựa chọn nội dung khởi kiện..............................................................83
3.3.2. Lựa chọn luật áp dụng giải quyết........................................................90
3.3.3. Xây dựng hệ thống tư liệu.................................................................. 90
3.3.4. Chuẩn bị nhân sự................................................................................ 92
3.3.5. Nghiên cứu phán quyết của các cơ quan tài phán.............................. 94
3.3.6. Tranh thủ sự ủng hộ của dư luận.........................................................95
KẾT LUẬN....................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................99



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN

Association of Sou

COC

Code of Conduct

DOC

Declaration on Con

in the South China

ICJ

International Cour

ITLOS

International Tribuna

PCA

UNCLOS


Presentation de la
d‟Arbitrage

United Nations Co
of the Sea


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Biển cả có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển kinh tế,
quốc phòng, an ninh. Tiềm năng của biển về giao thông vận tải, về du lịch và
về tài nguyên thiên nhiên đem lại những lợi ích kinh tế rất lớn và tầm quan
trọng đặc biệt của biển trong lĩnh vực an ninh quốc phòng là động lực thúc
đẩy các quốc gia mở rộng chủ quyền của mình ra biển. Nhận thức được rõ về
tầm quan trọng của biển, các quốc gia trên thế giới đã và đang xây dựng chiến
lược tiến ra biển, làm chủ biển một cách bài bản, khoa học và toàn diện. Tuy
nhiên, việc rất nhiều quốc gia trên thế giới đều muốn mở rộng chủ quyền của
mình ra biển sẽ dễ dẫn đến mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các quốc gia. Hơn
nữa, việc các quốc gia đều cố gắng mở rộng yêu sách chủ quyền, quyền chủ
quyền, đẩy mạnh khả năng và phạm vi khai thác tài nguyên của quốc gia mình
ra biển càng làm cho các mâu thuẫn, tranh chấp trở nên gay gắt.
Tình hình tranh chấp trên biển giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay
diễn biến ngày càng căng thẳng và phức tạp. Từ nhiều năm nay, nhất là những
năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay trên Biển Đông đang tồn tại
những tranh chấp biển đảo rất quyết liệt và phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố
mất ổn định, tác động đến quốc phòng và an ninh nước ta. Trên Biển Đông

vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển 7 nước trong khu vực là: Trung
Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan (Tây Nam), Philippin, Malaysia,
Indonesia, Brunây (phía Đông, Đông Nam và Nam). Nơi đây đang diễn ra
những tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia, đẩy
tới xu hướng tăng cường lực lượng quân sự, đặc biệt là hải quân của các nước
trong khu vực, nhất là những nước có tiềm lực lớn về kinh tế, quân sự. Những
tranh chấp trên Biển Đông đã và đang trở thành vấn đề được không chỉ khu

1


vực mà cả thế giới đều quan tâm. Rất nhiều hội thảo quốc tế về Biển Đông đã
được tổ chức thu hút sự quan tâm của dư luận. Bên cạnh đó, các nước ASEAN
cũng không ngừng nỗ lực trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Nỗ
lực nổi bật gần đây giữa các bên tranh chấp là việc Philippin kiện Trung Quốc
ra Tòa án Trọng tài được thành lập và hoạt động dựa trên các quy định trong
Phụ lục VII của UNCLOS vào ngày 22/10/2013. Trước đó, một số nước
ASEAN cũng đã đưa những tranh chấp về chủ quyền trên biển của họ ra giải
quyết ở ICJ. Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Philippin cũng như một quốc
gia khác trong khu vực như Singapore, Malaisia, Indonesia sẽ là kinh nghiệm
quý báu cho các quốc gia khác trong đó có Việt Nam trong giải quyết tranh
chấp với Trung Quốc. Theo đó, Việt Nam có thể học hỏi từ vụ khởi kiện của
Philippin cũng như một số phán quyết của ICJ về giải quyết tranh chấp chủ
quyền trên biển giữa một số quốc gia trong khu vực từ đó rút ra những kinh
nghiệm cho riêng mình trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông thông
qua cơ chế tài phán quốc tế.
Vấn đề giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ trên biển Đông trước
đây đã được đề cập trong một số bài viết nghiên cứu dưới các góc độ khác
nhau như: Áp dụng các nguyên tắc về thụ đắc lãnh thổ trong Luật quốc tế giải
quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông (PGS.TS Nguyễn Bá Diến), Pháp

luật quốc tế với việc vạch biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam với các
quốc gia láng giềng (Ths Huỳnh Minh Chính), Khai thác chung Biển Đông và
những nguyên tắc công bằng (Dương Danh Huy), Quy chế pháp lý quốc tế
giải quyết tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, Lý luận và thực tiễn (TS.Đinh
Xuân Thảo), Tòa trọng tài thường trực La Haye và vấn đề giải quyết tranh
chấp chủ quyền trên Biển Đông của Việt Nam (Bành Quốc Tuấn). Bên cạnh
đó, cũng có rất nhiều luận văn, luận án tiến sĩ, các công trình nghiên cứu khoa
học đã nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên,

2


những công trình nghiên cứu khoa học kể trên còn thiên về lý luận. Còn
những bài viết liên quan đến thực tiễn pháp lý, về kinh nghiệm giải quyết
tranh chấp trên biển của các nước trên thế giới cũng như các nước trong khu
vực ASEAN thì chưa thực sự đa dạng và đồng bộ. Trước tình hình diễn biến
trên Biển Đông đang leo thang căng thẳng, đặc biệt là sự hung hăng của Trung
Quốc cùng các hoạt động xây dựng với quy mô lớn làm thay đổi nguyên trạng
các đảo đá trên Biển Đông đang gây ra sự quan ngại không chỉ đối với Việt
Nam mà còn các nước trong khu vực và trên thế giới thì việc giải quyết tranh
chấp và đảm bảo an ninh trên Biển Đông đang là mối quan tâm hàng đầu của
Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu sâu về kinh
nghiệm giải quyết tranh chấp trên biển của các nước ASEAN cũng như các cơ
chế giải quyết tranh chấp quốc tế, đặc biệt là tranh chấp trên biển là một vấn
đề cấp bách và cần được lưu tâm. Chính vì những lý do đó, học viên xin chọn
đề tài luận văn với nội dung “Kinh nghiệm của các nước
ASEAN trong việc giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ trên biển thông
qua cơ chế tài phán quốc tế”.
2.


Mục tiêu nghiên cứu

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu về việc
giải quyết những tranh chấp quốc tế trên biển thông qua con đường tài phán
quốc tế cũng như các cơ quan tài phán quốc tế có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp trên biển. Đề tài là về kinh nghiệm của các nước ASEAN trong việc giải
quyết tranh chấp trên biển vì vậy học viên sẽ tìm hiểu một số phán quyết của
ICJ (ICJ), ITLOS quốc tế (ITLOS) giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển
của một số nước ASEAN. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam trong việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng con đường tài
phán, cụ thể như lựa chọn cơ quan tài phán, chuẩn bị hồ sơ pháp lý, lựa chọn
nội dung khởi kiện… đồng thời phân tích những thuận lợi và cả những bất lợi
của Việt Nam khi đưa những tranh chấp ra cơ quan tài phán quốc tế.
3


3.

Tính mới và những đóng góp của luận văn

Xuất phát từ thực tiễn giải quyết tranh chấp biên giới-lãnh thổ trên biển,
nội dung của luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu từ những kinh nghiệm thực tế trong
vấn đề giải quyết tranh chấp trên biển của các nước ASEAN đồng thời góp
phần đề xuất giải pháp cho Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp trên
Biển Đông bằng con đường tài phán. Phân tích một số khó khăn Việt Nam gặp
phải nếu lựa chọn con đường tài phán để giải quyết các tranh chấp đồng thời
có thể gợi ý hướng đi trong tương lai.
4.

Phạm vi nghiên cứu


Đề tài tập trung nghiên cứu về khái niệm tranh chấp quốc tế, tranh chấp
quốc tế trên biển và phân loại; cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp trên
biển trong đó có quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; thực
tiễn giải quyết tranh chấp trên biển của các nước ASEAN thông qua con
đường tài phán, và các cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp quốc tế trên biển.
Do giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào
những vấn đề cơ bản nhất đó là những khái niệm cơ bản về chủ quyền quốc
gia trên biển, tranh chấp quốc tế trên biển và cơ sở để giải quyết các tranh
chấp quốc tế trên biển; thực tiễn giải quyết tranh chấp trên biển của một số
nước ASEAN. Từ đó đề xuất những giải pháp cho Việt Nam trong việc giải
quyết các tranh chấp trên biển hiện nay.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Cơ sở phương pháp luận của đề tài được nghiên cứu là chủ nghĩa MácLenin, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, những
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chủ quyền biên giới-lãnh thổ trên biển.

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, học viên còn sử dụng những
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp thực tiễn.
4


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương với nội dung như sau.
Chương 1: Tổng quan lý luận về tranh chấp biên giới-lãnh thổ trên biển

Chương 2: Một số tranh chấp về biên giới-lãnh thổ trên biển của các
nước ASEAN được giải quyết thông qua cơ chế tài phán.
Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm của các nước ASEAN cho Việt Nam
trong vấn đề giải quyết tranh chấp biên giới-lãnh thổ trên biển hiện nay

5


Chương 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP
BIÊN GIỚI - LÃNH THỔ TRÊN BIỂN
1.1. Khái quát về chủ quyền quốc gia trên biển
1.1.1. Khái niệm chủ quyền quốc gia
Quốc gia là chủ thể chủ yếu của luật quốc tế và là một chủ thể đặc biệt.
Bởi khác với các chủ thể khác, quốc gia là chủ thể có thuộc tính chính trị,
pháp lý đặc thù là chủ quyền. Từ trước đến nay tồn tại nhiều học thuyết khác
nhau về chủ quyền quốc gia đặc biệt là Thuyết chủ quyền tuyệt đối xuất hiện
vào khoảng thế kỷ XV-XVI.
Nội dung của thuyết chủ quyền tuyệt đối là chủ quyền quốc gia phải
được đặt lên trên tất cả mọi quyền lợi khác. Về phương diện đối nội, chủ
quyền quốc gia chỉ bị giới hạn bởi pháp luật thiên nhiên. Về phương diện đối
ngoại, chủ quyền quốc gia chỉ bị hạn chế bởi hoàn cảnh, không có quyền lực
nào ở trên chủ quyền quốc gia.
Tuy nhiên ngày nay học thuyết chủ quyền tuyệt đối được cho là không
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Việc áp dụng thuyết chủ
quyền tuyệt đối dẫn đến hệ quả các quốc gia không bắt buộc phải tôn trọng và
thực thi luật quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản, quy phạm của luật quốc tế không
có tính cưỡng chế mà chỉ mang tính chất ngoại giao. Vì vậy thuyết chủ quyền
tuyệt đối không được nhiều quốc gia ủng hộ bởi nó đi ngược lại với lợi ích và
sự phát triển của cộng đồng quốc tế.

Trong luật quốc tế hiện đại, chủ quyền quốc gia được hiểu là quyền tối
cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc
gia trong quan hệ quốc tế. Quan điểm đồng nhất hai khái niệm chủ quyền và
độc lập được trọng tài Max Huber ghi nhận và khẳng định trong phán quyết

6


nổi tiếng về Đảo Palmas: “Trong quan hệ giữa các quốc gia, chủ quyền quốc
gia đồng nghĩa với độc lập”. Điều này có nghĩa rằng các quốc gia có quyền tự
chủ, không lệ thuộc vào các quốc gia khác thông qua hai nội dung chủ yếu là
đối nội và đối ngoại. Về mặt đối nội, quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi
lãnh thổ của mình, thể hiện chủ yếu thông qua việc thực hiện thẩm quyền
mang tính hoàn toàn, tuyệt đối và riêng biệt trên hai phương diện quyền lực
và vật chất:
-

Về phương diện quyền lực, quốc gia có quyền bất khả xâm phạm về

lãnh thổ; quyết định đường lối phát triển đất nước; thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp thông qua hệ thống cơ quan Nhà nước từ trung ương đến
địa phương; thực hiện thẩm quyền đối với các cá nhân và tổ chức đang hoạt
động trên lãnh thổ quốc gia.
-

Về phương diện vật chất, quốc gia có quyền khai thác, sử dụng, bảo

vệ nguồn tài nguyên nằm phía trong biên giới quốc gia, bao gồm tài nguyên
vùng lòng đất, tài nguyên đất, nước, không khí…Quốc gia thực hiện quyền
lực của mình một cách đầy đủ, trọn vẹn, trên cơ sở tôn trọng lợi ích cộng

đồng dân sư sinh sống trên vùng lãnh thổ đó đồng thời phù hợp với các quyền
dân tộc cơ bản.
Về mặt đối ngoại, các quốc gia có quyền thiết lập hay tham gia các
quan hệ pháp luật quốc tế cụ thể, thực hiện mọi quyền hạn phù hợp với những
nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế. Quốc gia hoàn toàn độc lập, không lệ
thuộc vào bất kỳ chủ thể nào trong việc tham gia vào một quan hệ pháp luật
quốc tế cụ thể. Việc ký kết các điều ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao,
lãnh sự hay gia nhập các tổ chức quốc tế… là những biểu hiện điển hình của
việc thực hiện chủ quyền đối ngoại của quốc gia [18].
1.1.2. Chủ quyền trên biển của quốc gia
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã quy định rõ về

7


vùng biển tiếp giáp lãnh thổ quốc gia ven biển gồm: vùng nội thủy; vùng lãnh
hải; vùng tiếp giáp lãnh hải; vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Quốc gia
ven biển có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng
biển trên [15], cụ thể:
Vùng nội thủy: Điều 8 khoản 1 UNCLOS quy định: “Nội thủy là các
vùng nước phía trong của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.
Luật Biển Việt Nam quy định: “Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn
toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên đất liền” [28, Điều 9].
Nội thủy là một bộ phận lãnh thổ gắn bó mật thiết với phần lục địa của
quốc gia ven biển, các vùng nước nội thủy được coi như lãnh thổ đất liền, tại
đó quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ. Chủ
quyền này bao gồm cả vùng trời phía trên, vùng đáy biển và vùng lòng đất
dưới đáy biển của vùng nước nội thủy. Đặc trưng cho tính chất quyền chủ
quyền hoàn toàn và tuyệt đối này là mọi sự ra vào nội thủy của tàu thuyền
cũng như phương tiện bay nước ngoài trên vùng trời nôi thủy đều phải xin

phép. Thời gian xin phép đối với từng loại tàu do pháp luật của từng quốc gia
quy định. Khi hoạt động trong nội thủy nếu tàu thuyền nước ngoài có sự vi
phạm, quốc gia ven biển có quyền thực hiện quyền tài phán dân sự. Đối với
tàu thuyền được hưởng quyền miễn trừ như tàu thuyền nhà nước dùng vào
mục đích phi thương mại và tàu thuyền quân sự nước ngoài khi có vi phạm,
quốc gia ven biển có quyền buộc tàu thuyền đó rời khỏi vùng nội thủy của
mình và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quốc gia mà tàu mang cờ trừng trị
các vi phạm đó. Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm mọi thiệt hại do
hành vi phạm pháp của tàu thuyền đó gây ra.
Vùng lãnh hải: mỗi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải
của mình, chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở. Ranh
giới ngoài của lãnh hải là đường chạy song song với đường cơ sở và cách đều

8


đường cơ sở một khoảng cách tối đa là 12 hải lý. Ranh giới ngoài của lãnh hải
được coi là đường biên giới quốc gia trên biển. Chủ quyền lãnh hải không
phải là tuyệt đối như trên các vùng nước nội thủy. Luật Biển Việt Nam quy
định “Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và
vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công
ước của LHQ về Luật biển 1982” [28, Điều 12]. Điều 17 UNCLOS cũng quy
định quyền đi qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài ở lãnh hải.
Tuy nhiên pháp luật quốc gia ven biển quy định quyền qua lại không gây hại
của tàu thuyền với những điều kiện cụ thể và phải tuân thủ pháp luật của quốc
gia ven biển… Cần luu ý là quyền đi qua không gây hại không áp dụng đối
với vùng trời trên lãnh hải. Phương tiện bay nước ngoài muốn bay qua vùng
trời trên lãnh hải của một nước ven biển phải xin phép nước ven biển đó.
Quốc gia ven biển có quyền thực hiện quyền tài phán của mình đối với một vụ
vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu khi nó đi qua lãnh hải và hậu quả của nó

mở rộng đến quốc gia ven biển; vụ vi phạm đó có tính chất phá hoại hòa bình,
an ninh trật tự của quốc gia ven biển; thuyền trưởng hay viên chức lãnh đạo
của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu. Bên cạnh đó, Công ước cũng quy định
quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi biện pháp trừng phạt hoặc đảm bảo
về mặt dân sự mà luật nước mình quy định đối với tàu đi qua lãnh hải sau khi
rời khỏi nội thủy của quốc gia đó.
Vùng tiếp giáp lãnh hải: là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp giáp
với lãnh hải, phạm vi của vùng tiếp giáp không vượt quá 24 hải lý tính từ
đường cơ sở. Trong vùng tiếp giáp lãnh hải quốc gia ven biển thực hiện các
thẩm quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài.
Vùng đặc quyền kinh tế: là vùng biển nằm ở phía ngoài vùng tiếp giáp
lãnh hải, đặt dưới một chế độ pháp lý riêng, theo đó các quyền chủ quyền và
quyền tài phán của quốc gia ven biển cũng như các quyền và các quyền tự do

9


của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều
chỉnh. Quốc gia thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng
tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế theo quy định của UNCLOS và
quy định của pháp luật quốc gia ven biển. Chế độ pháp lý đối với vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế thực hiện theo quy định pháp luật của
từng quốc gia. Đối với Việt Nam, chế độ pháp lý đối với vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế thực hiện theo điều 14, 16 luật biển Việt Nam.
Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự
nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa,
hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ
ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó có khoảng cách gần hơn. Trong trường
hợp khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên

vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở; quốc gia ven biển này
có thể xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng
cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng
sâu 2.500 m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý, phù hợp với các quy
định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa trong Công ước
và phù hợp với các kiến nghị của Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa được thành
lập trên cơ sở Phụ lục II của Công ước. Quốc gia thực hiện các quyền thuộc
chủ quyền của mình về thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên, đây là
những quyền có tính chất đặc quyền của quốc gia, được quy định tại điều 79Công ước luật biển và điều 18-luật biển Việt Nam.
Đối với quốc gia quần đảo, lãnh hải nằm ngoài và tiếp liền với lãnh thổ
và vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo đó. Đối với các đảo riêng biệt,
đáp ứng đúng định nghĩa đảo nêu trong pháp luật quốc tế (Điều 121,
UNCLOS về Luật biển 1982) thuộc về một quốc gia ven biển, nhưng nằm

10


ngoài lãnh hải chung của quốc gia đó, thì lãnh hải của từng đảo này cũng
được xác định như trên. Đa số các quốc gia trên thế giới quy định chiều rộng
lãnh hải từ 3-12 hải lý. UNCLOS 1982 quy định chiều rộng lãnh hải của quốc
gia ven biển không quá 12 hải lý, kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng
công ước. Chế độ pháp lý đối với các đảo, quần đảo được quy định tương tự
trong công ước luật biển và pháp luật quốc gia.
1.2. Khái quát tranh chấp chủ quyền biên giới - lãnh thổ trên biển
1.2.1. Khái niệm tranh chấp quốc tế
Trong quá trình cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh cùng phát triển giữa
các quốc gia, việc tranh chấp phát sinh và tồn tại giữa các quốc gia là điều tất
yếu. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi các mối quan hệ hợp tác giữa các quốc
gia ngày càng trở nên phổ biến, sâu sắc thì nguy cơ phát sinh tranh chấp ngày
càng trở nên thường trực. Mặc dù trên thực tế, các tranh chấp quốc đã và đang

tiếp tục xuất hiện và các chủ thể luật quốc tế nhận thức được tác động tiêu cực
của tranh chấp quốc tế đến quan hệ quốc tế nhưng cho đến này vẫn còn nhiều
quan điểm, định nghĩa khác nhau về tranh chấp quốc tế và chưa có một định
nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp lý về tranh chấp quốc tế. Theo Pháp
viện thường trực quốc tế-cơ quan giải quyết tranh chấp của Hội quốc liên (tiền
thân của Liên hợp quốc), tranh chấp là sự bất đồng về một quy phạm pháp
luật hoặc sự kiện nào đó giữa các chủ thể nhất định (trong trường hợp này là
giữa các quốc gia) khi một trong các bên đưa ra yêu sách, đòi hỏi đối với bên
kia nhưng bên đó không chấp nhận hoặc chỉ chấp nhận một phần. Hiến
chương Liên hợp quốc, điều 34, 35 đã đề cập đến “tình thế” tức là khả năng
dẫn đến tranh chấp. Quan điểm về tranh chấp nói trên đã có sự phân biệt về
“tình thế” đối với quan điểm trước đây của Pháp viện thường trực, là tình
trạng căng thẳng phát sinh khi có sự va chạm về quyền lợi các bên, không gắn
liền với các yêu sách rõ ràng giữa họ với nhau.

11


Căn cứ vào thực tiễn quốc tế, tranh chấp quốc tế có thể được hiểu là
một trạng thái hay tình huống quốc tế mà trong đó các chủ thể tham gia có sự
bất đồng, mâu thuẫn với nhau về quan điểm, có những đòi hỏi quyền lợi trái
ngược nhau. Điều này có nghĩa tranh chấp chỉ xảy ra khi các chủ thể tham gia
vào quan hệ pháp luật có những xung đột về mặt lợi ích. Xung đột có thể bắt
nguồn từ việc giải thích, thực hiện pháp luật quốc tế hoặc nghĩa vụ pháp lý
quốc tế và các chủ thể đã cam kết, hoặc từ việc quốc gia thực hiện quyền chủ
quyền của mình nhưng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền và lợi
ích của các chủ thể khác của luật quốc tế. Ngoài ra, tranh chấp quốc tế còn
được khái quát là sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ pháp lý quốc tế hoặc về quan điểm pháp lý trong việc giải thích, thực hiện
các quy định của pháp luật quốc tế. Tính chất quốc tế của tranh chấp được thể

hiện ở các bên tham gia tranh chấp chính là chủ thể của luật quốc tế, bao gồm
các quốc gia (chủ thể chủ yếu của luật quốc tế), các dân tộc đang đấu tranh
nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, các tổ chức quốc tế liên chính phủ
(ASEAN, EU, WTO…) và các chủ thể đặc biệt khác. Việc giải quyết tranh
chấp phải được dựa trên cơ sở điều ước quốc tế, tập quán quốc tế đã được
thừa nhận và áp dụng để giải quyết tranh chấp quốc tế theo quy định tại khoản
1, điều 38 Quy chế ICJ.
Căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau mà có thể phân loại tranh chấp
quốc tế. Nếu căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia thì bao gồm tranh chấp
song phương và tranh chấp đa phương. Nếu căn cứ vào tính chất của vụ tranh
chấp thì gồm tranh chấp mang tính chính trị và tranh chấp có tính pháp lý.
Nếu căn cứ vào đối tượng tranh chấp thì gồm tranh chấp về kinh tế, tranh
chấp về lợi ích.
1.2.2. Tranh chấp chủ quyền biên giới - lãnh thổ trên biển
Xuất phát từ những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị, an ninh quốc

12


phòng mà biển và đại dương đã, đang và sẽ mang lại cho các quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là các quốc gia có biển. Chính vì vậy, từ trước đến nay trên thế
giới đã xảy ra rất nhiều tranh chấp giữa các quốc gia đối với các vùng biển
thuộc chủ quyền (nội thủy, lãnh hải) và quyền chủ quyền quốc gia (tiếp giáp
lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa). Các tranh chấp về biển từ trước
đến nay là một trong những loại tranh chấp quốc tế có nguy cơ làm bùng nổ
chiến tranh, xung đột giữa các quốc gia, có nguy cơ đe dọa hòa bình và an
ninh quốc tế. Có thể kể đến một số tranh chấp trên biển hiện nay đang tạo nên
xung đột, căng thẳng về chính trị giữa các quốc gia hiện nay như tranh chấp
giữa Trung Quốc và Nhật Bản đối với chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu
Ngư, tranh chấp giữa Nhật Bản và Hàn Quốc xung quanh quần đảo

Docdo/Takeshima, hoặc trong khu vực là tranh chấp giữa Việt Nam với các
quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Malaisia, Philippin, Bruneil và vùng
lãnh thổ Đài Loan liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền trên Biển Đông
nói chung và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng.
Về phương diện pháp luật quốc tế từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX,
các quốc gia đã nỗ lực xây dựng một “Bộ luật” quốc tế về biển trong đó có
các biện pháp giải quyết các tranh chấp biển. Cụ thể, tại Hội nghị quốc tế về
biển lần thứ nhất họp tại Jeneve năm 1958, cộng đồng quốc đã đề ra giải pháp
giải quyết có tính chất bắt buộc những tranh chấp về đánh cá ở biển quốc tế.
Thế nhưng trên thực tế, các quy tắc giải quyết tranh chấp này không được áp
dụng trên thực tế. Ngoài ra, cộng đồng quốc tế cũng dự thảo một nghị định
thư trao cho Tòa án quốc tế quyền giải quyết những tranh chấp thuộc nội dung
của các Công ước về biển khác nhưng do không đạt được số lượng 2/3 số
phiếu tán thành, nên nghị định the này đã không được thông qua [15].
Khi Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển được kí kết và có hiệu
lực ngày 16/11/1994, với các nội dung cơ bản, toàn diện về các vấn đề liên

13


quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đối với
các vùng biển, hoạch định ranh giới vùng biển, bảo vệ môi trường biển,
nghiên cứu khoa học, các hoạt động kinh tế, thương mại, công nghệ…Công
ước năm 1982 cũng đã xây dựng khá hoàn chỉnh cơ chế giải quyết các tranh
chấp quốc tế về biển bằng các phương thức, thủ tục giải quyết tranh chấp rất
đa dạng, bao gồm các phương thức tự nguyện và bắt buộc bằng các biện pháp
chủ yếu như thương lượng ngoại giao (đàm phán), hòa giải, giải quyết bằng
Tòa án quốc tế về Luật biển, Tòa trọng tài hoặc Tòa trọng tài đặc biệt về Luật
biển hoặc ICJ theo sự lựa chọn của các bên tranh chấp.
Về phương diện lý luận, tranh chấp biên giới-lãnh thổ biển là những bất

đồng, xung đột giữa các chủ thể luật quốc tế trong quá trình xác lập và phân
định biên giới trên biển, xác định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của quốc gia đối với các vùng lãnh thổ trên biển theo quy định của Luật
biển quốc tế [37].
1.3. Phân loại tranh chấp chủ quyền biên giới - lãnh thổ trên biển
1.3.1. Tranh chấp vùng biển chồng lấn
Lợi ích mà biển đem lại cho loài người càng nhiều thì những yêu sách,
xung đột, tranh chấp liên quan đến biển ngày càng tăng. Việc Công ước Luật
biển năm 1982 ra đời, đặc biệt là các quy định về quy chế pháp lý của vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, phạm vi không gian địa lý của quốc gia ven
biển được mở rộng một cách đáng kể. Hệ quả của việc này là sự gia tăng của
các vùng biển chồng lấn giữa các quốc gia đối diện hoặc tiếp liền nhau đòi hỏi
các quốc gia có liên quan phải tìm biện pháp giải quyết. Theo ước tính, trên
thế giới có khoảng trên 400 khu vực biển chồng lấn mà các quốc gia hữu quan
cần phân định [11]. Hiện nay, tranh chấp liên quan đến việc phân định vùng
biển chồng lấn giữa các quốc gia đã và đang diễn ra ở nhiều vùng biển trên
thế giới. Những tranh chấp đều ít nhiều liên quan tới chủ quyền quốc

14


gia. Nếu biên giới biển chưa được xác định, các bên đưa ra yêu sách chủ
quyền với các đảo và vùng biển xung quanh, điều này sẽ tạo ra các vùng
chồng lấn và hệ quả tất yếu là sự xung đột, căng thẳng giữa các quốc gia. Trên
thế giới có hơn 200 tuyến biên giới trên biển chưa được xác định, trong đó
khu vực châu Á-Thái Bình Dương có tới 60 tuyến biên giới. Những khu vực
có vùng biển chồng lấn chưa phân định đường biên giới biển sẽ trở thành khu
vực xung đột và tranh chấp gây bất lợi cho an ninh trên biển.
Việc hoạch định đường biên giới phân chia các vùng biển chồng lấn của
hai hay nhiều quốc gia hữu quan trong luật quốc tế gọi là phân định biển. Việc

phân định biển khi các vùng biển của các nước láng giềng “đụng nhau”,
chồng lấn lên nhau, cho dù đó là lãnh hải hay vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa đều phải bảo đảm thực hiện nguyên tắc hợp tác hòa bình, không dùng
vũ lực, theo con đường đàm phán thỏa thuận với nhau đúng luật quốc tế để
đạt được giải pháp công bằng. Pháp luật quốc tế và thực tiễn giữa các quốc
gia cho thấy rằng việc phân định biển thường được tiến hành bằng con đường
thoả thuận. Sự thoả thuận giữa các bên liên quan này cũng chính là yếu tố
quyết định phương pháp và thẩm quyền phân định biển. Theo đó, các bên liên
quan có thể thoả thuận lựa chọn hình thức đàm phán để cùng phân định biển
hoặc lựa chọn một bên thứ ba như toà án hoặc trọng tài quốc tế đứng ra phân
định biển. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp vấn đề phân định biển trở
thành một tranh chấp quốc tế và việc giải quyết tranh chấp đó phải có sự tham
gia của một cơ quan tài phán quốc tế. Nhìn chung, phân định biển là quá trình
phức tạp vì nó liên quan đến nhiều vấn đề có tính nhạy cảm như chủ quyền và
lợi ích quốc gia. Sự thành công và khoảng thời gian yêu cầu cho quá trình
phân định biển dài hay ngắn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan như: địa hình biển, lập trường, thái độ và sự thiện chí của các quốc gia
liên quan, vị trí và giá trị của vùng biển phân định.

15


Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy các quốc gia thường thoả thuận áp
dụng các phương pháp phân định biển như sau:
-

Phương pháp đường trung tuyến cách đều: đây là phương pháp áp

dụng trong trường hợp các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
Theo phương pháp này, đường ranh giới để phân định biển chính là đường mà

tất cả các điểm nằm trên đường đó đều cách đều các điểm gần nhất của đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quốc gia.
Phương pháp đường trung tuyến cách đều thường được áp dụng để
phân định lãnh hải. Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp này, các quốc gia
phải xem xét một cách thích đáng đến những hoàn cảnh cụ thể để đạt được
mộ kết quả công bằng.
-

Phương pháp công bằng: theo phương pháp này, trong qúa trình phân

định biển các bên hữu quan cần phải xem xét, cân nhắc các yếu tố cụ thể như:
yếu tố hình dạng bờ biển, yếu tố đảo, yếu tố hàng hải... để từ đó tìm ra được
những giải pháp công bằng được các bên công nhận. Các giải pháp đó đương
nhiên mang tính đặc thù và thích ứng với từng trường hợp phân định cụ thể.
Hiện nay, Việt Nam cần xác định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa với Indonesia, Thái Lan, Malaysia; vì theo các quy định mới của
luật biển quốc tế thì vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục của nước ta và các
nước đó chồng lấn lên nhau [25].
1.3.2. Tranh chấp vùng nước lịch sử
Khái niệm và quy chế pháp lý của vùng nước lịch sử không được đề
cập trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là
UNCLOS); mà được xác định thông qua thông lệ và tập quán quốc tế. Theo
đó, vùng nước lịch sử là vùng nước có các yếu tố sau:
-

Là vùng biển có cấu tạo địa lý đặc biệt, ăn sâu vào đất liền hoặc là

một bộ phận gắn liền với lục địa;

16



-

Ở cách xa đường hàng hải quốc tế;

-

Có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về chiến lược, quốc phòng, an ninh,

kinh tế,… đối với quốc gia ven biển;
-

Về mặt lịch sử, quốc gia ven biển đã chiếm hữu, khai thác, sử dụng từ

lâu đời mà không có nước nào phản đối.
Chế độ pháp lý: vùng nước lịch sử là vùng nước có chế độ nội thủy.
Thực tiễn trên thế giới có rất nhiều nước dựa trên các điều kiện cụ thể
về địa lý, kinh tế, quốc phòng, an ninh và lịch sử… của vùng nước, vịnh để
xác định vùng nước lịch sử của quốc gia mình. Tuy nhiên, việc xác định vùng
nước lịch sử giữa các quốc gia không hề đơn giản bởi nhiều quốc gia có
đường bờ biển kế cận, chồng lấn. Điều này dẫn đến những xung đột, căng
thẳng giữa các quốc gia.
Trước khi ký kết Hiệp định vùng nước lịch sử vào ngày 07/07/1982,
[10]

Việt Nam và Campuchia cũng trải qua quá trình đàm phán căng thẳng để

có thể đi đến quyết định thống nhất. Việt Nam và Campuchia là hai nước láng
giềng có vùng biển kế cận nhau. Trong lịch sử, hai bên có vấn đề tranh chấp

chủ quyền đòi hỏi một số đảo ven bờ và chưa tiến hành đàm phán phân định
ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Giữa bờ biển Việt
Nam và Campuchia có trên 150 hòn đảo lớn và nhỏ, được chia thành bẩy cụm
và một số đảo lẻ. Ngoài một số đảo lớn như Phú Quốc có diện tích 573 km 2,
Phú Dự - 25 km2, Thổ Chu - 10 km2 và một số đảo như Hòn Dứa, Nam Du
trên dưới 5 km2, còn lại các đảo đều nhỏ có diện tích dưới 1 km 2. Năm 1982,
hai bên đã ký Hiệp định về vùng nước lịch sử, trong đó xác định rõ chủ quyền
đảo của mỗi bên theo một đường mà Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié
đề xuất năm 1939, thiết lập một vùng nước lịch sử chung hai bên cùng nhau
kiểm soát và quản lý; các hoạt động đánh bắt hải sản được thực hiện theo tập
quán như cũ; mọi hoạt động liên quan đến thăm dò dầu khí trong vùng nước

17


lịch sử phải có ý kiến nhất trí của bên kia mới được tiến hành. Ngoài ra, hai
bên còn phải tiếp tục đàm phán để xác định ranh giới biển trong vùng nước
lịch sử, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Năm 1983, hai bên
đã ký Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt Nam và
Campuchia, trong đó nêu rõ hai bên sẽ tiếp tục giải quyết vấn đề tồn tại trên
theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, vì lợi ích quan hệ hợp tác hữu
nghị giữa hai nước, phù hợp với pháp luật quốc tế và thực tiễn quốc tế.
1.3.3. Tranh chấp đảo, quần đảo
Tranh chấp chủ quyền đối với các đảo, quần đảo chiếm đa số trong các
tranh chấp trên biển. Biển đảo đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển
của mỗi quốc gia. Tiềm năng biển về giao thông vận tải, về du lịch và về tài
nguyên thiên nhiên đem lại những lợi ích kinh tế rất lớn và tầm quan trọng
đặc biệt của biển đảo trong lĩnh vực an ninh quốc phòng là động lực thúc đẩy
các quốc gia mở rộng chủ quyền của mình ra biển. Như vậy. các tranh chấp
biển đảo vốn đã phức tạp và căng thẳng thì việc các quốc gia đều cố gắng mở

rộng yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền, đẩy mạnh khả năng và phạm vi
khai thác tài nguyên của quốc gia mình ra biển càng làm cho các mâu thuẫn,
tranh chấp trở nên gay gắt hơn.
Tranh chấp chủ quyền biển đảo là một trong những vấn đề thời sự nóng
bỏng nhất của thế giới. Vấn đề tuy không mới, song được đẩy lên một mức
cao hơn, khiến tình hình tại một số vùng biển trở nên căng thẳng và phức tạp,
ảnh hưởng tới sự ổn định và an ninh của khu vực, phần nào tác động xấu tới
các mối quan hệ hợp tác kinh tế. Trong mấy năm qua, nổi lên ở khu vực châu
Á

là tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á về chủ quyền

đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó, quần đảo Hoàng Sa là
nơi tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc còn quần
đảo Trường Sa là nơi tranh chấp chủ quyền của sáu quốc gia và vùng

18


×