Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức áp dụng trong lĩnh vực y tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.22 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

SÁI THỊ THANH NGÂN

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC ÁP DỤNG
TRONG LĨNH VỰC Y TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

SÁI THỊ THANH NGÂN

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC ÁP DỤNG
TRONG LĨNH VỰC Y TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. Mai Văn Thắng



Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Sái Thị Thanh Ngân


MỤC LỤC

1.1.

1.1.1.
1.1.2
1.1.3
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.3.

1.3.1.
1.3.2.
1.4.

1.4.1.
1.4.2.

1.4.3.

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU...........................................................
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ
HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRO
NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY………………
Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật trong
ngành y,mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
tế…………………………………………………
Khái niệm và các thuộc tính của pháp luật trong
Khái niệm và đặc điểm của đạo đức và đạo đức
Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong lĩn
Những vấn đề lý luận cơ bản về cán bộ, công ch
Khái niệm cán bộ, công chức, viên chức………
Những đặc điểm đặc thù của cán bộ, công chức
Tiêu chí cơ bản để xây dựng đội ngũ cán bộ, cô
vực y tế…………………………………………
Vai trò của pháp luật và đạo đức đối với việc đi
bộ, công chức, viên chức lĩnh vực y tế…………

Vai trò của pháp luật đối với việc điều chỉnh hà
chức, viên chức lĩnh vực y tế……………………
Vai trò của đạo đức đối với việc điều chỉnh hàn
chức, viên chức lĩnh vực y tế……………………
Ý nghĩa của việc thiết lập mối quan hệ hài hòa g
đức trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công c
y tế………………………………………………
Việc thiết lập mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
quan……………………………………………
Thiết lập mối quan hệ hài hòa giữa pháp luật và
điều kiện của việc xây dựng đội ngũ cán bộ côn
lĩnh vực y tế……………………………………
Việc thiết lập mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức lĩnh
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, lĩnh


1.5.

2.1.

2.1.1.
2.1.2.
2.2.

2.3.
2.4.

2.4.1.
2.4.2.


3.1.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3
3.2.4.

Đặc trưng của mối quan hệ pháp luật và đạo đứ
ngũ cán bộ, công chức lĩnh vực y tế……………
Kết luận chương 1………………………………
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ
VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG XÂY DỰNG ĐỘI N
CHỨC VIÊN CHỨC ÁP DỤNG LĨNH VỰC
HIỆN NAY……………………………………
Thực trạng pháp luật và hoạt động áp dụng phá
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức áp d
Nam hiện nay……………………………………
Thực trạng hệ thống văn bản pháp luật điều chỉ
lĩnh vực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, v
Thực trạng áp dụng pháp luật trong việc xây dự
chức, viên chức y tế……………………………
Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đ
dụng, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viê
hiện nay…………………………………………
Thực trạng y đức ở Việt Nam trong mối tương q
và thực hiện pháp luật trong xây dựng đội ngũ C
Những thành tựu và hạn chế của mối quan hệ g
trong lĩnh vực xây dựng và quản lý đội ngũ cán
chức lĩnh vực y tế ở VN hiện nay và những ngu

Những thành tựu và hạn chế của quan hệ giữa p
trong xây dựng đội ngũ CBCCVC lĩnh vực y tế
Nguyên nhân của hạn chế trong những hoạt độn
và đạo đức………………………………………
Kết luận chương 2………………………………
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN
HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRO
NGŨ CBCCVC ÁP DỤNG LĨNH VỰC Y TẾ
NAY……………………………………………
Một số quan điểm, nguyên tắc chung……………
Kiến nghị những giải pháp chung………………
Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật...
Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ t
chủ nghĩa trên cơ sở mối quan hệ giữa pháp luậ
Nâng cao chất lượng công tác tổ chức và thực h
Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức giáo dục ph


3.2.5
3.2.6
3.3.
3.3.1
3.3.2.
3.3.3
3.3.4
3.2.5

dục đạo đức............................................................................................................................ 81
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành
vi vi phạm pháp luật........................................................................................................... 82

Giải pháp ghi nhận đạo đức nhiều hơn vào các văn bản pháp luật...................82
Kiến nghị những giải pháp cụ thể.................................................................................. 83
Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về y tế.................................................... 83
Xây dựng đội ngũ nhân lực CBCCVC lĩnh vực y tế đủ về số lượng,
nâng cao chất lượng, vừa có đức vừa có tài.............................................................. 84
Có chế tài nghiêm khác đối với vi phạm chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp...................................................................................................................................... 85
Các giải pháp về thực hiện kiểm tra việc thực hiện pháp luật và đạo đức
nghề y của CBCCVC lĩnh vực y tế............................................................................... 87
Nâng cao y đức gắn liền nâng cao y thức pháp luật của cán bộ, công
chức, viên chức ngành y tế............................................................................................... 87
Kiến nghị
....................................................................................................
Kết luận chương 3............................................................................................................... 88
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 94



DANH MUCC̣ CÁC KÝ HIỆU, CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Ký hiệu viết tắt
1

BYT

2

CB


3

CBCCVC

4

CBYT

5

CP

6

CT

7

ĐHQGHN

8

HTGDQD

9

KTXH

10


NCKH

11



12

NNL

13

Nxb

14

PL

15

QH

16

TS

17

TT


18

TW

19

UBTVQH

20

XPHC


DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT

1.

2.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, trong thư gửi Hội nghị cán bộ ngành y vào năm 1955, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “Lương y phải như từ mẫu”. Đó không chỉ là lời căn dặn của vị
Cha già dân tộc, mà còn là sự trông đợi, gửi gắm, những đòi hỏi của nhân dân về
phẩm chất, đạo đức đối với một công việc hết sức đặc thù, cao quý, nhưng đầy gian
lao, thử thách - nghề chăm sóc, cứu chữa người bệnh hay còn được gọi là nghề y.

Y tế được gọi là nghề đặc thù vì không chỉ có những đòi hỏi cao về chuyên
môn, nghiệp vụ, mà trên hết là những yêu cầu về y đức của cán bộ, công chức, viên
chức ngành y, bởi công việc của họ gắn chặt với tính mạng, sức khỏe của con người,
cũng như của cả cộng đồng.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, dưới tác động tiêu cực của nền kinh tế thị
trường, sự yếu kém trong quản lý, thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp luật, cũng như
những tác động tiêu cực khác đến từ xu thế thời đại và nhu cầu thực tiễn cuộc sống, y
đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức ngành y đã xuống đến
mức báo động, gây bức xúc trong dư luận. Ngày càng nhiều những biểu hiện vi phạm
đạo đức, vi phạm pháp luật của CBCCVC ngành y. Sự vô cảm với người bệnh, nhũng
nhiễu hạch sách, vòi vĩnh bệnh nhân, có lối sống hưởng thụ, thực dụng, chạy theo đồng
tiền,… được xem là căn bệnh nguy hiểm trong ngành y bởi thực trạng này đã kéo dài
và ngày càng trở nên trầm trọng, gây bức xúc trong nhân dân.

Y đức là cái gốc của văn hóa ngành y, vấn đề y đức liên quan đến nhiều khía
cạnh khác nhau của ngành y tế. Sự xuống cấp về y đức cũng giống như một căn
bệnh của ngành y, muốn chữa được nó thì cần phải chữa từ tận gốc rễ, từ căn
nguyên của căn bệnh và phải bằng biện pháp cụ thể. Vậy đâu là những phương tiện
chủ yếu điều chỉnh hành vi cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức viên chức
trong lãnh vực y tế.
Pháp luật và đạo đức đều là hai phương tiện quan trọng bậc nhất để điều
chỉnh hành vi của con người. Dù cho cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế

1


nhất định, song giữa chúng luôn có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Giữa
pháp luật và đạo đức có một số điểm khác biệt nhưng nó không hề đối lập, mâu
thuẫn xung đột với nhau mà sự khác biệt thể hiện điểm mạnh, điểm yếu khác nhau
giữa pháp luật và đạo đức. Thế mạnh của pháp luật là khả năng điều chỉnh rõ ràng,

dứt khoát và đảm bảo thực hiện pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước với
hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong khi đó thế mạnh của đạo đức lại là khả
năng điều chỉnh tất cả mọi quan hệ xã hội, mọi góc độ tình cảm trong đời sống cá
nhân và nhà nước, cá nhân với cá nhân và cá nhân với bản thân chính mình.
Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong đào tạo, xây dựng đội ngũ
CBCCVC y tế hiện nay vẫn chưa được chú trọng tìm hiểu một cách thảo đáng. Sự
kết hợp giữa pháp luật và đạo đức như là công cụ điều chỉnh đặc thù trong ngành y
còn chưa được đề cao, thiếu hiệu quả dẫn đến tình trạng giảm sút về y đức.
Trong xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức lĩnh vực y
tế, phương pháp hiệu quả nhất là biết kết hợp các phương thức quản lý khác nhau
trên cùng một đối tượng nhằm bổ sung, lấp đầy khoảng trống trong nhau. Tuy pháp
luật và đạo đức không phải là hai công cụ duy nhất được dùng trong quản lý, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Việt Nam nói chung và đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức lĩnh vực y tế nói riêng, song đây là hai công cụ cơ bản đem lại
hiệu quả tối ưu và lâu bền. Vận dụng tốt mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức sẽ góp phần xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất về đạo đức và ý thức pháp luật.
Thực tế, những hạn chế tiêu cực trong lãnh vực y tế cùng với y đức của
người thầy thuốc đang là vấn đề thời sự nóng bỏng mà cả xã hội quan tâm và cần
được khắc phục. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức áp dụng trong lĩnh
vực y tế ở nƣớc ta hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật nhận được sự quan tâm rất lớn của
cộng đồng khoa học, trong đó trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu sau

2


Trên các tạp chí chuyên ngành như Nhà nước và pháp luật, Nghiên cứu lập

pháp, Luật học, Triết học... có khá nhiều công trình của các tác giả đề cập tới vấn đề
này. Tác giả Hoàng Thị Kim Quế có hàng loạt bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức: Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức với việc điều chỉnh
hành vi con người trong quản lý xã hội (Tạp chí Đại học Quốc gia, chuyên đề khoa
học xã hội, số 4/1997); Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong hệ thống điều chỉnh xã hội (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/1999); Một
số suy nghĩ về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức (Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 3/2000); Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo
đức (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2002); Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng
pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay (Tạp chí Triết học, số
12/2002); Những vấn đề hôm nay của pháp luật và đạo đức (Tạp chí Luật học số
7/2006)... Tác giả Trần Hậu Thành có bài viết Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp
luật (Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, số 5/1998).
Mặc dù đều là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ giữa
pháp luật với đạo đức, tuy nhiên, với dung lượng hạn chế của một bài tạp chí, nên
nhìn chung các tác giả đều dừng lại ở việc phân tích một vài khía cạnh của vấn đề,
không có điều kiện để giải quyết toàn diện các khía cạnh của nó.
Công trình nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia của tiến sĩ Hoàng Thị
Kim Quế: "Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta
hiện nay" (Năm 2002). Công trình nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề như vị trí,
vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội; tính cấp thiết
khách quan của việc kết hợp pháp luật, đạo đức trong quản lý xã hội; việc kết hợp
giữa pháp luật với đạo đức trên thực tế trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể; trên
cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp
luật với đạo đức.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Nam năm 2005, Đại học Luật Hà Nội: “
Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
hiện nay” đã đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật ở nước ta

3



hiện nay, phân tích thành tựu và hạn chế của mối quan hệ này và đưa ra những giải
pháp để hoàn thiện mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thuý Hoa với đề tài “kết hợp pháp luật và
đạo đức trong quản lý nhà nuớc ở Việt Nam hiện nay” năm 2006 tại Học viện chính
trị Quốc Gia Hồ Chí Minh; luận văn luận giải tính tất yếu của việc kết hợp pháp luật
và đạo đức trong quản lý nhà nuớc; thực trạng kết hợp và một số giải pháp cơ bản.
Luận văn thạc sĩ của Trần Gia Ninh, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội:
Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, liên hệ vào lĩnh vực đảm bảo an toàn, vệ
sinh thực phẩm. Luận văn này đã góp phần làm rõ mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức trong nhà nước pháp quyền, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp
luật, thực trạng mối liên hệ giữa đạo đức và pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thị
trường. Luận văn cũng đưa ra một số giải pháp tăng cường quản lý xã hội và đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm bằng pháp luật kết hợp với đạo đức trong bối cảnh
xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập.
Trong lĩnh vực y tế, mối quan hệ này chưa được quan tâm đúng mực, nhất là
nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực cho ngành y – chìa khóa để nâng cao y đức ,chưa
hề có một nghiên cứu sâu sắc nào về “Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức áp dụng trong lĩnh
vực y tế ở nƣớc ta hiện nay”. Vì vậy việc nghiên cứu, điều tra, phân tích để thấy
được mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức nói chung và trong lĩnh vực y tế nói riêng ở nước ta hiện nay
đòi hỏi phải đi sâu đi sát, thu thập thông tin thực tế, tìm ra quy luật, tìm ra những
hạn chế thực tiễn để bàn bạc tìm giải pháp khắc phục.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về mối quan hệ

giữa pháp luật và đạo đức trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
áp dụng trong lĩnh vực y tế. Phân tích thực trạng y đức của đội ngũ cán bộ y tế trong

4


thời gian qua cũng như tìm những nguyên nhân của nó, nghiên cứu các văn bản quy
phạm pháp luật về ngành y, nghiên cứu thực trạng mối quan hệ giữa đạo đức và
pháp luật trong lĩnh vực y tế, nhất là trong xây dựng đội ngũ. Từ đó xây dựng
phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức trong lãnh vực y tế.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được được mục đích đó, tác giả luận văn xác định những nhiệm vụ sau:

-

Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức ngành y, pháp luật lĩnh

vực y tế và mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong lĩnh vực y tế.
-

Làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng

đôịngũcán bộ, công chức viên chức y tế ở Việt Nam hiện nay.
-

Đưa ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật và đạo


đức trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong lĩnh vực y tế.

4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu: Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức và mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực y tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến pháp luật trong
lĩnh vực y tế, đạo đức ngành y và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức viên
chức trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp, quy
nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học… nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.

6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức áp dụng trong lĩnh vực y tế.

5


Nêu lên được những thực trạng những vấn đề về đạo đức và pháp luật ngành
y tế, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đưa ra được những ví dụ sinh động
nhằm minh họa thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lĩnh vực y tế.
Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng mối quan

hệ trong xây dựng đội ngũ công chức ngành y có đủ đức tài, vừa hồng vừa chuyên.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, đạo đức trong lĩnh vực
y tế, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức, viên chức áp dụng trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức viên chức áp dụng trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam hiện
nay.
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị, hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức y tế áp dụng trong
lĩnh vực y tế ở Việt Nam hiện nay

6


Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC ÁP DỤNG TRONG LĨNH VỰC Y TẾ Ở NƢỚC
TA HIỆN NAY
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, đạo đức trong lĩnh vực y tế, mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực y tế ở nƣớc ta hiện nay 1.1.1
Khái niệm và các thuộc tính của pháp luật trong lĩnh vực y tế
1.1.1.1. Khái niệm pháp luật
Pháp luật y tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật của quốc gia,
vì vậy trước khi đi vào xác định khái niệm pháp luật y tế, tác giả xin trình bày một
số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật nói chung và lấy đó làm nền tảng, cơ sở để
xác định nội hàm của khái niệm pháp luật y tế.

Để tổ chức và quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có
lĩnh vực y tế, Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý phải thường xuyên sử dụng
các công cụ quản lý tác động lên đối tượng quản lý. Pháp luật là một công cụ quan
trọng giúp Nhà nuớc quản lý các quan hệ xã hội đúng mục đích.
Trong quá trình nghiên cứu, có rất nhiều tài liệu với các cách giải thích khác
nhau về khái niệm pháp luật, có thể kể đến một số khái niệm pháp luật như sau:
Theo quan điểm giáo trình lý luận nhà nuớc và pháp luật của Đại học Luật
Hà Nội năm 2003: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử xự do nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội” [52, tr102].
Theo quan điểm giáo trình lý luận nhà nuớc và pháp luật của Khoa Luật - Đại
học Quốc Gia Hà Nội năm 2005: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính
bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của nhà nước của
giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được
đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích
trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội” [26, tr 288].

7


Theo quan điểm giáo trình lý luận nhà nuớc và pháp luật của Đại học Luật
năm 2010: “Pháp luật là hệ thống quy tắc xử xự mang tính bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu,
định hướng cụ thể” [53, tr98].
Trên cơ sở những quan điểm nêu trên, có thể thấy pháp luật có những đặc
điểm sau: Pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, pháp luật do Nhà nước
đặt ra hoặc thừa nhận, pháp luật là phương tiện để xác định, thiết lập trật tự xã hội
có hiệu lực bắt buộc và được kiểm soát, đảm bảo, bảo vệ của Nhà nước. Tuy nhiên,
khác với hệ thống pháp luật quốc gia, pháp luật y tế chỉ điều chỉnh mảng quan hệ xã
hội gắn liền với lĩnh vực y tế.

Kế thừa có chọn lọc các khái niệm trên tác giả luận văn đồng ý với quan
điểm pháp luật là hệ thống các quan điểm pháp luật là “hệ thống các quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung do Nhà nuớc đặt ra hoặc thừa nhận” nhưng không đồng ý
với quan điểm “thể hiện ý chí của giai cấp thống trị”, bởi ngoài ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội hiện nay pháp luật còn phải thể hiện ý chí chung của toàn xã
hội. Do đó, tác giả luận văn mạnh dạn đề xuất khái niệm pháp luật lĩnh vực y tế như
sau: Pháp luật y tế là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh mối quan hệ trong lĩnh vực y tế theo
mục tiêu, định hướng cụ thể và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
1.1.1.2. Thuộc tính cơ bản của pháp luật trong lĩnh vực y tế
Các sự vật, hiện tượng xã hội được phân biệt với nhau nhờ vào các thuộc tính
của chúng. Thuộc tính là những dấu hiệu đặc trưng riêng có của sự vật, hiện tượng.
Thuộc tính của pháp luật là những dấu hiệu riêng có của pháp luật, là tiêu chí để
phân biệt pháp luật với các hiện tượng xã hội khác, các quy phạm pháp luật khác.
Các thuộc tính cơ bản của pháp luật biểu hiện sức mạnh, ưu thế của pháp luật trong
hệ thống các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội. Pháp luật trong lĩnh vực y tế là một
phần của hệ thống pháp luật Việt Nam do đó, nó cũng có các thuộc tính cơ bản sau:
Tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức,
tính được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước.

8


Ngoài các thuộc tính cơ bản, pháp luật trong lĩnh vực y tế còn có những đặc
điểm sau:
-

Pháp luật trong lĩnh vực y tế phải có tính hợp hiến, hợp pháp: Các văn bản

quy phạm pháp luật y tế được xây dựng dựa trên Hiến pháp, từ các quy định của các

Bộ Luật, đạo luật quy định về y tế. Việc xây dựng các văn bản pháp luật y tế phải
đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong bản thân hệ thống pháp luật của quốc gia.
Bản thân pháp luật y tế cũng có mối quan hệ đối với các ngành luật khác trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.
-

Pháp luật trong lĩnh vực y tế thể hiện sự tương quan giữa pháp luật về y tế

với sự phát triển của ngành y tế với sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước, kể cả
trình độ, năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Do vậy, pháp luật trong lĩnh
vực y tế còn thể hiện mối quan hệ với pháp luật về y tế với các yếu tố kinh tế, chính
trị, đạo đức, truyền thống và các quy phạm xã hội khác. Pháp luật y tế không chỉ
điều phối các quan hệ xã hội đã định hình mà còn phải có khả năng dự báo, tức là
điều chỉnh những quan hệ mới sẽ nảy sinh trong lĩnh vực y tế.
-

Đặc thù về đối tượng điều chỉnh của pháp luật lĩnh vực y tế:

Các quan hệ phát sinh giữa cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
làm việc tại các cơ sở y tế trong toàn quốc. Các quan hệ phát sinh giữa cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến các dịch vụ y tế, các chính sách về y tế…
Các quan hệ phát sinh trong việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy y tế, cải
tiến chế độ làm việc, hoàn chỉnh các quan hệ công tác của các cơ quan nhà nước,
hoạt động quản lý y tế, hoạt động kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện pháp luật
của các cơ quan, đơn vị trực thuộc, các tổ chức và cá nhân thuộc lĩnh vực y tế, xử lí
các cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật y tế.
Các quan hệ phát sinh trong hoạt động y tế: Giữa bộ y tế với cơ sở trực
thuộc; giữa cá nhân hoạt động trong lĩnh vực y tế với những người được hưởng, sử
dụng dịch vụ, chế độ y tế, chăm sóc, khám, chữa bệnh; hoạt động giữa các cơ sở y
tế, tổ chức đối với những người có liên quan đến dịch vụ y tế, những người được

hưởng, sử dụng dịch vụ y tế, chăm sóc, khám, chữa, bệnh…

9


-

Đặc thù về phương thức điều chỉnh của pháp luật lĩnh vực y tế

Phương thức điều chỉnh của pháp luật y tế là cách thức nhà nước áp dụng
trong việc điều chỉnh bằng pháp luật để tác động đến các quan hệ y tế. Phương thức điều
chỉnh pháp luật y tế là phương thức điều chỉnh mệnh lệnh được điều chỉnh theo quan hệ

“ quyền lực – phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những mệnh
lệnh bắt buộc với một bên là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có ý nghĩa phục tùng.

Ngoài phương thức điều chỉnh mệnh lệnh, phương pháp điều chỉnh
của pháp luật lĩnh vực y tế còn là đảm bảo sự bình đẳng giữa những người
bệnh với cơ sở y tế, những người được hưởng, sử dụng dịch vụ y tế, chế
độ y tế, chăm sóc khám chữa bệnh. Những chủ thể đó có quyền lựa chọn
dịch vụ y tế, lựa chọn chế độ y tế, chế độ chăm sóc, khám, chữa, bệnh.
-

Đặc thù pháp luật lĩnh vực y tế là lĩnh vực chịu sự tác động mạnh

mẽ, sự tham gia tích cực của các quy tắc đạo đức
Ngành y tế là ngành đặc thù vì liên quan đến tính mạng, sức khỏe của
người bệnh, của nhân dân. Người bệnh đến với người thầy thuốc trong tâm trạng
buồn vui, tính tình, cảm xúc vừa do bệnh và nhiều yếu tố khác của cả cuộc đời chi
phối. Họ hy vọng nhiều vào sự giúp đỡ của thầy thuốc. Họ tin tưởng rằng, trí tuệ, lòng

nhân đạo cao cả của người thầy thuốc sẽ cứu họ thoát khỏi sự đau đớn về thể xác, tinh
thần để trở về với gia đình, đơn vị công tác và xã hội. Ngược lại, người thầy thuốc do
chức năng, nhiệm vụ của nghề nghiệp mà đi sâu vào đời sống người bệnh từ thể chất tâm sinh lý một cách nhân đạo, sâu sắc. Do tính đặc thù của đối tượng nghề y, nên một
thiếu sót dù nhỏ cũng có thể gây ra hậu quả lớn. Xuất phát từ đặc điểm ấy, xã hội luôn
yêu cầu cao đối với người thầy thuốc: Phải có lòng nhân đạo, lương tâm

và trách nhiệm với người bệnh, phải có trình độ trong các vấn đề khác nhau của y
học, phải tận tụy với công việc, phải có các đức tính cao hơn các nghề khác là yêu
nghề, yêu con người. Vì vậy, pháp luật y tế phải có quy định về y đức. Nếu pháp
luật y tế không có quy định về y đức thì rất nguy hiểm, thậm chí bác sĩ có thể sẽ
đem cơ thể bệnh nhân ra làm thí nghiệm.

10


1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của đạo đức và đạo đức y tế
1.1.2.1. Khái niệm đạo đức


phương Đông, Trung Quốc là nơi mà các nhà tư tưởng nói đến đạo đức nhiều

nhất, điển hình là Nho giáo. Trong tiếng Trung Quốc đạo đức có nghĩa là Đạo lý và
Đức hạnh là con đường đúng đắn (phép tắc) mà hành vi con người phải nghe theo.



Phương Tây, đạo đức là vấn đề được thu hút bởi nhiều nhà tư tưởng. Cho

đến nay người ta vẫn coi Xôcrat [469- 399 tr.CN] là người đầu tiên đặt nền móng
cho khoa học đạo đức. Còn Arixtốt [384- 322 tr.CN] đã viết 10 bộ sách đạo đức học,

trong đó ông quan tâm đến phẩm hạnh đạo đức con người. Nội dung phẩm hạnh
chính là biết định hướng, biết làm việc thiện.
Đạo đức là một khái niệm hết sức phức tạp, khái niệm này vừa hết sức phổ
biến trong dân gian, vừa đậm chất học thuật, bới vậy nó được hiểu theo nhiều cách
khác nhau trong những thời gian, không gian, đối tượng khác nhau.
Trong đời sống hàng ngày đạo đức được quan niệm là đức hạnh, phẩm hạnh
của con người, là những nét đẹp, nét tốt, “những phẩm chất tốt đẹp, của con người
do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức đã có” [49, tr280]. Như vậy, trong đời
sống thường ngày, đạo đức được đồng nhất với ý thức, phẩm chất đạo đức cá nhân.
Trong khoa học, đạo đức được hiểu theo nhiều nghĩa với phạm vi rộng, hẹp khác
nhau. Theo nghĩa hẹp, đạo đức là: “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận thừa nhận,
qui định hành vi, quan hệ của con người với nhau và đối với xã hội [27, tr280].

Trong pháp luật Việt Nam hiện hành đạo đức cũng được đề cập đến tại điều 128
Bộ luật Dân sự năm 2005: “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa
người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”

Đạo đức trong lĩnh vực y tế còn được hiểu là y đức.
Ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam, các thầy thuốc phải đọc Lời thề
Hippocrates khi chuẩn bị ra trường để hành nghề. Lời thề này được các sinh viên Y
khoa đọc và nguyện làm theo trong lễ tốt nghiệp Trong lịch sử y học Việt Nam, các bậc
danh y đều cho rằng, y đức quan trọng không kém gì y thuật. Trong số đó, chúng ta
phải kể đến Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-

11


1791). Các ông không chỉ là các bậc danh y, mà còn là những nhà tư tưởng lớn về y
đức. Các ông rất chú trọng xây dựng và truyền đạt y đức. Như Hải Thượng Lãn Ông Lê
Hữu Trác, trong suốt cuộc đời rèn luyện và phục vụ y học, ông luôn tự nhắc nhở mình

phải “tiến đức, tu nghiệp”. Tiến đức là mỗi ngày phải rèn luyện cho toàn thiện, toàn mỹ
đạo đức của người hành nghề y. Tu nghiệp là hàng ngày phải chăm chỉ học tập cho y
thuật ngày càng giỏi. Đối với Hải Thượng Lãn Ông, đạo làm thuốc không chỉ bó hẹp
trong phạm vi chuyên môn nghề nghiệp, mà còn bao hàm cả đạo đức nghề nghiệp. Y
thuật phải gắn liền với y đức. Thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo trong nghề y, Hải
Thượng Lãn Ông cho rằng, một người thầy thuốc chân chính không những phải có kiến
thức vững vàng về chuyên môn, mà còn phải tự xác định cho mình những quy chuẩn
đạo đức đúng đắn, đó là ý nghĩa đích thực của đạo làm thuốc và cũng là bí quyết để xây
dựng và phát triển nghề y. Ông viết: “Suy nghĩ thật sâu xa tôi hiểu rằng thầy thuốc là
bảo vệ sinh mạng cho con người, sống chết một tay mình nắm, hoạ phúc một tay mình
giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn, tâm hồn
không rộng lớn, hành vi không thận trọng mà dám liều lĩnh học đòi cái nghề cao quý đó
chăng” [51, tr21]. Theo đó, có thể thấy rằng, Hải Thượng Lãn Ông quan niệm bổn phận
của người thầy thuốc không dừng lại ở một đạo đức thông thường. Mà hơn thế, bổn
phận của người thầy thuốc còn thể hiện ra trong toàn bộ cac quan hệ đối với nghề
nghiệp, từ khả năng nhận thức chuyên môn tới quan niệm về mục đích nghề nghiệp và
thái độ đối với người bệnh, với đồng nghiệp, đặc biệt là bổn phận của người thầy thuốc
trước sự cơ cực của người bệnh nghèo, những người thiếu may mắn trong xã hội đương
thời. Ông gọi đó là y đạo.

Kế thừa truyền thống y đức của ông cha ta, tiếp thu tinh hoa y đức nhân loại,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc trau dồi và rèn luyện y đức. Người đã
nhiều lần gửi thư và trực tiếp gặp, thăm các cơ sở y tế, bày tỏ quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về phẩm chất của người thầy thuốc. Người đã tặng cán bộ, nhân
viên ngành y danh hiệu: “Thầy thuốc như mẹ hiền”. Danh hiệu đó vừa là sự đánh
giá cao của Người đối với những đóng góp của ngành y, vừa là một yêu cầu của
Người đối với mỗi cán bộ y tế về y đức [29, tr32].

12



Nói đến ngành y là nói đến y đức, y đạo, y thuật. Y đức là những phẩm chất
tốt đẹp, cao quý của những người làm nghề y, được thể hiện qua thái độ, tinh thần,
trách nhiệm, hết lòng thương yêu, chăm sóc người bệnh, coi sự đau đớn của người
bệnh như chính sự đau đớn của mình. Y đức không ở đâu xa, nó là thái độ, văn hóa
giao tiếp, ứng xử phục vụ người bệnh, cung cách phục vụ -cái mà người bệnh đang
rất cần. Do đó, ngành y tế, nhân dân và người bệnh rất cần đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức ngành y tế có đạo đức nghề nghiệp, nắm vững các quy định về
chuyên môn y tế, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ.
Tóm lại, theo quan điểm cá nhân: Y đức là tiêu chuẩn, là quy tắc đạo dức đặt
ra nhằm điều chỉnh hành vi xử xự và quan hệ của người thầy thuốc có liên quan đến
nghề nghiệp của mình.
1.1.2.2. Đặc điểm của đạo đức nghề y
Đạo đức trước hết là hệ thống những quan niệm, quan điểm, tư tưởng của
một cộng đồng ( dân tộc, giai cấp, tôn giáo) về thiện – ác, tốt – xấu, chân - giả, vinh
– nhục, về sự công bằng, nghĩa vụ, danh dự và về những phạm trù khác thuộc đời
sống tinh thần xã hội, trong đó cơ bản và cốt lõi là quan điểm về điều thiện trong xã
hội. Trên cơ sở các quan niệm, quan điểm đó, là một hệ thống các qui tắc ứng xử
của con người được hình thành. Những quan điểm, quan niệm, qui tắc đạo đức như
vậy đã đi vào đời sống, được thực hiện hóa thành hành vi đạo đức một cách sống
động, trở thành đạo đức trong cuộc sống. Sau cùng đến lượt mình, hành vi của các
chủ thể lại trở thành đối tượng đánh giá của cộng đồng cũng như của chính bản thân
chủ thể. Sự đánh giá này là một mắt khâu của việc điều chỉnh bằng đạo đức đối với
hành vi của con người. Sự đồng tình hay phản đối của cộng đồng đối với hành vi
của một chủ thể không chỉ có vai trò củng cố đạo đức, hoàn thiện nhân cách, định
hướng cho hành vi chủ thể đó mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc hình thành
và hoàn thiện các quan niệm, quan điểm, qui tắc đạo đức xã hội. Các hiện tượng đạo
đức thường biểu hiện dưới hình thức khảng định, hoặc phủ định một lợi ích chính
đáng hoặc không chính đáng nào đó. Nghĩa là nó thể hiện sự tán thành hay phản đối
trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng xã hội

nhất định. Vì vậy, đạo đức là nội dung hợp thành giá trị xã hội. Nội dung của đạo

13


đức là do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội quyết định. Nhận thức xã hội đem lại
các hình thức cụ thể của phản ánh đạo đức, làm cho đạo đức tồn tại như một lĩnh
vực độc lập về sản xuất tinh thần trong xã hội.
Sự hình thành phát triển, hoàn thành bản chất xã hội của đạo đức được quy
định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của nhận thức xã hội con người. Nói cách
khác, nội dung khách quan của các quan niệm, quan điểm, các nguyên tắc, Các
chuẩn mực đạo đức chính là biểu hiện của trạng thái, một trình độ phát triển nhất
định của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. Với tính
cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức mang những đặc điểm sau:
Nguyên lý của y đức bao gồm tôn trọng quyền tự quyết của người bệnh, có
tình thương, không làm điều tổn hại và đối xử công bằng với người bệnh/gia đình
người bệnh.
Tôn trọng quyền tự quyết của người bệnh là tôn trọng nhân phẩm, giữ gìn bí
mật của người bệnh và tôn trọng quyền lựa chọn các biện pháp chăm sóc của người
bệnh/gia đình người bệnh sau khi người bệnh đã được cung cấp đầy đủ các thông
tin liên quan đến bệnh tật của họ.
Tình thương được định nghĩa như sự hiểu biết và quan tâm tới nỗi đau của một
người, nó cần thiết cho thực hành y học. Tình thương là luôn làm điều tốt cho người
bệnh. Người bệnh đáp ứng tốt hơn với điều trị nếu họ nhận được cảm thông với sự
quan tâm và đối xử hợp lý hơn là chỉ quan tâm đến tình trạng ốm đau của họ.

Không làm điều tổn hại: Trong nghề y, hầu như việc áp dụng bất cứ một biện
pháp chăm sóc nào cũng có thể xuất hiện nguy cơ gây hại cho người bệnh. Do vậy,
trách nhiệm của cán bô ̣, công chức, viên chức ngành y tế là phải cân nhắc để đảm
bảo ít gây tổn hại nhất cho người bệnh.

Cán bộ, công chức , viên chức ngành y tế không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo,
dân tộc, … khi chăm sóc người bệnh.
1.1.3. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực y tế
Triết học Mac- Lênin khẳng định rằng trong thế giới vật chất, các sự vật hiện
tượng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ, liên hệ với nhau. Khái niệm quan

14


hệ (liên hệ) phản ánh sự phụ thuộc, rằng buộc lẫn nhau, làm điều kiện, tiền đề cho
nhau, quy định lẫn nhau, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau [21, tr55].
Trong lĩnh vực y tế, pháp luật và đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ và là nền
tảng cho nhau. Pháp luật và y đức có mối quan hệ hữu cơ, thống nhất với nhau điều
chỉnh hành vi của cán bộ, công chức, viên chức lĩnh vực y tế.
1.1.3.1. Sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức nghề y
Pháp luật và đạo đức nghề y đều là những công cụ điều chỉnh hành vi của
cán bộ, công chức, viên chức lĩnh vực y tế.
Pháp luật và y đức đều có chức năng chung là điều chỉnh hành vi của con
người và các mối quan hệ xã hội. Giữa pháp luật về y tế và đạo đức nghề y, xét về
nguyên tắc, không có một sự đối lập nào, cả hai đều hướng tới công bằng, vì con
người, bảo vệ con người, vì sự thiết lập những quan hệ tốt đẹp trong xã hội.
Điều chỉnh hành vi của cán bộ, công chức, viên chức lĩnh vực y tế, pháp luật
và y đức đều mang tính quy phạm phổ biến, chúng đều là những mô hình, những
khuôn mẫu xử sự cho hành vi cụ thể. Trong lĩnh vực y tế, pháp luật là hệ thống các
quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, nó có tác động đến tất cả các cá nhân, các tổ
chức, các cơ quan y tế trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước. Trong khi đó, đạo đức
nghề y là những chuẩn mực về hành vi con người liên quan đến những gì được xem
là tốt và đúng soi với những cái gì được xem là xấu và sai.
1.1.3.2. Sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức ngành y tế
Pháp luật và đạo đức không tồn tại biệt lập, tách rời mà giữa chúng luôn có

mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Mặt dù đều là công cụ điều chỉnh hành vi con người,
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, quản lý xã hội, tuy nhiên giữa pháp luật và đạo
đức ngành y tế vẫn có sự khác biệt nhau.
-

Về biện pháp đảm bảo thực hiện

Pháp luật do nhà nước ban hành nên nó được nhà nước đảm bảo thực hiện.
Tùy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nhà nước có thể sử dụng một hay kết
hợp nhiều biện pháp như tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, các biện pháp
hành chính và cuối cùng là sự cưỡng chế nhà nước. Thông qua bộ máy tuyên truyền

15


phổ biến giáo dục pháp luật của nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức lĩnh vực y
tế nắm bắt được những qui định của pháp luật, từ đó họ có thể điều chỉnh hành vi đi
theo một “hành lang pháp lý” mà nhà nước định hướng sẵn.
Khác với pháp luật, “đạo đức được đảm bảo trước hết nhờ yếu tố kích thích
nội tâm của con người - sức mạnh từ bên trong, từ lương tâm, từ thói quen xử sự và
từ sức mạnh bên ngoài - dư luận xã hội” [32, tr13]. Một trong các biện pháp đảm
bảo cho đạo đức được thực hiện, trước hết phải kể đến biện pháp tuyên truyền giáo
dục - biện pháp đầu tư tác động vào tư duy, tình cảm nhận thức của con người.
Chính thông qua giáo dục, nhân cách con người được hình thành và xây đắp
bổ sung. Môi trường xã hội chính là nơi để các chủ thể tự học hỏi và xây dựng
lương tâm cho mình. Lương tâm của con người không phải là phạm trù thiên bẩm
sẵn có mà “phần nhiều do giáo dục mà nên”. Có lương tâm chủ thể nhận thức được
ý nghĩa tích cực, tác dụng to lớn trong xử sự mà từ đó tự giác thực hiện việc nào đó,
hoặc kiềm chế không thực hiện. Khác với các biện pháp cưỡng chế nhà nước, sự
phán xét “toàn án lương tâm” diễn ra “triền miên, day dứt, thậm chí trong suốt cả

cuộc đời người vi phạm” [32, tr17]. Khi người thầy thuốc không tận tình cứu chữa
bệnh nhân dẫn đến tình trạng đáng tiếc xảy ra thì chính bản thân người thầy thuốc
đó sẽ bị cắn dứt, dày vò lương tâm.
Dư luận xã hội là biện pháp đảm bảo rất quan trọng của đạo đức ngành y tế.
Sống trong cộng đồng, không ai có thể xa lánh hoặc chạy trốn dư luận mãi mãi.
Trên cơ sở các chuẩn mực đạo đức, dư luận đánh giá hành vi đó thiện hay ác, thật
hay giả, tốt hay xấu…qua đó thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối một hành vi
nào đó. Nếu thầy thuốc tỏ ra ít tế nhị, ít mật thiết, lạnh lùng, thậm chí ráo hoảnh với
bệnh nhân thì không một tòa án nào xét xử nhưng dư luận sẽ có những đánh giá, sẽ
có những thái độ đồng tình hay phản đối.
-

Phạm vi điều chỉnh:

Trong khi giới hạn điều chỉnh của pháp luật còn có hạn chế do chính cơ chế
điều chỉnh và cách thức bảo đảm thực hiện của nó quy định, thì với đạo đức, phạm
vi


điều chỉnh lại mở ra rất rộng. Thực tế đã cho thấy, ở đâu có con người ở đó

16


×