Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh hòa bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.15 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TUẤN ANH

KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TUẤN ANH

KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí


HÀ NỘI - 2015

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn ch-a từng đ-ợc
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Tuấn Anh

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LU

ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨ

1.1.

Khái quát về xét xử sơ thẩm vụ án

1.1.1.

Vị trí, vai trò của xét xử sơ thẩm v

1.1.2.

Chức năng, nhiệm vụ và các đặc tr
thẩm vụ án hình sự

1.2.

Khái niệm kiểm sát việc tuân theo
sơ thẩm

1.2.1.

Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân d

tuân theo pháp luật trong tố tụng h
1.2.2.

Phạm vi, nội dung của kiểm sát tu

tụng hình sự

1.2.3.

Đặc điểm của kiểm sát hoạt động

1.3.

Ý nghĩa của kiểm sát tuân theo ph

1.3.1.

Đảm bảo tính khách quan trong qu

1.3.2.

Đảm bảo áp dụng pháp luật thống

1.3.3.

Bảo đảm pháp chế xã hội chủ ngh

1.3.4.

Bảo đảm xét xử công bằng

1.3.5.

Bảo đảm quyền con người


1.4.

Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm
một số nước

4


1.4.1.

Tại Hoa Kỳ

1.4.2.

Tại Trung Quốc

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP L

SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ

2.1.

Pháp luật Việt Nam về kiểm sát ho
án hình sự

2.1.1.

Pháp luật Việt Nam về kiểm sát ho
án hình sự từ năm 1945 đến trước


2.1.2.

Quy định của pháp luật Việt Nam

động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.2.

Thực tiễn công tác kiểm sát hoạt đ

hình sự của Viện kiểm sát nhân dâ
2.2.1.

Khái quát chung về tỉnh Hòa Bình

2.2.2.

Về tổ chức và hoạt động của Viện
Hòa Bình

2.2.3.

Một số kết quả về kiểm sát xét xử

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa B

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬ

CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌN


3.1.

Cơ sở của việc hoàn thiện pháp lu

cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạ

án hình sự của Viện kiểm sát nhân
3.2.

Hoàn thiện pháp luật về kiểm sát h
vụ án hình sự của Viện kiểm sát

3.3.

Các giải pháp khác nâng cao chất
hoạt động xét xử

3.3.1.

Nâng cao trình độ của các Kiểm sá

lượng cán bộ ngành kiểm sát nói c

5


3.3.2. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành Kiểm sát
3.3.3. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo trong ngành Kiểm sát
3.3.4.

3.3.5.

Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn
Nâng cao hiêụ qua phiên toa rút ki
̉̉

thực hành quyền công tố vàkiểm sát xét xử
KẾT LUẬN

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS


: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

7


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
2.1

Thống kê đánh giá
án hình sự tại tỉnh
30/11/2014)

2.2

Tỉ lệ số vụ đưa ra


2.3

Các kiến nghị của

2.4

Kháng nghị

8


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành kiểm sát nhân dân được thành lập ngày 26/7/1960, đánh dấu sự
ra đời của một hệ thống cơ quan nhà nước với chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân (VKSND) năm 1960. VKSND không chỉ có chức năng thực hành
quyền công tố mà thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong
đó có hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm, điều này cho thấy ngay từ những
ngày mới thành lập, việc kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm đã được đánh giá
là một trong những khâu công tác quan trọng của ngành kiểm sát. Xuyên suốt
quá trình hình thành và phát triển của VKSND tới nay, với những quy định
của pháp luật hiện hành và đặc biệt là của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2003 đã là cơ sở cho VKSND thực hiện chức năng, quyền hạn và trách
nhiệm của mình trong hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm. Trải qua một thời
gian áp dụng, những quy định của BLTTHS 2003 đã cơ bản giúp cho ngành

Kiểm sát nhân dân thực hiện được vai trò và nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên,
thực tiễn tố tụng hình sự (TTHS) cho thấy hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm
còn bộc lộ nhiều hạn chế, còn để xảy ra vi phạm nhất là còn để xảy ra oan sai,
hoặc bỏ lọt tội phạm… Hạn chế này do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự bất
cập của các quy định pháp luật về chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát
(VKS), năng lực, kinh nghiệm và những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện
kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm của VKS. Vì vậy, đã làm giảm sút vai trò
VKS trong hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm. Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhà nước pháp

9


quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), yêu cầu của cải cách tư pháp, nhiều vấn đề
lý luận và thực tiễn đang đặt ra đối với việc cải cách, nâng cao vị trí, vai trò
của VKS, trong đó có chức năng kiểm sát xét xử trong TTHS. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã chỉ ra, nhiệm vụ trọng tâm vào công tác cải cách tư
pháp là "đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người". Khẳng định:
Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức
tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra [11].
Từ những khẳng định trên cũng như việc giao nhiệm vụ cho ngành Kiểm
sát của Đảng đã cho thấy trách nhiệm kiểm sát hoạt động tư pháp là một trách
nhiệm lớn lao của ngành kiểm sát và một trong những nhiệm vụ đó sẽ được thể
hiện rõ nét qua công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự bởi vì đây
luôn được coi là một trong những hoạt động trọng tâm của ngành kiểm sát. Vậy

làm thế nào để ngành kiểm sát có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình? Những
khó khăn và hạn chế gì đang tồn tại trong công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ
thẩm hình sự và giải pháp để ngành Kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát
hoạt động xét xử hình sự với nền tảng là BLTTHS 2003…? Đây là những câu
hỏi mang tính thực tiễn cao đang được ngành Kiểm sát nhân dân hết sức quan
tâm trong công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ của mình, với những kinh nghiệm từ thực
tiễn công tác tôi quyết định chọn đề tài: "Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình)" như một
lời bàn góp phần giải quyết khó khăn, hạn chế và các giải pháp để tăng cường
hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân.

10


2. Tình hình nghiên cứu
Sau khi có các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là từ
năm 2006 đến nay, đã có một số bài viết - đề tài nghiên cứu về tổ chức và hoạt
động của VKSND như: "Một số nội dung cần nghiên cứu để triển khai thực
hiện Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002" của Hoàng Nghĩa Mai, Tạp chí Kiểm sát, số 13, 2011; "Viện kiểm
sát nhân dân đổi mới toàn diện và đồng bộ để triển khai thực hiện tốt các quy
định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự và tố tụng hành chính" của Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Tạp chí kiểm sát,
số 13, 2011; "Một số vấn đề về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp" của Lê Hữu Thể đăng trên
Tạp chí Kiểm sát, số 04, 2008 v.v. Chuyên đề về tổ chức và hoạt động của
VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp của tập thể tác giả đăng trên Tạp chí Kiểm
sát số 14-16, 2008...

Các luận văn thạc sĩ, như: "Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong
quá trình tiến hành tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải
cách tư pháp ở Việt Nam" của Trần Mạnh Đông, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; "Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh", của Trần Văn Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân", của Phan Thị Thúy Lan, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007...
Các sách chuyên khảo, như: "Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra" do TS. Lê Hữu Thể chủ biên,
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2008; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư

11


pháp" do các tác giả TS. Lê Hữu Thể - TS. Đỗ Văn Đương - ThS. Nguyễn Thị
Thủy đồng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013...
Các bài viết: "Vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình
sự" của Huỳnh Thế Anh, Báo điện tử VKSND tỉnh Kiên Giang, ngày
25/9/2013; "Bàn về chức năng kiểm sát hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân" của TS. Nguyễn Văn Quảng, Báo điện tử
VKSND thành phố Hải Phòng…Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác
giả khác đã được đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tổng
kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề của
VKSNDTC qua các năm, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ… Các
công trình nghiên cứu, bài viết trước đây hầu như ít đi sâu vào tìm hiểu về
việc kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ cơ sở lý luận về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của VKS trong điều kiện cải cách tư pháp, đồng thời đánh giá thực trạng
quy định của pháp luật và thực tiễn kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự những năm qua, trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật
và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của VKSND.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định và thực tiễn hoạt động
thực hiện chức năng kiểm sát đối với xét xử vụ án hình sự của VKSND.
Phạm vi nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm với
hoạt động của VKSND tỉnh Hòa Bình, từ năm 2009 đến 2014 (30/9/2009 đến
01/10/2014).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng kết hợp cùng chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận của chủ

12


nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung, về cải
cách tư pháp nói riêng, chính sách pháp luật Đảng và Nhà nước ta trong TTHS.

Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, thống kê
và so sánh, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đóng góp của luận văn về mặt khoa học pháp lý là góp phần làm sáng
tỏ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, vai trò, công tác của VKSND trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Đóng góp của luận văn về mặt thực tiễn là đề xuất một số giải pháp

nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của VKSND nói chung và VKSND tỉnh Hòa Bình nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn kiểm sát hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân.

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.1. Vị trí, vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều giai đoạn, được bắt
đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố đến khi có bản án kết tội hoặc quyết định của tòa án có hiệu
lực được thi hành. Quá trình này có sự tham gia của nhiều chủ thể, trong đó
mỗi loại chủ thể góp phần vào việc giải quyết một chức năng của TTHS. Đó
là các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội; các chủ thể thực hiện chức năng
gỡ tội; chủ thể xét xử vụ án hình sự.

Như vậy, quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai
đoạn khác nhau phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và được diễn ra liên tục, kế tiếp nhau. Quan điểm
truyền thống ở nước ta phân chia quá trình giải quyết vụ án thành bốn giai đoạn
tương ứng với chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các giai đoạn đó
gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự: Là giai đoạn đầu của quá trình giải quyết
vụ án hình sự, bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác
về tội phạm và kết thúc bằng việc ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hình sự. Giai đoạn điều tra và truy tố: Là giai đoạn được bắt đầu sau khi có
quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi có quyết định truy tố bị can
bằng bản cáo trạng, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung. Giai đoạn xét xử vụ án hình sự: Là giai đoạn được bắt đầu
khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và quyết định truy tố bị can cùng bản cáo
trạng của VKS và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật. Giai đoạn thi hành bản án, quyết định có hiệu

14


lực pháp luật của Tòa án: Là giai đoạn mà các cơ quan có trách nhiệm đưa bản
án và quyết định của Tòa án ra thi hành nhằm đảm bảo hiệu lực trên thực tế.

Mỗi giai đoạn của hoạt động TTHS có nhiệm vụ và định hướng khác
nhau nhưng đều hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, toàn diện
đúng quy định của pháp luật và do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện.
Trong đó, xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm của TTHS, thể hiện đầy
đủ nhất bản chất chế độ tư pháp hình sự của mỗi quốc gia, quyết định việc
giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân. Tòa án phải xét xử chính xác, công minh vì thông qua phán
quyết về những hành vi phạm tội, tòa án duy trì công lý trong xã hội, kiểm

soát xã hội trong vòng trật tự.
Trong lý luận khoa học TTHS, thừa nhận xét xử sơ thẩm có vị trí, vai
trò quan trọng nhất, không chỉ trong giai đoạt xét xử mà còn trong cả quá
trình giải quyết vụ án, được bắt đầu từ khi tòa án nhận hồ sơ và Cáo trạng của
VKS đến khi kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm. Nhiệm vụ thực chất giải quyết
vụ án hình sự đã quy định xét xử sơ thẩm là giai đoạn trọng tâm của TTHS.
Các giai đoạn trước đó chỉ là quá trình chuẩn bị điều kiện cho xét xử sơ thẩm.
Các giai đoạn sau xét xử sơ thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ
của nó, khắc phục những thiếu sót, sai lầm nếu có và đưa các quyết định, bản
án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành.
Hiện nay, khái niệm "xét xử sơ thẩm" có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Theo Từ điển Luật học lý giải: "Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ
án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền" [2, tr. 780]. Khái niệm này mang
tính khái quát chung của cả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự; v.v… và
đã phản ánh được nét đặc trưng của xét xử sơ thẩm là "lần đầu tiên" một vụ án
được đưa ra xét xử và do "một Tòa án có thẩm quyền" tiến hành.
Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
định nghĩa: "Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử ở cấp thứ nhất do tòa án có

15


thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự" [36, tr.
451]. Định nghĩa này nhận định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử vụ án
ở cấp đầu tiên, bản án, quyết định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay
và bản án, quyết định đó có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong thời hạn luật định.
Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa:
"Xét xử sơ thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó tòa án có thẩm
quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo

quy định của pháp luật" [35, tr. 345] Định nghĩa này đã xác định được xét xử
sơ thẩm là một giai đoạn của TTHS. Xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng thực
hiện chức năng xét xử của tòa án dưới hình thức phiên tòa xem xét và giải
quyết vụ án hình sự, có nghĩa là tòa án trên cơ sở bản cáo trạng và các chứng
cứ được kiểm tra tại phiên tòa đưa ra phán quyết về toàn bộ những vấn đề của
vụ án. Đây là điểm mấu chốt phân biệt xét xử sơ thẩm với xét xử phúc thẩm.
Phiên tòa sơ thẩm chỉ có thể tiến hành khi có quyết định truy tố của VKS và
có đủ điều kiện để tiến hành phiên tòa.
Giáo trình Luật TTHS của Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn tố
tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền thay mặt Nhà nước
tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện, tổng thể vụ án hình sự trên
cơ sở bản cáo trạng của Viện kiểm sát, Tòa án sẽ xem xét đánh giá
chứng cứ và dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở để
ra các phán quyết công minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng bản
án và quyết định của mình [5, tr. 359].
Như vậy có thể nói, giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có một vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng, các thủ tục khác có thể có, có thể không,
nhưng xét xử sơ thẩm là lần đầu, do đó, là thủ tục bắt buộc. Là lần đầu xét xử,
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ xem xét, đánh giá toàn diện, đầy đủ

16


và khách quan về vụ án mà còn hướng đến việc xử lý triệt để, toàn diện và dứt
điểm vụ án hình sự ở giai đoạn này. Đó là có hay không có hành vi phạm tội,
ai là người thực hiện hành vi phạm tội, lỗi, tính chất lỗi, mức độ thiệt hại,
quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp. Vì vậy, nếu xét xử sơ thẩm được
thực hiện tốt sẽ góp phần giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng giải quyết kéo
dài vụ án, để án tồn đọng. Do đó sẽ hạn chế được lượng án mà tòa án cấp

phúc thẩm phải giải quyết, tiết kiệm đáng kể cho Nhà nước và xã hội các chi
phí về thời gian, tiền bạc, công sức… cho việc giải quyết vụ án hình sự, từ đó
nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án nói riêng, cũng như của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước nói chung. Toàn bộ những yếu tố đó giúp cho
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có một có một giá trị không thể thay
thế được. Xét xử sơ thẩm vừa là công cụ bảo vệ pháp chế XHCN, vừa là công
cụ bảo vệ quyền con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức và giảm thiếu tối đa các vụ án oan sai.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và các đặc trƣng cơ bản của xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
1.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành sau khi tòa án nhận được
cáo trạng quyết định truy tố bị can (quyết định truy tố bị can trong trường hợp
áp dụng thủ tục rút gọn) và hồ sơ vụ án do VKS chuyển đến. Do vậy, mọi
chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu để tòa án xem xét, kiểm tra
nhằm đưa ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy định của pháp
luật. Tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được trong giai đoạn điều
tra, truy tố đều được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa thông qua việc xét
hỏi và tranh luận. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu nên trong giai đoạn này
tòa án phải giải quyết mọi vấn đề của vụ án trên cơ sở cáo trạng mà VKS truy
tố. Do vậy chức năng, nhiệm vụ của giai đoạn này được thể hiện như sau:

17


Một là, xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế XHCN; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
Hai là, trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử theo trình

tự sơ thẩm, tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc quyết định đình chỉ vụ
án, quyết định tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
Ba là, trên cơ sở truy tố của VKS, tòa án tiến hành giải quyết vụ án
bằng việc ra bản án, quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội,
hình phạt và các biện pháp tư pháp khác căn cứ vào các chứng cứ đã được
thẩm tra tại phiên tòa, quan điểm giải quyết vụ án của kiểm sát viên và ý kiến
của những người tham gia tố tụng.
Bốn là, qua việc xét hỏi và tranh luận dân chủ, công khai tại phiên tòa,
hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của
vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa để đưa ra phán quyết cuối cùng.
Năm là, thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai,
giai đoạn xét xử sơ thẩm góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác.

1.1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nghiên cứu các nội dung quy định của Hiến pháp năm 2013 và
BLTTHS năm 2003 hiện hành, có thể nhận thấy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS có tính
bắt buộc với các vụ án hình sự và được tiến hành theo một trình tự nhất định.
Như phần trên đã đề cập, TTHS trải qua nhiều giai đoạn khác nhau do
các cơ quan, chủ thể khác nhau thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan tiến hành tố tụng. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn

18


tiếp sau giai đoạn truy tố, được bắt đầu khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và
quyết định truy tố bị can hoặc bản Cáo trạng của VKS. Các tài liệu, chứng cứ

được thu thập ở các giai đoạn trước được đưa ra xem xét một cách công khai,
toàn diện tại phiên tòa. Các tài liệu, chứng cứ này chính là kết quả của các giai
đoạn TTHS trước đó được Tòa án thẩm tra công khai tại phiên tòa và dùng làm
căn cứ để đưa ra phán quyết về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm.

Mặt khác, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là Tòa án có thẩm
quyền tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện vụ án hình sự trên cơ sở bản
Cáo trạng của VKS. Để đảm bảo việc xét xử sơ thẩm được chính xác, khách
quan, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, cũng như bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân,
BLTTHS năm 2003 quy định trường hợp có kháng cáo, kháng nghị, vụ án có
thể được đưa ra xét xử phúc thẩm và khi có một số điều kiện nhất định, vụ án
có thể được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, việc
một vụ án hình sự đã được xét xử sơ thẩm có được xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố khác mà
không phải là bắt buộc.
Trong bất cứ vụ án hình sự nào dù có một bị cáo hay nhiều bị cáo, dù
bị cáo bị truy tố về tội ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, về một hay
nhiều tội danh cũng đều phải diễn ra theo một trình tự, thủ tục nhất định theo
quy định của BLTTHS. Do là một giai đoạn trong TTHS nên việc xét xử sơ
thẩm đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Các thủ tục khác có thể có, có thể không, nhưng xét xử sơ thẩm là lần
đầu, do đó, là thủ tục bắt buộc.
Thứ hai, tất cả các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, VKS thu
thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và các chứng cứ khác có được thông qua
hoạt động xét xử đều được xem xét một cách công khai, toàn diện tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự với sự có mặt đầy đủ của những người tham gia tố tụng.

19



Tại phiên tòa sơ thẩm, những người THTT và người tham gia tố tụng
được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều
mà tại CQĐT, VKS họ không có điều kiện để thực hiện. Nói cách khác, xét xử
sơ thẩm chỉ được tiến hành khi CQĐT đã điều tra vụ án, VKS đã truy tố bị
can trước tòa án bằng bản cáo trạng. Do đó, xét xử sơ thẩm là một công đoạn
trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
Thứ ba, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có kết quả là một bản án, quyết
định công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Các phán quyết của Tòa án được xem xét, đánh giá trên cơ sở những
chứng cứ đã thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và những chứng cứ thu thập
tại phiên tòa. Đồng thời phán quyết của Tòa án còn dựa trên kết quả tranh tụng
dân chủ, công khai và bình đẳng giữa các bên để nhằm đưa ra một phán quyết có
căn cứ, công minh và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Phán quyết của tòa án là phán quyết về bản chất của
vụ án (bao gồm: bị cáo có phạm tội hay không, hậu quả pháp lý về hình phạt,
biện pháp tư pháp khác hay quyết định khác mà bị cáo phải chịu…) trên cơ sở
tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hình sự (về tội phạm và hình phạt)
pháp luật TTHS (về tư cách tố tụng, chứng cứ, thẩm quyền xét xử…).
Thứ tư, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần duy trì, bảo vệ công lý,
khôi phục công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi của công dân. Phán quyết của Tòa
án có căn cứ, công minh, đúng pháp luật còn góp phần vào việc xử lý triệt để,
toàn diện và dứt điểm vụ án hình sự, qua đó hạn chế được lượng án phải giải
quyết ở cấp phúc thẩm. Việc đưa ra xét xử công khai, nghiêm minh và dân chủ
vụ án hình sự còn góp phần bảo đảm sự thượng tôn của pháp luật, duy trì công
lý, đem lại công bằng trong xã hội, đảm bảo tính pháp chế của pháp luật.

Việc xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo đúng quy định của pháp
luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã góp phần bảo vệ chế độ,
pháp chế XHCN; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và


20


lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm. Thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai, giai
đoạn xét xử sơ thẩm còn thực hiện chức năng tuyên truyền phổ biến pháp luật,
giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, tôn
trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác.
1.2. KHÁI NIỆM KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM

1.2.1. Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân và chức năng kiểm sát
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự


Việt Nam, thiết chế Viện công tố, sau này là VKS ra đời và phát

triển cùng với quá trình thành lập và phát triển của Nhà nước cách mạng. Trải
qua hơn 60 năm, ở nước ta đã tồn tại cả hai mô hình: Viện công tố và VKS.
Mô hình Viện công tố đã từng tồn tại ở Việt Nam do người Pháp du nhập
vào sau khi xâm lược Việt Nam. Mô hình này tiếp tục tồn tại sau Cách mạng
tháng 8/1945. Từ năm 1945 đến năm 1950, hệ thống cơ quan công tố nằm trong
hệ thống Tòa án, thực hiện nhiệm vụ nhân danh Nhà nước buộc tội bị cáo trước
phiên tòa (trên cơ sở đó hình thành hệ thống Thẩm phán đứng hay Thẩm phán
buộc tội trong hệ thống Tòa án). Kết quả cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất diễn
ra vào năm 1950 cũng đưa lại một số thay đổi đối với tổ chức và hoạt động của
cơ quan Công tố. Theo đó, cơ quan công tố tỉnh chịu sự lãnh đạo của Ủy ban
kháng chiến hành chính tỉnh, vai trò của Viện công tố trong quá trình giải quyết

việc hộ (việc dân sự) của Tòa án được tăng cường. Sau hòa bình lập lại ở miền
Bắc, năm 1958, hệ thống cơ quan công tố được tách khỏi Tòa án, hình thành hệ
thống cơ quan công tố độc lập trực thuộc Chính phủ (gồm: Viện công tố Trung
ương, Viện công tố phúc thẩm khu vực, Viện công tố tỉnh, Viện công tố huyện),
bên cạnh chức năng công tố, còn được giao thực hiện chức năng giám sát hoạt
động tư pháp (giám sát điều tra, giám sát xét xử, giám sát

21


giam, giữ, cải tạo). Tuy nhiên, chưa đầy 2 năm sau, mô hình Viện công tố chấm
dứt tồn tại. Vào thời điểm năm 1959 - 1960, cách mạng nước ta bước vào giai
đoạn phát triển mới - giai đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở Miền Nam, vừa tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật
phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự
nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà
nước, cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không
đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra
Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ
vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
một cách nghiêm chỉnh và thống nhất [33].

Trên cơ sở đó, VKSND được hình thành khởi đầu bằng việc ban hành
Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960. Việc thành lập
VKSND thay cho Viện Công tố là xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc
chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta. Cách mạng đã chuyển giai đoạn thì tất
yếu bộ máy nhà nước cũng phải có những thay đổi phù hợp để đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ mới.

Việc thành lập VKSND ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN trước
đây là sự áp dụng tư tưởng của V.I. Lênin về tổ chức và hoạt động của VKS được
trình bày trong tác phẩm "Bàn về chế độ song trùng và pháp chế" vào điều kiện
cụ thể của nước ta. Có thể nói rằng, những tư tưởng của Lênin về cơ quan VKS
trình bày trong tác phẩm này đã trở thành cơ sở lý luận cơ bản cho việc xây dựng
hệ thống VKS ở các nước XHCN trước đây và ở Việt Nam từ năm 1960.

Theo Lênin, pháp chế thì phải thống nhất, pháp chế không thống nhất
thì không thể nào tiến hành công cuộc cách mạng XHCN, không thể bảo vệ và
củng cố được chính quyền cách mạng. Yếu tố cản trở mạnh mẽ nhất, trực

22


tiếp nhất đến sự thống nhất của pháp chế XHCN chính là bệnh cục bộ, bản vị,
địa phương chủ nghĩa. Muốn đấu tranh chống lại một cách có hiệu quả chủ
nghĩa cục bộ địa phương, nhất thiết phải thành lập VKS.
Về mặt tổ chức và hoạt động của VKS, theo quan điểm của Lênin, để
cơ quan này có đủ điều kiện thực hiện quyền và làm tròn bổn phận nêu trên,
phải bác bỏ chế độ trực thuộc "song trùng". Phải quy định cho VKS địa
phương chỉ phụ thuộc vào Trung ương và để cho VKS có quyền và bổn phận
kháng nghị đối với bất kỳ quyết định nào của các cơ quan chính quyền địa
phương về phương diện pháp chế của các nghị quyết và quyết định đó, nhưng
không có quyền đình chỉ việc thi hành các nghị quyết và quyết định đó, mà
chỉ có quyền đưa các vụ án ra trước Tòa án. Xuất phát từ những yêu cầu
khách quan của giai đoạn cách mạng mới, quán triệt tư tưởng của Lênin về
VKS, Hiến pháp năm 1959 của Nhà nước ta đã dành bốn điều quy định các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND.
Theo Hiến pháp 1959, ngoài chức năng Công tố, VKSND còn có chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính

phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công
dân. Về tổ chức và hoạt động, VKSND các cấp chịu sự lãnh đạo của VKSND
cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của VKSNDTC. Và "Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời
gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban
thường vụ quốc hội" [46].
Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND
được quy định trong Hiến pháp, ngày 26/7/1960, Nhà nước ta công bố Luật tổ
chức VKSND, thành lập hệ thống cơ quan VKSND trong bộ máy nhà nước ta, từ
trung ương đến đơn vị hành chính cấp huyện và các VKS quân sự.

Theo Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1960, VKSND thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình bằng các công tác cụ thể sau: a) Kiểm sát việc tuân

23


theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp
của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa phương,
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các nhân viên cơ quan nhà nước và công
dân; b) Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Tòa án
nhân dân những người phạm pháp về hình sự; c) Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra của cơ quan công an và các cơ quan điều tra khác; d)
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ của trại giam; e) Khởi
tố hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích
của Nhà nước và nhân dân.
Cải cách tư pháp lần thứ tư đã mang lại những kết quả làm thay đổi
căn bản vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố ở nước ta.
Đây thực sự là sự thay đổi về chất chứ không chỉ đơn thuần ở sự thay đổi tên
gọi của cơ quan công tố, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, về mặt tổ chức, cơ quan

công tố không còn trực thuộc vào hệ thống các cơ quan hành pháp như trước
đây nữa, mà trở thành một hệ thống cơ quan độc lập - hệ thống cơ quan
VKSND - chịu sự giám sát của Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất ở nước ta); thứ hai, trong tổ chức và hoạt động của mình, VKSND phải
tuân theo nguyên tắc tập trung thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng
VKSNDTC và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà
nước nào ở địa phương; thứ ba, VKSND không chỉ có chức năng thực hành
quyền công tố mà thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Sau khi thống nhất đất nước, năm 1975, trên cơ sở đường lối và nhiệm
vụ cách mạng được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(năm 1976), Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980, trong đó, tiếp tục
ghi nhận chức năng của VKSND là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ
quan nhà nước từ cấp Bộ trở xuống, các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân, các nhân viên nhà nước và công dân, mà còn đặc biệt nhấn mạnh chức

24


năng thực hành quyền công tố của VKSND và khẳng định rõ hơn vai trò và
trách nhiệm của Viện trưởng VKSND các cấp, đặc biệt là của Viện trưởng
VKSNDTC. Từ năm 1987, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện.
Tiếp thu tinh thần chỉ đạo xây dựng Hiến pháp tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ
hai ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 04/12/1991, ngày
15/4/1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp
năm 1992. Tuy có một số quy định mới, nhưng về cơ bản, Hiến pháp năm
1992 vẫn giữ nguyên quy định về chức năng cũng như tổ chức bộ máy của hệ
thống cơ quan VKSND.
Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được
tiến hành, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình cải cách bộ

máy nhà nước. Đại hội khẳng định việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, nhằm xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với vấn
đề cải cách thể chế và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nếu rõ phải
cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp,
nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác
điều tra, bắt, giam, giữ, xét xử, thi hành án, không để xảy ra trường hợp oan,
sai. VKSND thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Ngày 19 tháng 11 năm 2001, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX đã ra kết luận về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp năm 1992, nêu rõ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải quán triệt quan
điểm là tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị
và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 của Đảng
và Hiến pháp năm 1992, đồng thời xác định trọng tâm là sửa đổi, bổ sung một
số điều về tổ chức bộ máy nhà nước để làm cơ sở cho việc tiếp tục cải cách bộ
máy nhà nước. Hội nghị đã kết luận: Cần sửa đổi, bổ sung

25


×