Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

[ Bản Full ] Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định) Luận văn ThS. Luật học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 120 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT




THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2014



2

đại học quốc gia hà nội
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT




THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt




HÀ NỘI - 2014


3



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Bạch Tuyết












4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng



Danh mục các biểu đồ


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
11
1.1.
Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
11
1.1.1.
Khái niệm chung về thẩm quyền
11
1.1.2.
Khái niệm thẩm quyền xét xử
12
1.2.
Căn cứ phân định thẩm quyền đối với Tòa án nhân dân
15
1.2.1.
Căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng
15
1.2.2.
Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của
hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp
nói riêng

17
1.2.3.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tội
phạm hay vụ án, các đặc điểm nhân thân người phạm tội
18
1.2.4.
Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử
19
1.2.5.
Căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền xét xử với các chế
định khác của tố tụng hình sự
20
1.2.6.
Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt
động tố tụng khác
21
1.2.7.
Căn cứ vào sự bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân và những người tham gia tố tụng
22
1.2.8.
Căn cứ vào tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng và
chống tội phạm
22

5
1.3.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng
hình sự Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay

23
1.3.1
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi
pháp điển hóa lần thứ nhất Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988
23
1.3.2
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988 đến nay
35

Chương 2: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
40
2.1.
Thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân theo Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam năm 2003
40
2.1.1.
Thẩm quyền xét xử theo sự việc
40
2.1.2.
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
48
2.1.3.
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
51
2.1.4.

Thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án
53
2.1.5.
Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
56
2.1.6.
Một số quy định khác liên quan đến thẩm quyền xét xử
58
2.2.
Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự
của một số nước trên thế giới
61
2.2.1.
Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự
trung Hoa
61
2.2.2.
Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự
Liên bang Nga
62
2.2.3.
Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình
sự Malaysia
64
2.2.4.
Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Canada
65
2.2.5.
Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự
Nhật Bản

66

6
2.2.6.
Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Pháp
68

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM
ĐỊNH, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU CẢI
CÁCH TƯ PHÁP
72
3.1.
Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
trên địa bàn tỉnh Nam Định
72
3.1.1.
Kết quả của việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Nam Định
72
3.1.2
Những hạn chế, vướng mắc
87
3.2.
Giải pháp hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về
thẩm quyền của Tòa án
90

3.2.1.
Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử
90
3.2.2.
Những kiến nghị cụ thể
91
3.3.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa
án trước yêu cầu cải cách tư pháp
95
3.3.2.
Nâng cao chất lượng đội ngũ những người tiến hành tố tụng
trong Tòa án
97
3.3.3.
Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, chính sách
tiền lương
101
3.3.4.
Cải cách tổ chức và hoạt động phối hợp giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng, khi thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của cải
cách tư pháp
104
3.3.5.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp
104

KẾT LUẬN
106


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
108

7



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX
: Hội đồng xét xử
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TAQS
: Tòa án quân sự
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa

8



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
3.1
Tình hình xét xử của Tòa án hai cấp tỉnh Nam Định từ
2009-2013
74
3.2
Tình hình xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án hai cấp
tỉnh Nam Định từ 2009-2013
75




DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ

Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
3.1
Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án
cấp huyện (tỉnh Nam Định) từ 2009-2013
77
3.2

Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án
cấp tỉnh (tỉnh Nam Định) từ 2009-2013
78
3.3
Tình hình án sửa, hủy của Tòa án cấp phúc thẩm TAND
tỉnh Nam Định từ 2009 - 2013
79


9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, để đáp ứng các yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa, Đảng và Nhà nước ta đã
triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm tăng cường khả năng thực thi của các
cơ quan công quyền Việt Nam.
Việc cải cách nền hành chính tư pháp đã được Bộ Chính trị chỉ đạo
thông qua Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và nhất là Nghị quyết
số 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"
đã đề cập một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề về cải cách tư pháp trong
tình hình mới. Trong đó nhấn mạnh Tòa án có vai trò trung tâm trong hệ thống
các cơ quan tư pháp và nâng cao chất lượng hoạt động xét xử là trọng tâm.
Tòa án là công cụ của giai cấp cầm quyền trong xã hội, là trung tâm
và là hệ thống cấu thành quan trọng nhất của bộ máy quyền lực nhà nước, là
cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là phương thức để Nhà nước xác
lập quyền uy của mình đối với xã hội, nhân danh Nhà nước Tòa án là cơ quan
xét xử, mọi vi phạm pháp luật đến mức bị coi là tội phạm và phần lớn các
tranh chấp phát sinh trong xã hội phải được giải quyết thông qua Tòa án.
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ

quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp" [30]. So với Hiến pháp năm 1992 thì đã được bổ sung thêm nội dung
"Thực hiện quyền tư pháp". Đây là điểm rất mới thể hiện sự thể chế hóa chủ
trương đổi mới của Đảng trong tiến trình cải cách tư pháp. Như vậy, trong
toàn bộ hệ thống chính trị chỉ có Tòa án có chức năng xét xử và thực hiện
quyền tư pháp [14]. Quyền tư pháp đồng nhất với chức năng xét xử. Có thể
nói, đây là một cuộc cải cách quan trọng, với việc đặt Tòa án vào đúng vị trí
trung tâm của hoạt động tư pháp, với nhiệm vụ trọng tâm là xét xử và thiết lập

10
cơ chế kiểm soát tư pháp do Tòa án thực hiện đối với tất cả hoạt động tham gia
thực hiện quyền tư pháp, nhằm bảo đảm và bảo vệ hiệu quả quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong các quá trình tố tụng tư pháp.
Với vị trí, vai trò Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư
pháp, khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Tòa án có nhiệm vụ
bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân" [30]. Bằng hoạt động của mình, Tòa án bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa (XHCN), bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của công dân. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp
phần giáo dục công dân ý thức pháp luật, tham gia vào cuộc đấu tranh phòng
ngừa tội phạm.
Trong các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án, việc
phân định thẩm quyền rất quan trọng, chiếm vị trí trung tâm trong tố tụng
hình sự. Việc xác định chính xác thẩm quyền của Tòa án tránh được sự chồng
chéo khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Giúp các đơn vị Tòa án chủ động
công việc, tránh hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm. Thẩm quyền càng được
phân định rõ ràng sát với thực tế bao nhiêu càng đảm bảo cho việc xét xử
được khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Xác định đúng
đắn thẩm quyền xét xử của Tòa án nói chung, thẩm quyền của các đơn vị Tòa

án nhân dân (TAND) nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm chất
lượng, hiệu quả xét xử của hệ thống TAND các cấp, bảo đảm giải quyết vụ án
đúng chức năng, nhiệm vụ, xét từ góc độ pháp lý cũng như từ góc độ chính
trị, xã hội. Có thể nói thẩm quyền xét xử của TAND luôn là vấn đề được quan
tâm hàng đầu ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).
Hiện nay, vẫn còn sự nhận thức khác nhau về vai trò của TAND trong
hệ thống cơ quan nhà nước, dẫn đến có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm

11
quyền của TAND. Có quan điểm cho rằng "Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết
các vi phạm pháp luật tương đối nghiêm trọng, còn các vi phạm pháp luật nhỏ thì
thuộc về thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước" [33, tr. 15].
Tuy nhiên, theo quan điểm này sẽ tạo ra sự không rành mạch trong tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước, có nguy cơ dẫn đến độc đoán, vi phạm quyền
tự do, dân chủ của công dân, ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân vào công lý.
Bởi vì, cơ quan hành chính nhà nước hoạt động chủ yếu theo nguyên tắc hành
chính mệnh lệnh, quyền uy, phục tùng, còn Tòa án hoạt động theo nguyên tắc
độc lập, tuân theo thủ tục tố tụng công khai, dân chủ. Bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án. Xu thế chung hiện nay thẩm quyền của Tòa án càng ngày
càng được mở rộng thêm. Trước mắt, vấn đề liên quan nhiều đến quyền con
người như áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, hoặc đối với các
tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất là vấn đề nhạy cảm, có nhiều khó
khăn vướng mắc đã giao về cho Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết
trong mọi trường hợp, nếu đương sự lựa chọn khởi kiện đến Tòa án.
Ngành TAND với chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan thực hiện
quyền tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đề ra nhiều giải pháp
đổi mới, với những bước đi thích hợp. Một trong các bước đi đó là bố trí sắp
xếp lại hệ thống tổ chức và phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các
cấp, với phương châm kiện toàn đến đâu mở rộng thẩm quyền đến đó. Thông

qua hoạt động thực tiễn cho thấy một số quy định trước đây về thẩm quyền
của TAND các cấp có nhiều điểm bất cập, gây khó khăn cho hoạt động xét xử
của TAND. Đặc biệt, sự phân chia thẩm quyền xét xử giữa TAND cấp huyện
và TAND cấp tỉnh không khoa học, hợp lý dẫn đến tình trạng quá tải các loại
án ở TAND cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC),
trong khi hoàn toàn có thể chia sẻ nhiệm vụ cho TAND cấp huyện. Mặt khác,
đứng trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp,
các quy định về thẩm quyền của Tòa án cũng phải thay đổi, hoàn thiện, bổ

12
sung cho phù hợp. Vì vậy, BLTTHS sửa đổi bổ sung thông qua ngày 26/11/2003
có hiệu lực ngày 01/7/2004 đã quy định lại thẩm quyền của TAND các cấp,
đã góp phần khắc phục tình trạng tồn đọng án, hạn chế những sự lãng phí, tốn
kém không cần thiết, TANDTC tập trung hơn vào công tác tổng kết kinh
nghiệm và hướng dẫn công tác xét xử.
Mặc dù, vấn đề thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự của TAND các
cấp đã có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, việc coi trọng và tiếp tục
nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành vấn đề thẩm quyền xét xử của TAND, thực
tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
những quy định đó trước yêu cầu cải cách tư pháp là việc làm có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Đồng thời, với mong muốn thông qua
việc nghiên cứu tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền
xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Nam Định, sẽ góp phần vào việc nâng cao
chất lượng công tác xét xử án hình sự của Tòa án hai cấp tỉnh Nam Định, đó
chính là những lý do, luận chứng cho sự cần thiết để tôi lựa chọn đề tài
"Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa
bàn tỉnh Nam Định)" làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do thẩm quyền xét xử của TAND là một trong những chế định trọng
tâm, có vị trí, vai trò quan trọng trong luật tố tụng hình sự nên đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh,
phương diện khác nhau như:
* Dưới góc độ luận văn, luận án tiến sĩ luật học có một số công trình
sau: 1) Luận án tiến sĩ luật học "Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp" của
tác giả Nguyễn Văn Huyên, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002; 2) Luận văn

13
thạc sĩ luật học "Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình
sự" của tác giả Nguyễn Văn Tiến, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998; 3)
Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ
án hình sự trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay" của tác giả Nguyễn
Hữu Tuấn, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 4) Khóa luận tốt
nghiệp "Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự
trước yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư, 2006 v.v…
* Dưới góc độ đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình sau: 1)
Đề tài khoa học cấp Bộ "Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát
hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC), 2007; 2) TS. Nguyễn Văn Hiện (Chủ nhiệm đề tài), "Vấn đề tổ
chức phiên tòa và việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên
tòa của Tòa án nhân dân", Đề tài khoa học cấp Bộ, TANDTC, Hà Nội, 1999;
3) TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy (Chủ nhiệm đề tài) (2005), "Cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc áp dụng các quy định của việc áp dụng các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử vụ án
hình sự", Đề tài khoa học cấp Bộ, TANDTC, Hà Nội, 2005; v.v
* Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có
đề cập đến thẩm quyền xét xử của TAND như: 1) "Nâng cải cách hệ thống
Tòa án trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam" của

GS.TSKH. Lê Cảm (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2001); 2) GS.TS.
Hoàng Văn Hảo "Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà
nước" 3) GS.TS. Trần Ngọc Đường "Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân"; trong cuốn "Tìm hiểu về đổi mới tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà
nước theo Hiến pháp năm 1992", Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994; 4)
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, "Tố tụng, tranh tụng và vấn đề cải cách tư pháp
ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền", Trong cuốn
chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà

14
nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; 5) PGS.TS. Phạm Hồng
Hải, "Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp", Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 1/2001; 6) TS. Vũ Gia Lâm, "Hoàn thiện một số quy
định về xét xử sơ thẩm hình sự", Tạp chí TAND, số 18 (9)/2006; 7) TS. Từ
Văn Nhũ, "Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa hình sự", Tạp chí TAND, số (10 +11)/2002; 8) PGS.TS. Nguyễn
Thái Phúc (2009), "Đổi mới phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp", Nhà nước và pháp luật, số 2/2009; 9) ThS. Đinh Văn Quế,
"Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm", Tạp chí
TAND, số 8/2004; 10) Trịnh Tiến Việt, "Tranh tụng và vấn đề nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự", Tạp chí Nghề luật, số 5/2003; v.v
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về thẩm quyền xét xử
của TAND. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quan có thể thấy: Những nghiên
cứu về thẩm quyền xét xử của TAND mới chỉ dừng lại ở các công trình
nghiên cứu về một số vấn đề trong chế định thẩm quyền xét xử của TAND,
hoặc là được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu
khác, phân biệt với thẩm quyền của các cơ quan nhà nước khác. Nhất là sau
khi có BLTTHS năm 2003, vấn đề thẩm quyền xét xử của TAND chưa được
triển khai nghiên cứu một cách tổng quan, đánh giá lý luận và tổng kết thực

tiễn để tương xứng với vai trò, vị trí là chế định trọng tâm trong luật tố tụng
hình sự. Và cho đến nay, chưa có tác giả nào nghiên cứu thực tiễn thực hiện
thẩm quyền xét xử về hình sự tại địa bàn tỉnh Nam Định
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp" (trên cơ
sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.

15
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
thẩm quyền xét xử của TAND theo luật tố tụng hình sự Việt Nam dưới khía
cạnh lập pháp tố tụng hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận
văn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử của
TAND, trước yêu cầu cải cách tư pháp. Đồng thời, đề xuất những biện pháp
bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét
xử của Tòa án, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật
về thẩm quyền xét xử của TAND trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ:
- Khái niệm, căn cứ phân định thẩm quyền xét xử của TAND;
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển về thẩm quyền xét xử của
TAND trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau cách mạng
tháng 8 năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong
BLTTHS hiện hành của Việt Nam, BLTTHS của các nước trên thế giới từ đó
rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về thẩm

quyền xét xử của TAND trên địa bàn tỉnh Nam Định. Đồng thời, phân tích
làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc thực hiện và những nguyên
nhân cơ bản của nó;
- Đề xuất những định hướng và kiến nghị việc hoàn thiện các quy định
về thẩm quyền xét xử của TAND trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, cũng
như những giải pháp bảo đảm thực hiện, nâng cao hiệu quả thực hiện các quy
định này trong thực tiễn.

16
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh thẩm
quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với
việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thẩm quyền trong
thực tiễn xét xử của các đơn vị TAND thuộc tỉnh Nam Định và tìm ra nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật
thực định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của
BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án, nâng cao hiệu quả thực
hiện các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong thực tiễn.
Phạm vi của luận văn chỉ nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của TAND
các cấp, không bao gồm Tòa án quân sự (TAQS) khu vực và TAQS quân khu.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định
về thẩm quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trong
05 năm (2009 - 2013).
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, về chính sách pháp luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải
cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X
và các Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW về "Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020" của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù như: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp
so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương
pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa
học Luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên
cứu trong luận văn.

17
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi có
BLTTHS năm 2003 và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về
thẩm quyền xét xử của TAND theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu
cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định),
trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan
tới thẩm quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Do đó, những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thẩm
quyền xét xử của TAND để xây dựng nên khái niệm về thẩm quyền xét xử
của TAND, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các căn cứ để
phân định thẩm quyền xét xử của TAND;
- Nghiên cứu chỉ ra những điểm khái quát về lịch sử quá trình hình
thành và phát triển của các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá các quy định về Thẩm quyền xét xử của
TAND trong BLTTHS Việt Nam và BLTTHS một số nước trên thế giới;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các
quy định về thẩm quyền xét xử của TAND của các đơn vị TAND tại tỉnh
Nam Định; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng các quy định về thẩm

quyền xét xử của TAND, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn
tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở
Việt Nam.

18
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên
thế giới.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân trên địa bàn tỉnh Nam Định, hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo
đảm thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam, trước yêu cầu cải cách tư pháp.


19
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền
Ở thời kỳ cổ đại, với quan niệm ấu trĩ về tính tất yếu của sự bất bình
đẳng giữa các giai cấp trong xã hội về quyền thống trị tối cao tuyệt đối của
giai cấp thống trị đối với giai cấp nô lệ và dân thường, giải thích nguồn gốc
sức mạnh của quyền lực bằng hào quang thiêng liêng của Thượng đế. Quyền
lực của vua chúa không bị hạn chế. Khắp nơi thịnh hành học thuyết "Đặc miễn
quốc gia", theo đó Nhà nước làm ra pháp luật thì phải đứng trên pháp luật.
Mặc dù với điều kiện sống và nhận thức còn nhiều hạn chế, song một
số nhà tư tưởng đã nhận thức được tình trạng lạm quyền một cách tùy tiện,
thái quá của giai cấp thống trị, họ đã có những ý niệm mơ hồ về mối quan hệ
giữa Nhà nước và pháp luật. Họ mơ ước có một xã hội công bằng, dân chủ,
không có bóc lột. Chính những mơ ước đó đã đặt nền móng cho các nhà tư
tưởng hình thành dần một học thuyết về Nhà nước pháp quyền, mong muốn
loại bỏ Nhà nước chuyên quyền, độc đoán [19, tr. 20].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khi xây dựng học thuyết
của mình về Nhà nước kiểu mới đã kế thừa những tư tưởng trước đó kết hợp
với tình hình đấu tranh thực tế để đưa ra quan điểm "Quyền lực nhà nước là
thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân". Nhân dân được hưởng
mọi quyền dân chủ, có quyền làm những việc pháp luật không cấm và có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua cơ
quan đại diện là Quốc hội. Quốc hội có quyền lập hiến và lập pháp. Quyền
hành pháp thuộc về Chính phủ, là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất


20
của quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp do Tòa án và Viện kiểm sát thực
hiện. Hoạt động của ba hệ thống cơ quan này đều thống nhất, nhân danh Nhà
nước, nhằm mục tiêu chung phục vụ lợi ích của dân tộc. Mỗi cơ quan nhà
nước có những quyền hạn, nhiệm vụ khác nhau do luật định. Việc phân công
quyền lực giúp cho việc giải quyết công việc không bị chồng chéo và hoạt
động của các cơ quan được vận hành một cách hợp lý. Phạm vi hoạt động và
quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước do luật định được hiểu là thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước.
Theo Từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền là "Quyền chính thức được xem
xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề theo pháp luật" [54, tr. 854].
Theo định nghĩa của Từ điển Luật học thì thẩm quyền được hiểu là quyền
chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề.
Thuật ngữ về thẩm quyền của Việt Nam xét về nghĩa nói chung giống với
nghĩa trong tiếng nước ngoài, nhưng cách sử dụng thuật ngữ có nhiều điểm
khác biệt nhất định. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm quyền, tuy
nhiên, tựu trung lại đều được hiểu "Thẩm quyền" là khả năng của chủ thể
trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt một công việc nào đó trên cơ
sở chuẩn mực pháp luật đã định trước.
Tóm lại, dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên
cứu được định nghĩa như sau: Thẩm quyền là tổng thể các quyền mà pháp
luật quy định cho một chủ thể nhất định được thực hiện công việc trong một
lĩnh vực, một phạm vi nhất định.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thẩm quyền xét
xử, theo Từ điển Luật học thì:
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của
các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước
được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên


21
đều phải thông qua xét xử. Không ai có thể bị buộc tội mà không
qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố
công khai bằng bản án
Thẩm quyền xét xử của Tòa án là một quyền chuyên biệt
được trao riêng cho Tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan
khác, thẩm quyền xét xử là quyền chính thức của Tòa án, không
phân biệt phân cấp, phân vùng lãnh thổ [53, tr. 701].
Trong khi đó, theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng thì
"Xét xử là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xét xử các chứng cứ và căn
cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa
án" [18, tr. 450].
Xét riêng trong pháp luật tố tụng hình sự, thẩm quyền của Tòa án các
cấp là một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng được phân định rõ ràng,
khoa học, sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan,
chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật bấy nhiêu. Chính vì thế,
trong quá trình hoàn thiện pháp luật nước ta nói chung và hoàn thiện pháp luật
tố tụng hình sự nói riêng, các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử
của Tòa án các cấp luôn được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi ban hành.
BLTTHS của nước ta đã ra đời khá sớm, qua nhiều lần sửa đổi, các quy định
về thẩm quyền xét xử của Tòa án tương đối đầy đủ. Tại khoản 1 Điều 102
Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định: "Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp" [30]. Quyền xét xử thuộc về Tòa án được hiểu
là thẩm quyền xét xử.
So sánh với một số thuật ngữ nước ngoài tương đương, thuật ngữ
thẩm quyền xét xử được sử dụng trong tiếng Việt cũng có nhiều điểm tương
đồng và khác biệt nhất định. Trong Từ điển Luật của Anh, người ta dùng
thuật ngữ Jurisdiction để chỉ thẩm quyền hoặc quyền tài phán, tức là quyền


22
lắng nghe và phán quyết một vụ việc nào đó của Tòa án. Trong Từ điển Luật
học của Mỹ, thẩm quyền được hiểu là khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ
quan công quyền xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật. Điểm
chung về thẩm quyền của Tòa án đều được các nước thừa nhận là quyền xem
xét giải quyết các vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn
trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó. Quyền xem xét giải
quyết vụ việc và quyền ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó là hai nội
dung quan trọng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền
của Tòa án.
Việc kết tội một công dân có ảnh hưởng rất lớn đến đến danh dự, nhân
quyền, tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do
vậy, Tòa án được quy định là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án
hình sự và Tòa án cũng là cơ quan duy nhất có quyền thay mặt Nhà nước
tuyên bố một người có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội. Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định: "Không ai bị coi là có
tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật" [28].
Việc xét xử của Tòa án hoàn toàn khác biệt với biện pháp xử lý của cơ
quan hành chính, bởi lẽ: Hoạt động xét xử được áp dụng những chế tài, kể cả
hình phạt và việc xét xử được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ được quy
định trong pháp luật tố tụng. Do vậy, hiệu lực các phán quyết của Tòa án cũng
cao hơn các biện pháp xử lý hành chính khác.
Khi xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án, cần phải xác định đồng
thời ba nhóm dấu hiệu là: Những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức
tạp của tội phạm hoặc vụ án; những dấu hiệu về không gian, thời gian thực
hiện tội phạm; những dấu hiệu liên quan đến đối tượng phạm tội. Chỉ trên cơ
sở xem xét đầy đủ cả ba nhóm dấu hiệu nêu trên mới có thể xác định thẩm
quyền xét xử được chính xác.


23
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử của Tòa án
như sau: Thẩm quyền xét xử của Tòa án là tổng hợp các quyền theo quy định
của pháp luật để Tòa án giải quyết các tranh chấp trong xã hội thông qua
việc xem xét, đánh giá, phán quyết có tính cưỡng chế của Nhà nước.
Và thẩm quyền xét xử về hình sự là: Quyền của Tòa án được xét xử vụ
án hình sự do pháp luật tố tụng hình sự quy định dựa trên cơ sở dấu hiệu về
tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính phức tạp của vụ án, địa
điểm xảy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội. Trong phạm vi
luận văn, tôi chỉ xin đề cập đến thẩm quyền xét xử về hình sự của các cấp TAND.
1.2. CĂN CỨ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN ĐỐI VỚI TÒA ÁN NHÂN DÂN
Nếu quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp không phù
hợp sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực như: Chất lượng hiệu quả hoạt động tư
pháp hình sự bị hạn chế; tình trạng quá tải tại cấp xét xử nào đó khiến án bị
tồn đọng; chi phí cho hoạt động tư pháp cao; vi phạm các quyền tự do dân chủ
của công dân Song, muốn quy định thẩm quyền được chính xác phải dựa
vào những căn cứ vừa mang tính khoa học vừa bảo đảm yếu tố thực tiễn. Các
căn cứ càng cụ thể, chi tiết thì quy định thẩm quyền càng chính xác. Việc
nghiên cứu lý luận và thực tiễn lập pháp cho thấy, hầu hết các ý kiến tập trung
vào việc căn cứ trình độ năng lực của Thẩm phán, số lượng án hàng năm ở
các cấp để đề nghị phân định thẩm quyền. Nhìn chung, các quan điểm đều có
nhiều yếu tố hợp lý. Song mỗi quan điểm lại có những hạn chế nhất định, vẫn
còn đề cập đến vấn đề căn cứ phân định thẩm quyền một cách đơn giản và
phiến diện. Cần thiết phải có sự đầu tư nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
để kịp thời điều chỉnh các quy định về thẩm quyền cho phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của xã hội. Theo chúng tôi có thể dựa vào các căn cứ sau để
phân định thẩm quyền của TAND các cấp.
1.2.1. Căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra đường


24
lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ nhất định và sử dụng pháp luật
như một công cụ hữu hiệu để thể chế hóa các quan điểm, đường lối chính
sách của Đảng đi vào cuộc sống. Chúng ta đang trong tiến trình nghiên cứu để
ngày càng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác Tòa án.
Chánh án TAND cấp tỉnh tham gia cấp ủy địa phương hoặc tham gia Ban
thường vụ cấp tỉnh, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ đối với các Tòa án về chính
trị, tổ chức và cán bộ, kiện toàn tổ chức Đảng phù hợp với hệ thống tổ chức
Tòa án theo mô hình mới. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chăm lo công
tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ
quan Tòa án. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án
không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước. Vấn đề thẩm
quyền xét xử và việc phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các cấp
luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp
nói chung và đổi mới tổ chức hoạt động của ngành Tòa án nói riêng. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã
đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó
xác định: " Nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp
huyện theo hướng việc xét xử được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa
án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm". Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX cũng nêu rõ: "Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, phân định hợp
lý thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp". Bước sang thế kỷ thứ XXI,
nước Việt Nam đang có những bước tiến vô cùng mạnh mẽ, nhiệm vụ cải
cách tư pháp, cải cách hệ thống Tòa án trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị
quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới". Tiếp đến là Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ
Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã thể hiện sự
quyết tâm của Đảng và Nhà nước về sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống Tòa
án. Đó chính là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng BLTTHS năm


25
2003, trong đó có việc xây dựng những quy định về thẩm quyền xét xử các vụ
án hình sự của TAND.
1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức
của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng
Nhà nước ta được chia theo ba cấp đơn vị hành chính lãnh thổ: Cấp
tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện (quận, huyện, thành
phố thuộc tỉnh và thị xã); cấp xã (xã, phường, thị trấn). Dựa theo sự phân chia
này, hệ thống Tòa án cũng được tổ chức từ trung ương đến cấp huyện gồm
TANDTC, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện, khác với các cơ quan khác
hệ thống Tòa án chỉ có đến cấp huyện, quận và mối quan hệ giữa Tòa án các
cấp không phải là mối quan hệ phục tùng, chỉ đạo mà chỉ là mối quan hệ theo
thẩm quyền. Mối quan hệ này đảm bảo cho các Tòa án xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
Việc phân định thẩm quyền xét xử phải bảo đảm cơ chế giám sát của
các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với các cơ
quan Tòa án. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Ủy ban Tư pháp Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hiện nhiệm vụ
giám sát hoạt động xét xử. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin
đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin chính xác, khách quan
về hoạt động của Tòa án.
Căn cứ vào cách thức tổ chức hệ thống các cơ quan nhà nước theo
đơn vị hành chính lãnh thổ, căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của các cơ
quan tiến hành tố tụng, BLTTHS năm 2003 đã quy định về thẩm quyền xét xử
cho từng cấp Tòa án. BLTTHS năm 2003 căn cứ vào cách thức tổ chức đó để
quy định thẩm quyền xét xử. Dựa vào thẩm quyền theo luật định mỗi cấp Tòa
án đều có quyền xét xử riêng mà không bị chi phối bởi Tòa án cấp trên. để
phân định thẩm quyền của Tòa án. Việc phân định thẩm quyền như trên
không chỉ đảm bảo tính khoa học về mặt quản lý mà còn phát huy được khả

×