Tải bản đầy đủ (.docx) (128 trang)

Kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.62 KB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH LÝ

KIỂM SOÁT CÁC GIAO DỊCH CÓ KHẢ
NĂNG TƢ LỢI TRONG CÔNG TY CỔ
PHẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH LÝ

KIỂM SOÁT CÁC GIAO DỊCH CÓ KHẢ NĂNG
TƢ LỢI TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

:60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ
chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thanh Lý


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH TƢ LỢI VÀ
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT CÁC GIAO DỊCH CÓ KHẢ NĂNG TƢ LỢI
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.............................................................................. 7
1.1. Tổng quan về kiểm soát các giao dịch có khả năng tƣ lợi trong công ty cổ
phần....................................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần.................7
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần..........11
1.1.3. Ảnh hưởng tiêu cực của giao dịch tư lợi trong công ty cổ phần..............15
1.1.4. Nhu cầu kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần .. 20

1.2. Pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả năng tƣ lợi trong công ty cổ

phần.................................................................................................................... 24
1.2.1. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả năng
tư lợi trong công ty cổ phần.............................................................................. 24
1.2.2. Căn cứ pháp lý xác định các giao dịch có khả năng tư lợi trong cổ ty cổ
phần.................................................................................................................. 26
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi
trong công ty cổ phần....................................................................................... 29
1.3. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về kiềm soát giao dịch có khả năng tƣ
lợi trong công ty cổ phần của một số quốc gia trên thế giới............................ 42
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CÁC GIAO DỊCH CÓ KHẢ
NĂNG TƢ LỢI TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM....................................................................................................................... 46
2.1. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về kiểm soát giao dịch có khả năng tƣ
lợi trong công ty cổ phần ở Việt Nam............................................................... 46
2.1.1. Những giao dịch trong công ty cổ phần được xác định là đối tượng bị
kiểm soát theo pháp luật Việt Nam................................................................... 46
2.1.2. Những quy định về kiểm soát các giao dịch có nguy cơ gây thiệt hại về tài
sản của Nhà nước trong các công ty cổ phần có vốn đầu tư của nhà nước ... 51


2.1.3. Những quy định về điều kiện và tiêu chuẩn của người tham gia quản lý
công ty cổ phần................................................................................................. 55
2.1.4. Những quy định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông và người quản lý
nhằm kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi............................................. 60
2.1.5. Quy định về ranh giới được phép và không được phép tiến hành trong
giao dịch kinh doanh và cơ chế thông qua quyết định của công ty để tránh giao
dịch có khả năng tư lợi..................................................................................... 70
2.1.6. Quy định về chế độ công khai hóa thông tin........................................... 72
2.1.7. Quy định về kiểm soát nội bộ công ty.................................................... 74
2.1.8. Cơ chế xử lý vi phạm trong giao kết và thực hiện giao dịch có khả năng

tư lợi................................................................................................................. 76
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật kiểm soát các giao dịch có khả năng tƣ lợi
trong công ty cổ phần........................................................................................ 77
2.3. Đánh giá các quy định của pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả
năng tƣ lợi trong công ty cổ phần.................................................................... 91
2.3.1. Những điểm tích cực............................................................................... 91
3.2.2. Những điểm còn hạn chế........................................................................ 93
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KIỂM SOÁT CÁC GIAO DỊCH CÓ KHẢ NĂNG TƢ LỢI
TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM............................... 97
3.1. Phƣơng hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát các giao dịch có khả
năng tƣ lợi trong công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam..........................97
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát các giao dịch có khả năng
tƣ lợi trong công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam.................................... 98
3.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm soát giao dịch có khả năng tư
lợi trong công ty cổ phần.................................................................................. 98
3.2.2. Các giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát các
giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần........................................105
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 112


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BKS

: Ban Kiểm soát

CT


: Công ty

CTCP

: Công ty cổ phần

DN

: Doanh nghiệp

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đông

IFC

: Tổ chức Tài chính quốc tế



: Giám đốc

HĐCĐ

: Hội đồng cổ đông


HĐQT

: Hội đồng quản trị

HNX

: Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hà Nội

HOSE

: Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

LDN

: Luật Doanh nghiệp

OECD

: Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

TGĐ

: Tổng Giám đốc

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn



DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH, HỘP

TT
Hình 1.1
Hình 1.2
Bảng 2.1

Hộp 2.1
Hộp 2.2
Hộp 2.3
Hộp 2.4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường, mô hình kinh tế nhiều thành phần hình thành, phát triển đã mang đến cho
nền kinh tế Việt Nam những nét đặc thù rõ rệt so với các nền kinh tế ở các quốc gia
khác trên thế giới. Hệ thống công ty hiện nay của chúng ta là hệ quả tất yếu từ quá
trình chuyển đổi và phát triển kinh tế trong hơn 20 năm qua. Với cấu tạo đa dạng và
phức tạp, hoạt động của công ty nhà nước, công ty tư nhân, công ty có vốn đầu tư
nước ngoài đều có những đặc điểm và mang lại những giá trị riêng, không thể phủ
nhận sức ảnh hưởng mạnh mẽ của công ty đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Ngược lại, nhiệm vụ của Nhà nước là tạo ra những cơ chế điều tiết hiệu quả đối với
các công ty này trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng cho các đối tượng tham
gia vào công ty và vì lợi ích chung của nền kinh tế - xã hội.
Về bản chất công ty chính là một hợp đồng, khi góp vốn vào công ty các thành
viên đã tự nguyện cam kết vào một khế ước chung mà nền tảng là nguyên tắc tự do
kinh doanh, tự do kết ước và tự do lập hội. Một công ty hiệu quả, đạt được mục đích
chung mà các thành viên hướng tới đòi hỏi các thành viên trong công ty phải thiện

chí, thực hiện công việc của công ty như thực hiện công việc của chính bản thân
mình [13] [8]. Xét về mục tiêu thì pháp luật điều chỉnh chung, điều lệ công ty và các
văn bản nội bộ của công ty luôn hướng tới việc làm sao để đạt được những hiệu quả
trên. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành của công ty, không phải lúc nào các thành
viên trong công ty cũng thực hiện đúng thỏa thuận chung và nghĩa vụ của mình.

Thực tế, vấn đề lợi dụng công ty để tư lợi cho bản thân đã và đang diễn ra
ngày càng phức tạp, đáng báo động ở Việt Nam. Luận giải cho thực tế này cũng rất
dễ hiểu bởi kinh doanh vốn là hoạt động đa dạng và phức tạp trong khi nghĩa vụ trên
của các thành viên xuất phát từ nền tảng đạo đức, những đòi hỏi về tính thiện

1


chí, trung thực, cẩn trọng đều rất mơ hồ và khác nhau trong những tình huống khác
nhau. Vì vậy, các thành viên trong công ty rất có thể bỏ qua lợi ích của công ty, của
các chủ sở hữu khác để mưu lợi và thu lợi riêng cho bản thân thông qua các giao
dịch của công ty.
Các giao dịch tư lợi nảy sinh sẽ gây thiệt hại về tài sản, uy tín của công ty, ảnh
hưởng đến quyền lợi của các thành viên công ty, của các chủ thể có quyền lợi liên
quan, kéo theo đó là ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ của công ty khi công
ty không còn đủ tài sản để thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ. Ở phạm vi rộng
hơn, các giao dịch tư lợi làm thất thoát tài sản của Nhà nước và xã hội, dẫn đến
nhiều hệ quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, đạo đức
kinh doanh và nền kinh tế của quốc gia. Do đó, kiểm soát các giao dịch có khả năng
tư lợi là vô cùng cần thiết và cấp bách nhằm bảo vệ lợi ích cho không chỉ bản thân
công ty và các thành viên công ty mà còn đảm bảo quyền lợi của tất cả các chủ thể
tham gia giao dịch với công ty, vì lợi ích chung của quốc gia và toàn xã hội.
Trên thế giới, kiểm soát giao dịch tư lợi không còn là mới mẻ, nhưng pháp luật
Việt Nam chưa có sự quan tâm thích đáng đến vấn đề này trên cả phương diện lý

luận và thực tiễn. Mặc dù, Luật Doanh nghiệp 1999 đã tạo bước khởi đầu cho việc
xác lập cơ chế kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi và cơ chế này được cải thiện
hơn ở Luật Doanh nghiệp 2005. Pháp luật hiện tại về kiểm soát giao dịch có khả
năng tư lợi đã xác định hai loại giao dịch có khả năng tư lợi là đối tượng bị kiểm
soát gồm: giao dịch giữa công ty với những người có liên quan và giao dịch có giá
trị tài sản lớn. Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của các hoạt động kinh doanh
vốn đã đa dạng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tiêu cực thì việc hoàn thiện pháp luật
nhằm kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi là rất cần thiết và cấp bách. Đặc
biệt là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc hạn chế và
kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra
một môi trường kinh doanh lành mạnh.

2


Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Kiểm soát các giao dịch có khả năng tư
lợi trong công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.
2.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề pháp lý liên quan đến
kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi. Cụ thể, luận văn nghiên cứu về các giao
dịch có khả năng tư lợi là đối tượng bị kiểm soát và các biện pháp nhằm kiểm soát
các giao dịch có khả năng tư lợi.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các giao dịch có khả năng tư
lợi trong mô hình công ty cổ phần. Luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định liên
quan đến kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần trong luật
Doanh nghiệp, đồng thời có sự liên hệ với các quy định trong một số luật liên quan
như: Luật Phá sản, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán…

3.

Tình hình nghiên cứu

Kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi đã được đề cập khá nhiều, đặc biệt
là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Vấn đề này đã được các chuyên gia, các nhà
nghiên cứu kinh tế, luật học rất quan tâm, có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu như: Luận văn thạc sỹ “Một số vấn đề pháp lý về giao dịch trục lợi” của tác giả
Vũ Thị Thanh Tâm; Luận văn thạc sỹ “Kiểm soát các giao dịch có nguy cơ phát
sinh tư lợi theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005” của tác giả Ngô Thị
Bích Phương; bài viết trên Tạp chí Luật học số 1/2004 “Kiểm soát các giao dịch tư
lợi trong công ty theo Luật Doanh nghiệp” của Ths. Lê Đình Vinh; bài viết “Kiểm
soát các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi theo Luật Doanh nghiệp 2005” của
Ths. Trần Thị Bảo Ánh... Ngoài ra, vấn đề kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi
cũng đã được đề cập trong một số giáo trình và sách tham khảo của các trường đại
học như: Giáo trình Luật Thương mại – Phần chung và thương nhân của PGS.TS
Ngô Huy Cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Bên cạnh đó, kiểm soát

3


giao dịch tư lợi cũng là chủ đề của một số diễn đàn chia sẻ nghiên cứu khoa học gần
đây.
Tuy nhiên, những công trình khoa học và những bài viết đã nghiên cứu đều
tiếp cận vấn đề kiểm soát giao dịch tư lợi ở góc độ chung nhất hoặc chỉ nghiên cứu
trong phạm vi hẹp là Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 chưa sửa
đổi, bổ sung. Có thể khẳng định rằng, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu
nào về các giao dịch có khả năng tư lợi trong phạm vi mô hình công ty cổ phần. Các
công trình nghiên cứu trên chưa có sự nghiên cứu sâu và kết nối giữa Luật Doanh
nghiệp và các luật chuyên ngành khác như: Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật

Chứng khoán,… và một số quy định của quốc tế. Từ khi Luật Doanh nghiệp 2005
được sửa đổi bổ sung năm 2009 ra đời đến nay đã 8 năm và Luật Doanh nghiệp
2005 lại tiếp tục nằm trong đề án đưa ra sửa đổi, bổ sung lần thứ 2, cộng với quá
trình hội nhập khu vực, hội phập quốc tế phát triển mạnh mẽ (đánh dấu bằng việc
trở thành thành viên chính thức của ASEAN, ASEM, APEC và WTO), chưa có một
công trình nghiên cứu nào về đề tài kiểm soát giao dịch tư lợi ở góc độ pháp lý
chuyên sâu và phạm vi nghiên cứu như tác giả đề xuất.
4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về giao dịch có khả năng tư lợi và pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả năng
tư lợi trong công ty cổ phần; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần
ở Việt Nam hiện nay; để từ đó đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật về kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:

4


- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giao dịch có khả năng tư
lợi
và pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần;
- Nghiên cứu so sánh về kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về kiểm soát các
giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần ở một số quốc gia trên thế giới;
-


Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh các vấn đề

liên quan đến giao dịch có khả năng tư lợi và kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi
theo pháp luật Việt Nam;
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát các
giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu, đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
kiểm
soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần ở Việt Nam trong thời
gian tới;
- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật
về
kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn vận dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lênin.
Đây là phương pháp khoa học vận dụng nghiên cứu trong toàn bô luận văn để đánh
giá khách quan sự thể hiện của các quy định pháp luật về giao dịch có khả năng tư
lợi nói riêng và vấn đề về quản trị công ty nói chung.
Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn
sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ các vấn đề liên quan đến kiểm soát các giao
dịch có khả năng tư lợi giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế, qua đó thấy
được sự tương đồng, khác biệt của Việt Nam và quốc tế làm luận cứ xác thực cho


5



việc đưa ra các giải pháp khắc phục những bất cập của pháp luật hiện nay về kiểm
soát giao dịch tư lợi.
6.

Những đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến
giao dịch có khả năng tư lợi và kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi. Về mặt lý
luận, luận văn đưa ra cái nhìn tổng quan về giao dịch có khả năng tư lợi qua khái
niệm và đặc điểm của giao dịch tư lợi, tác động của giao dịch có khả năng tư lợi,
đồng thời xác định cấu trúc của pháp luật về kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi.
Về mặt thực trạng, trên cơ sở phân tích, tổng hợp quy định pháp luật điều chỉnh và
thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi, luận văn đưa ra
những nhận định, đánh giá. Từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi và cơ chế nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận, luận văn được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao dịch có khả năng tư lợi và pháp luật
về kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi
trong công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát các
giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam.

6


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH TƢ LỢI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT CÁC GIAO DỊCH CÓ KHẢ NĂNG TƢ LỢI TRONG CÔNG
TY CỔ PHẦN
1.1. Tổng quan về kiểm soát các giao dịch có khả năng tƣ lợi trong công
ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm giao dịch có khả năng tƣ lợi trong công ty cổ phần
Xuất phát từ những bất lợi mà thương nhân hoạt động kinh doanh đơn lẻ phải
gánh chịu, hình thức liên kết các nhà đầu tư đã ra đời. Cùng với thời gian, sự thay
đổi và phát triển của kinh tế - xã hội, các hình thức liên kết kinh doanh này ngày
càng phát triển đa dạng, phong phú và được thể hiện bằng rất nhiều các mô hình
doanh nghiệp khác nhau. Có thể nói, do sự phức tạp của hoạt động kinh tế nên
không thể khẳng định được mô hình doanh nghiệp nào ưu điểm hay hạn chế hơn các
mô hình khác mà ưu điểm và hạn chế này được xem xét tùy vào từng trường hợp.
Tuy vậy, hình thức công ty cổ phần là một trong những mô hình doanh nghiệp được
sử dụng nhiều nhất hiện nay.
So với quá trình phát triển của các hình thức công ty khác như công ty hợp
danh, công ty hợp vốn đơn giản, công ty TNHH thì công ty cổ phần ra đời muộn
nhất và là loại hình điển hình của công ty đối vốn. Đặc điểm pháp lý của công ty cổ
phần là: Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân; có cấu trúc vốn “mở”; cơ cấu quản
trị chặt chẽ, trong đó mỗi cơ quan đều có quyền hạn riêng; các thành viên (những
người quản trị công ty) đều không có tư cách thương nhân mà bản thân công ty mới
là thương nhân; cổ đông không phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của
công ty ngoài phạm vi giá trị cổ phần mà cổ đông nắm giữ.
Công ty cổ phần nói riêng, các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung để
tồn tại và phát triển được phải tham gia giao dịch với các chủ thể khác trong xã hội.

7


Tuy nhiên, công ty với tính chất là một tổ chức vì vậy công ty không thể tự mình

thiết lập các giao dịch mà phải thông qua người đại diện. Vì vậy mà giao dịch tư lợi
có khả năng phát sinh. Có rất nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau về giao dịch
có khả năng tư lợi, trong đó hiểu thế nào là tư lợi cũng là vấn đề gây tranh cãi. Có
quan điểm cho rằng tư lợi là lợi ích của cá nhân, cũng có quan điểm hiểu tư lợi là tư
nhân về lợi ích. Mặc dù, có nhiều cách hiểu khác nhau về tư lợi nhưng phạm vi
“giao dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần” thì tư lợi ở đây được hiểu là
một cá nhân thông qua thủ đoạn nào đó được che đậy bởi vỏ bọc của hành vi hợp
pháp để mang lại lợi ích nhất định cho mình. Khái niệm giao dịch tư lợi là cách nói
tắt để chỉ những giao dịch có sự tham gia của công ty mà những giao dịch này có
nguy cơ bị trục lợi bởi người đại diện cho công ty. Ở những giao dịch này, quyền lợi
của nhà nước, của tập thể, của chủ sở hữu có nguy cơ bị xâm hại do các chủ thể đại
diện cho tập thể thiết lập giao dịch với các chủ thể khác và mục đích của việc thiết
lập giao dịch này không xuất phát từ quyền lợi của tập thể mà xuất phát từ quyền và
lợi ích của cá nhân người đại diện.
Hiểu thế nào là người đại diện trong các khái niệm về giao dịch có khả năng tư
lợi trước hết cần phải hiểu người đại diện của công ty và người đại diện tham gia
giao dịch là gì? Người đại diện là các cá nhân được trao quyền quản lý, điều hành,
thay mặt công ty tham gia các giao dịch với các chủ thể khác. Trong công ty cổ
phần, người đại diện có thể là người được lựa chọn ra trong số những nhà đầu tư
góp vốn vào công ty hoặc họ có thể là người được công ty thuê đảm nhiệm vị trí
này. Theo lẽ thường, người đại diện được các thành viên khác trong công ty giao
cho làm một công việc hay nhân danh công ty thực hiện một giao dịch thì người đại
diện phải đảm bảo thực hiện công việc được giao phó vì lợi ích của công ty. Điều cơ
bản là phải tách bạch được lợi ích của cá nhân người đại diện và lợi ích chung của
công ty, mục đích của giao dịch phải hướng vào quyền và lợi ích của công ty. Để
thực hiện được điều này, người đại diện cần phải có những phẩm chất phù hợp,
ngoài phẩm chất như thiện tâm, trung thực, mẫn cán, người đại diện còn bị dàng
buộc bởi trách nhiệm đối với công việc của mình và trách nhiệm giải trình một cách

8



thuyết phục khi các thành viên khác yêu cầu. Tuy nhiên, việc xa rời nền tảng đạo
đức này làm ảnh hưởng đến những quyết định của người đại diện, người đại diện có
thể lạm dụng công ty và quyền lực, địa vị của mình để mưu lợi riêng.
Người đại diện là người nhân danh và vì lợi ích của chủ thể được đại diện
(người được đại diện) xác lập, thay đổi, chấm dứt các giao dịch trong phạm vi đại
diện. Việc phát sinh quan hệ đại diện được xác lập theo hai hình thức: do pháp luật
quy định hoặc theo sự ủy quyền. Đại diện theo pháp luật là sự đại diện do pháp luật
quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Chẳng hạn, người đại
diện theo pháp luật của công ty cổ phần là người mà công ty đăng ký với vị trí là
“người đại diện theo pháp luật”, thường thể hiện trong Điều lệ công ty hoặc Giấy
đăng ký kinh doanh của công ty (thường là GĐ/TGĐ nếu Điều lệ không quy định
Chủ tịch HĐQT là người đại diện). Trường hợp nếu người đại diện theo pháp luật
của công ty cổ phần ủy quyền cho một người khác thực hiện công việc thuộc quyền
hạn của mình thì người được ủy quyền đó được gọi là người đại diện theo ủy quyền.
Trong quá trình nghiên cứu về các giao dịch có khả năng tư lợi, người đại diện được
hiểu là bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của
công ty.
Qua thực tiễn hoạt động của các công ty cổ phần cho thấy nhóm các giao dịch
thường có nguy cơ phát sinh tư lợi gồm: giao dịch giữa công ty và người quản lý
công ty; giao dịch giữa công ty và bố, mẹ anh chị em ruột của những người quản lý
công ty; giao dịch giữa công ty và cổ đông lớn của công ty; giao dịch giữa các công
ty con của cùng một công ty mẹ; giao dịch gữa công ty và các công ty khác, trong
đó người quản lý công ty là cổ đông hoặc người thân của họ là cổ đông lớn trong
công ty đó, hoặc có thể đơn giản là các quyết định từ bỏ các khoản nợ, quyền đòi
nợ,… Những giao dịch này thường núp dưới bỏ bọc hợp pháp. Về mặt lý luận, nếu
như các giao dịch này được thực hiện một cách trung thực vì lợi ích công ty thì vẫn
được xem là hợp pháp. Chúng chỉ bị coi là các giao dịch bất hợp pháp khi người xác
lập giao dịch có ý đồ tước đi lợi ích của công ty làm lợi ích của riêng mình [39].


9


Khoa học pháp lý gọi giao dịch tư lợi là các giao dịch mà trong đó có thể sẽ
chứa đựng khả năng xung đột về quyền lợi (xung đột giữa quyền lợi của công ty và
quyền lợi của cá nhân người đại diện). Thực chất, mục đích các giao dịch của công
ty là hướng tới quyền lợi của công ty, ý chí trong các giao dịch này là ý chí của công
ty. Tuy nhiên, người đứng ra để bày tỏ ý chí đó lại là người đại diện của công ty, nếu
người đại diện công ty trung thành với quyền lợi của công ty hoặc quyền lợi của họ
tỷ lệ thuận với quyền lợi của công ty thì giao dịch đó có sẽ ít có khả năng bị tư lợi.
Ngược lại, nếu người đại diện không có chung quyền lợi với doanh nghiệp thì giao
dịch đó rất dễ bị biến đổi về bản chất, các giao dịch này rất dễ xảy ra tiêu cực. Hay
nói cách khác, khi đứng giữa một bên là lợi ích công ty và một bên là lợi ích cá
nhân thì người đại diện đáng nhẽ có trách nhiệm thực hiện quyền lợi cho công ty thì
họ lại lựa chọn lợi ích của bản thân. Việc lựa chọn giao dịch để trục lợi cá nhân của
người đại diện làm ảnh hưởng hoặc gây thiệt hại về quyền lợi, tài sản cho công ty
mà họ làm đại diện.
Theo Bộ quy tắc của OECD về Quản trị công ty, giao dịch có khả năng tư lợi
được hiểu thông qua những quy định về giao dịch nội gián (insider trading) và hành
vi lạm dụng kinh doanh để tư lợi (abusive self-dealing), hành vi này xảy ra khi các
cá nhân có quan hệ thân thiết với công ty, bao gồm cả cổ đông nắm quyền kiểm
soát, lợi dụng các quan hệ đó gây tổn hạn cho công ty và nhà đầu tư [46]. Tuy nhiên,
theo tôi, chúng ta cần phân biệt khái niệm giao dịch có khả năng tư lợi với giao dịch
nội gián – hành vi buôn bán nội gián (insider dealing) trong công ty. Theo đó, hành
vi buôn bán nội gián cũng là một dạng của giao dịch tư lợi, hành vi này thường
được thực hiện bởi một người có khả năng tiếp cận các thông tin bí mật, chưa được
công bố trong công ty. Thực tế, giao dịch nội gián thường được dùng để chỉ những
hoạt động mua bán chứng khoán ngầm nhằm trục lợi bằng việc sử dụng các thông
tin bí mật mà chỉ những người trong nội bộ công ty (thường là người quản lý, điều

hành công ty) mới có, còn những người ngoài không thể biết được.

10


Như vậy, có nhiều khái niệm, cách hiểu khác nhau về giao dịch có khả năng tư
lợi, nhưng tóm lại giao dịch có khả năng tư lợi (self-interest transactions) là những
giao dịch có khả năng sẽ gây thiệt hại về tài sản, quyền lợi cho công ty do người
đại diện công ty tham gia giao dịch lạm dụng vị thế của mình để thực hiện các giao
dịch nhằm thu lợi cho cá nhân.
Có thể nói, các “giao dịch có khả năng tƣ lợi” được gọi theo nhiều cách
khác nhau như: giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi, giao dịch trục lợi, hợp đồng
có nguy cơ phát sinh tư lợi, hợp đồng tư lợi,… và thường được gọi tắt là “giao dịch
tƣ lợi”, đây cũng là cách gọi được sử dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, nếu xem xét theo
nghĩa rộng thì “giao dịch có khả năng tư lợi” là cách gọi chính xác nhất. Cách gọi
tắt “giao dịch tư lợi” thường cho người đọc hiểu là các giao dịch đã xảy ra sự tư lợi
của người đại diện. Trong khi đó giao dịch có khả năng tư lợi có phạm vi bao quát
rộng hơn, gồm cả những giao dịch có “khả năng” sẽ phát sinh tư lợi và cả những
giao dịch chắc chắn đã có tư lợi trong đó - giao dịch tư lợi.
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch có khả năng tƣ lợi trong công ty cổ phần
Khác với các giao dịch thông thường, giao dịch có khả năng tư lợi có các đặc
điểm sau:
Thứ nhất, giao dịch có khả năng tƣ lợi chỉ diễn ra khi có sự trao quyền
quản lý, điều hành trong kinh doanh.
Một cá nhân tự thực hiện giao dịch cho chính mình thì sẽ không bao giờ có
giao dịch tư lợi. Hay trường hợp người đại diện cho cá nhân, hay người được cá
nhân ủy quyền thực hiện giao dịch thì cũng không được xem xét là pháp luật kiểm
soát các giao dịch có khả năng tư lợi. Như vậy, giao dịch tư lợi chỉ có thể nảy sinh ở
một tổ chức, khi nó tồn tại ít nhất hai lợi ích xung đột nhau, một bên là lợi ích tập
thể và một bên là lợi ích của người đại diện. Tuy nhiên, không phải tổ chức nào

cũng tồn tại giao dịch có khả năng tư lợi. Chẳng hạn như doanh nghiệp tư nhân và
hộ kinh doanh. Những tổ chức này không có tư cách pháp nhân bởi nó không phải

11


là một thực thể tách biệt với cá nhân thành lập nên nó. Mọi tài sản trong các tổ chức
này đều là tài sản của cá nhân tạo lập nên nó (chủ sở hữu). Chủ sở hữu được hưởng
toàn bộ lợi nhuận (sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính và thanh toán theo
quy định của pháp luật) và gánh chịu mọi nghĩa vụ [8]. Vì vậy, khi chủ sở hữu của
các tổ chức này thực hiện các giao dịch với các chủ thể khác giống như một cá nhân
tự thực hiện giao dịch cho chính bản thân mình. Ngay cả trường hợp người chủ sở
hữu của tổ chức này ủy quyền cho người khác thực hiện giao dịch thì về bản chất
cũng có thể coi như cá nhân ủy quyền cho cá nhân khác thực hiện giao dịch. Đối với
doanh nghiệp tư nhân bản chất pháp lý là thương nhân thể nhân [8], hay như hộ
kinh doanh cũng vậy với đặc điểm là hình thức kinh doanh quy mô rất nhỏ, chủ sở
hữu chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của hộ kinh doanh và doanh
nghiệp tư nhân, cả hai hình thức này đều không có tư cách pháp nhân. Qua những lý
giải trên, giao dịch có khả năng tư lợi chỉ tồn tại trong các tổ chức có tư cách pháp
nhân. Tức là, tổ chức đó phải thỏa mãn điều kiện tiên quyết là có tài sản độc lập với
cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó.
Như chúng ta đã biết, trong xã hội tồn tại rất nhiều các hình thức liên kết kinh
doanh khác nhau của các nhà đầu tư. Thông thường có hai thuật ngữ pháp lý được
sử dụng nhiều nhất để chỉ các hình thức liên kết kinh doanh đó là “công ty” và
“doanh nghiệp” [17]. Nếu xét theo thời gian thì “công ty” là thuật ngữ được sử dụng
lâu đời hơn “doanh nghiệp”, xét về bản chất thì “công ty” và “doanh nghiệp” đều
giống nhau chỉ khác nhau ở tên gọi mà thôi, tuy nhiên xét về phạm vi thì “doanh
nghiệp” có phạm vi rộng hơn, “doanh nghiệp” là khái niệm chung nhất để chỉ các
loại hình kinh doanh (hay gọi là loại hình doanh nghiệp), còn công ty là một loại
hình doanh nghiệp [28]. Việc phân biệt giữa hai thuật ngữ trên để thống nhất phạm

vi
chỉ các giao dịch tư lợi, các giao dịch có khả năng tư lợi được hiểu là các
giao
dịch của công ty: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh,... Nói đến giao dịch có khả năng tư lợi được hiểu là nói đến các giao dịch của
công ty chứ không phải của các chủ thể khác. Các công ty này tồn tại thông qua các
hợp đồng với chủ thể kinh doanh khác, khi tham gia giao dịch với các chủ thể kinh

12


doanh khác công ty phải ủy quyền cho một cá nhân khác (người đại diện). Cá nhân
này sẽ đại diện và nhân danh công ty để thực hiện giao dịch vì lợi ích của công ty.
Cũng chính vì vậy mà giao dịch tư lợi có thể nảy sinh khi người đại diện đắn đo
trước lợi ích của công ty và lợi ích của bản thân họ.
Đối với các giao dịch trong công ty cổ phần cũng như những phân tích ở trên,
nếu giao dịch của công ty cổ phần được thông qua ĐHĐCĐ, được mọi thành viên
trong hội đồng tự nguyện chấp thuận theo nguyên tắc công bằng, bình đẳng thì khả
năng tư lợi của các giao dịch này gần như là không có. Tuy nhiên, nếu những giao
dịch của công ty mà chỉ do người đại diện của công ty thực hiện thì khả năng tư lợi
của các giao dịch này sẽ lớn hơn gấp nhiều lần.
Thứ hai, giao dịch có khả năng tƣ lợi là những giao dịch có sự lạm dụng
vị thế của ngƣời đại diện.
Như đã phân tích ở trên người đại diện trong các giao dịch có khả năng tư lợi
có thể là bất kỳ ai nhân danh công ty tham gia giao dịch với các chủ thể khác. Ai
cũng biết mục đích trong các giao dịch, hợp đồng của công ty là lợi ích của công ty,
nhưng công ty lại không thể tự mình bày tỏ ý chí mà phải thông qua người đại diện.
Ở đây có hai từ then chốt là “mục đích” và “ý chí”. Mục đích là kết quả cuối cùng
được mong đợi đạt được, đó là lý do tại sao một giao dịch được thực hiện. Ý chí là
những nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong, ý chí được thể hiện ra bên

ngoài dưới một hình thức nhất định. Trong quá trình thực hiện giao dịch với các chủ
thể khác, người đại diện đáng nhẽ phải dùng ý chí, quyết của mình để đạt được mục
đích là thu lợi cho công ty, tức là người đại diện cùng chung ý chí với công ty vì
mục đích lợi ích của công ty. Thì trong giao dịch tư lợi người đại diện lại dùng ý
chí, quyết định của mình để thu lợi cho cá nhân. Về động cơ và mục đích của người
đại diện trong các giao dịch tư lợi là thu lợi cho cá nhân. Cơ sở hay phương tiện để
thực hiện được mục đích này là vị thế của người đại diện. Vị thế chính là quyền
hành bao gồm: quyền nhân danh, quyền điều hành, quyền quản lý.

13


Trong công ty cổ phần cơ sở để người đại diện lợi dụng thực hiện hành vi trục
lợi thông qua các giao dịch bao gồm: cổ đông, người đại diện ủy quyền của cổ đông
nắm số lượng cổ phần cao (cổ đông lớn, nắm giữ trên 35% tổng số cổ phần phổ
thông của công ty); người được cử làm quản lý, đại diện cho cổ đông là tổ chức;
thành viên HĐQT, GĐ, TGĐ công ty cổ phần…
Thứ ba, trong giao dịch tƣ lợi mục đích lợi ích của công ty bị thay thế
bằng lợi ích của ngƣời đại diện.
Bản chất của giao dịch tư lợi là sự có thể lạm dụng quyền lực được trao của
người đại diện cho công ty trong các giao dịch để tư lợi cho bản thân. Vấn đề tư lợi
cho “bản thân” ở đây được nhìn nhận ở phạm vi rộng, có thể là quyền lợi của chính
bản thân người đại diện (lợi ích về tài sản, lợi ích về tinh thần, quyền lợi về địa
vị,...); có thể là quyền lợi của những người quan hệ với người đại diện (quan hệ lợi
ích, quan hệ thân nhân, quan hệ quản lý...); có thể là trục lợi cho người thứ ba
(người thứ ba có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào).
Người đại diện có thể lạm dụng quyền lực của mình để tư lợi bằng nhiều
phương thức, có thể thông qua các hợp đồng của công ty hoặc có thể thông qua
hành vi pháp lý đơn phương. Những hợp đồng tư lợi có thể xảy ra trên tất cả các
lĩnh vực như dân sự, lao động, kinh tế... Có hai loại hợp đồng được cho là có khả

năng tư lợi lớn nhất đó là hợp đồng giữa công ty với những người có liên quan; và
hợp đồng có giá trị tài sản lớn. Trong công ty cổ phần các hợp đồng có khả năng tư
lợi rất phổ biến với hình thức đa dạng như: cài giá vào hợp đồng mua bán hàng hóa
cho công ty cao hơn mức bình thường; bán hàng hóa của công ty thấp hơn thị
trường; thuê mướn nhân công với những người có liên quan với mức lương cao hơn
những người khác ở cùng một vị trí, công việc, trình độ tương đương; đầu tư vào
một dự án để trục lợi cá nhân... Ngoài ra, có những hành vi pháp lý đơn phương mà
khả năng tư lợi rất lớn như: từ bỏ một vật quyền, từ bỏ quyền đòi nợ, cho hoãn nợ,
giãn nợ...[8, tr 270]

14


Thứ tƣ, giao dịch có khả năng tƣ lợi khi nảy sinh sẽ gây thiệt hại về tài
sản, quyền lợi cho công ty.
Công ty hoạt động kinh doanh trên thương trường không chỉ dựa vào tài sản
(giá trị vật chất) mà còn bao gồm cả những giá trị phi vật chất như: uy tín, danh dự.
Giao dịch tư lợi khi nảy sinh có thể sẽ gây thiệt hại cho công ty về mặt tài sản hoặc
làm giảm sút uy tín của công ty hoặc có thể vừa thiệt hại về tài sản vừa giảm sút uy
tín. Từ những thiệt hại của công ty do giao dịch tư lợi gây ra dẫn đến những hậu quả
tiêu cực mà các cổ đông đầu tư vào công ty phải gánh chịu và cả những ảnh hưởng
đến các đối tác của công ty (mất cơ hội có được hợp đồng kinh doanh, bị cạnh tranh
không lành mạnh…). Rộng hơn, giao dịch tư lợi còn ảnh hưởng đến môi trường
kinh doanh tác động xấu về mặt kinh tế xã hội.
1.1.3. Ảnh hƣởng tiêu cực của giao dịch tƣ lợi trong công ty cổ phần
Khi một giao dịch trong công ty cổ phần trở thành giao dịch tư lợi, tức là
quyền và lợi ích của công ty đã bị xâm phạm. Có thể thấy ngay những ảnh hưởng
tiêu cực của giao dịch tư lợi trong công ty cổ phần thông qua việc phân tích những
tác động của giao dịch qua các khía cạnh sau: nguy cơ xâm phạm đến lợi ích công
ty; nguy cơ xâm phạm đến các cổ đông của công ty; nguy cơ ảnh hưởng đến những

người có quyền và lợi ích liên quan; ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
Thứ nhất, những nguy cơ xâm phạm đến lợi ích công ty
Một trong những đặc điểm của giao dịch tư lợi là khi diễn ra nó sẽ gây thiệt
hại về quyền và lợi ích của công ty. Giao dịch tư lợi sẽ kéo theo việc chuyển dịch
ngầm lợi ích của công ty cho các cá nhân. Có thể nói, công ty là đối tượng luôn bị
ảnh hưởng trực tiếp của giao dịch tư lợi. Những giao dịch này gây ra thiệt hại về
mặt tài sản của công ty. Tài sản của công ty là một thuật ngữ pháp lý bao gồm tất cả
các quyền, quyền lợi, lợi nhuận có liên quan đến quyền sở hữu của công ty. Nếu căn
cứ theo tính chất vật chất của tài sản thì tài sản trong công ty được chia làm hai loại:
tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Những ảnh hưởng tiêu cực của giao dịch tư lợi

15


trong công ty cũng được thể hiện ở hai loại thiệt hại đó là thiệt hại về đối với tài sản
hữu hình (thiệt hại hữu hình) và thiệt hại về đối với tài sản vô hình (thiệt hại vô
hình) của công ty.
- Những thiệt hại về mặt tài sản hữu hình, trong công ty tài sản hữu hình là
những tài sản mang thuộc tính vật chất mà chúng ta có thể nhìn thấy, nhận biết và
xác định được giá trị của nó dễ dàng. Ví dụ như: tiền, hàng hóa, nhà xưởng, máy
móc, dụng cụ, nguyên vật liệu,… Vì vậy, khi giao dịch tư lợi làm thiệt hại về mặt
vật chất của công ty, nó làm hạn chế thậm chí triệt tiêu nguồn vốn dùng để tái đầu tư
của công ty. Những lợi ích mà các tài sản đó đem lại đáng nhẽ “chảy” vào quỹ của
công ty thì qua các giao dịch tư lợi nó “chảy” vào túi của cá nhân. Hay nói cách
khác những kẻ nhân danh công ty để trục lợi trong các giao dịch đã chia nhau tiền
của, tài sản của công ty. Vì vậy các giao dịch tư lợi rút ngắn sự tồn tại và ngăn cản
sự phát triển của công ty. Nó làm nhiều công ty càng kinh doanh càng thua lỗ, càng
hoạt động càng bị thiệt hại.
-


Những thiệt hại về mặt tài sản vô hình, tài sản vô hình là những tài sản không

có hình thái vật chất nhưng có thể tạo ra những lợi thế và quyền hạn để mang lại giá
trị kinh tế cho công ty. Các tài sản này có thể là: uy tín, thương hiệu, khách hàng,
các mối quan hệ của công ty, bản quyền, chủ quyền, phần mềm, giấy phép đăng ký,
bằng sáng chế hoặc các sản phẩm,… Những thiệt hại phi vật chất mà giao dịch tư
lợi gây ra cho công ty có rất nhiều và khó có thể xác định được giá trị tổn hại của
nó. Chẳng hạn, giao dịch tư lợi làm tài sản của công ty bị thất thoát, uy tín của công
ty cũng vì thế mà bị giảm sút, thương hiệu của công ty bị ảnh hưởng. Giao dịch tư
lợi “rút ruột” công ty dẫn đến tình trạng kinh doanh yếu kém, khiến nhiều nhà đầu
tư không muốn bỏ vốn đầu tư, khách hàng không ký hợp đồng, hàng hóa khó bán…
những cơ hội kinh doanh của công ty bị mất đi.
Khi các quyền lợi trong công ty cổ phần bị thu vén bởi một nhóm người thì
những cổ đông nhỏ sẽ tìm cách rút lui khỏi công ty, còn những nhà đầu tư nhỏ bên
ngoài sẽ ngần ngại trước việc bỏ vốn để mua cổ phiếu. Bản thân công ty sẽ bị thiệt

16


hại vì tài sản của công ty sẽ chảy dần vào túi một nhóm cổ đông và mất đi cơ hội
phát triển vốn. Hơn thế nữa nếu thực hiện giao dịch tư lợi được một lần thì khi có cơ
hội sẽ tái diễn và xu hướng là tìm đến chính đối tác ấy để thực hiện những phi vụ
làm ăn, đây cũng chính là một nguyên nhân làm thu hẹp các kênh đầu tư của công
ty, và công ty bị cô lập bởi sự lạm dụng quyền lực của những người được ủy quyền
đại diện.
Nguồn “sống” của công ty chính là vốn và điều kiện kinh doanh. Nhưng nếu
giao dịch tư lợi xảy ra thì cả hai nguồn cung cấp “sự sống” của công ty đều bị cạn
kiện và mất dần ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty [14]. Có thể nói những thiệt
hại hữu hình và thiệt hại vô hình mà giao dịch tư lợi gây ra cho công ty có sự tác
động qua lại lẫn nhau, thiệt hại này ảnh hưởng (làm phát sinh) thiệt hại kia và ngược

lại.
Thứ hai, những nguy cơ xâm phạm đến các cổ đông của công ty
Với đặc điểm là hình thức công ty đối vốn điển hình, công ty cổ phần là một
chơi công bằng và bình đẳng của những người tham gia (những cổ đông). Khi góp
vốn vào công ty, các cổ đông đã tự nguyện cam kết vào một khế ước chung (hợp
đồng thành lập hoặc điều lệ công ty) là cùng hưởng lợi và cùng chịu rủi ro theo tỷ lệ
vốn góp của mình trong công ty. Đây cũng là nguyên tắc được ghi nhận trong luật
công ty của hầu hết các nước trên thế giới. Tính bình đẳng của “cuộc chơi” thể hiện
ở chỗ cổ đông góp vốn nhiều thì hưởng lợi nhiều, thành viên góp vốn ít thì hưởng
lợi ít. Mục đích của các cổ đông khi góp vốn để thành lập công ty là thông qua hoạt
động kinh doanh của công ty họ sẽ sử dụng một cách hiệu quả nhất số vốn của
mình. Họ sở hữu và được hưởng lợi công ty tương ứng với phần vốn góp của mình
trong công ty, và được phân chia lợi nhuận cũng như chịu nghĩa vụ về tài sản tương
ứng với phần vốn đó. Thế nhưng, nếu xảy ra giao dịch tư lợi, tài sản của công ty bị
chảy dần vào túi một hoặc một nhóm cổ đông có vốn góp chi phối, thậm chí chảy
vào túi của người không góp vốn vào công ty thì những người góp vốn khác trong

17


×