Tải bản đầy đủ (.docx) (145 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.9 KB, 145 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG C NGC

NHNG VN Lí LUN V THC TIN V
PHM TI CHA T THEO LUT HèNH S
VIT NAM

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG ĐỨC NGỌC

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm

Hµ néi - 2010



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
Mở đầu

Chương 1: Những vấn đề chung về phạm
sự

1.1.

Khái niệm và phân loại phạm tội chư

1.1.1.

Khái niệm và cơ sở phân chia các gia

1.1.2.

Khái niệm phạm tội chưa đạt

1.1.3.

Phân loại phạm tội chưa đạt

1.2.


Phân biệt phạm tội chưa đạt với một
trong quá trình thực hiện tội phạm do

1.2.1.

Phân biệt phạm tội chưa đạt với ý địn
phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt v

1.2.2.

Phân biệt phạm tội chưa đạt với tội p
phạm kết thúc

1.3.

Các quy định của pháp luật hình sự m
về phạm tội chưa đạt

1.3.1.

Bộ luật hình sự Liên bang Nga

1.3.2.

Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nh

1.3.3.

Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp


1


1.3.4.

Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đ

Chương 2: Các quy định của pháp luật hìn
chƣa đạt

2.1.

Các quy định của pháp luật hình sự từ
trước ban hành Bộ luật hình sự Việt N
tội chưa đạt

2.1.1.

Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt N
mạng tháng 8 năm 1945

2.1.2.

Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật h

2.1.3.

Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật

trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ l

2.2.

Các quy định của pháp luật hình sự V
phạm tội chưa đạt

2.2.1.

Hành vi phạm tội chưa đạt

2.2.2.

Quyết định hình phạt đối với trường h

2.2.3.

Cấu thành tội phạm của hành vi phạm

Chương 3: Thực tiễn áp dụng và việc hoàn

hình sự việt nam năm 1999 về p

3.1.

Thực tiễn áp dụng các quy định của p
Nam về phạm tội chưa đạt

3.1.1.


Những tồn tại, vướng mắc trong thực

3.1.2.

Vướng mắc trong quy định của Bộ luậ

3.2.

Việc hoàn thiện các quy định của bộ l
năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa

3.2.1.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện các q
hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành

3.2.2.

Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy địn
Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạ

2


Kết luận
Danh mục Tài liệu tham khảo

3



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang bảng
3.1

Tổng số vụ án đã xét xử trên toàn quốc và tổng số vụ án
đã xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội các năm
2005-2009

3.2

Tổng số bị cáo đã xét xử trên toàn quốc và tổng số bị cáo
đã xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội các năm
2005-2009

3.3

Tỷ lệ bản án có phạm tội chưa đạt trong tổng số các bản 81 án
hình sự sơ thẩm và các quyết định giám đốc thẩm hình
sự của Tòa án nhân dân

3.4

Tội danh, số vụ, số bị cáo và tỷ lệ số vụ án trên các bản
án hình sự sơ thẩm và các quyết định giám đốc thẩm hình
sự của Tòa án nhân dân

4



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tên sơ đồ

Trang

Cấu thành tội phạ m của hành vi phạm tội chưa đạt tồn tại
trong thực tiễn

79

sơ đồ

2.1

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội
phạm do cố ý. Các giai đoạn phạm tội khác nhau chính là ở những yếu tố
khách quan của hành vi phạm tội - tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi, thời điểm chấm dứt của những hành vi đó, cũng như mức độ thực hiện ý
định phạm tội của chủ thể.
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện cùng với
sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai
cấp đối kháng [13, tr. 287]. Cho nên, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống

trị, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội
phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự (và hình phạt) đối với những người đã
thực hiện các hành vi đó. Do đó, tội phạm lại mang bản chất là một hiện
tượng pháp lý. Là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội - pháp lý, "tội
phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại
xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến
quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người" [78, tr. 7].
Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự là do có tính chất nguy
hiểm đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không
những là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản, mà còn là thuộc tính khách quan,
tất yếu và thể hiện bản chất xã hội - pháp lý của từng hành vi phạm tội cụ thể.
Ngoài ra, tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội, bởi vì tội phạm gây ra
hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật
hình sự xác lập và bảo vệ, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với hình thức lỗi cố ý và vô ý. Còn
đối với những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm, thì luật quy định,
người thực hiện hành vi đó sẽ bị xử lý bằng biện pháp khác.

6


Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho
xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường
hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội
phạm cụ thể. Bởi vì, để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người
phạm tội phải tiến hành từng bước, từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn bị
công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần tiến
đến thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành từng
bước để thực hiện hành vi phạm tội, có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau

không phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội mà họ phải dừng lại khi mới
chuẩn bị điều kiện để thực hiện tội phạm hoặc khi chưa thực hiện hoàn thành
tội phạm. Theo đó, về mặt chủ quan hành vi phạm tội bị dừng lại nhưng người
phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đó và vẫn muốn cố ý thực hiện tiếp hành vi
phạm tội của mình, vì trong suy nghĩ, tư tưởng của họ bao giờ cũng mong
muốn thực hiện toàn bộ quá trình đó để đạt được kết quả mong muốn đã được
đặt ra. Mặc dù vậy, thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm cho thấy, có
không ít trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ dự định của
mình hay không tiến hành thực hiện tội phạm được đến cùng vì những nguyên
nhân ngoài ý muốn của họ, mà phải dừng lại ở những thời điểm khác nhau.
Nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong những công
việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật
và toàn thể xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ đó, pháp luật hình sự Việt Nam
không những trừng trị những hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi thực
hiện hoàn thành một tội phạm mà cả điều chỉnh xử lý các hành vi phạm tội
chưa đạt - hành vi chưa hoàn thành. Việc phát hiện, trừng trị những hành vi
phạm tội chưa hoàn thành không chỉ để ngăn chặn tội phạm, mà còn nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội có
thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân. Điều này còn thể hiện
đường lối xử lý trong chính sách hình sự - không để cho tội phạm gây ra nguy
hiểm cho xã hội thì tốt hơn để cho tội phạm xảy ra mới tìm cách khắc phục,

7


phòng chống, đồng thời điều này cũng đã được cụ thể hóa trong Điều 1 về
nhiệm vụ của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, trong diễn biến thực hiện tội phạm, việc xác định những
hành vi nào đã đến mức gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm, quyết định hình phạt đối với những người thực hiện hành vi ấy giúp

cho cơ quan điều tra, truy tố, xét xử nhằm xử lý đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô
tội không phải bao giờ cũng đơn giản và dễ dàng. Mặt khác, để quyết định
một hình phạt được chính xác và công bằng thường gặp một số khó khăn nhất
định hay còn có nhiều sai sót, đặc biệt khi đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội và thời điểm dừng lại của hành vi phạm tội trong thực tế
khách quan với ý nghĩ, mong muốn chủ quan của người phạm tội.
Thời gian vừa qua, dưới góc độ khoa học luật hình sự xung quanh
những vấn đề lý luận về phạm tội chưa đạt vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau,
việc phân định ranh giới giữa chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tội phạm
hoàn thành và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội còn có nhiều quan điểm
khác nhau, có một số trường hợp do phân biệt không chính xác sẽ dẫn tới
nhiều trường hợp xử oan, sai hoặc không đúng pháp luật. Bên cạnh đó, dưới
góc độ thực tiễn áp dụng, có nhiều trường hợp đánh giá chưa đúng khi thực tế
là chuẩn bị phạm tội nhưng người phạm tội lại phải chịu trách nhiệm hình sự
về phạm tội chưa đạt, có trường hợp người phạm tội đáng lẽ phải chịu trách
nhiệm hình sự lại không phải chịu hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nhưng
lại cho là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hoặc chuẩn bị phạm tội dẫn
đến họ được miễn trách nhiệm hình sự; v.v...
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về phạm tội chưa đạt trong khoa học
và việc áp dụng nó trong thực tiễn để trên cơ sở đó đưa ra những kiến giải lập
pháp hoàn thiện phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và ngăn
chặn, hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng. Đây là lý do chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu

8


đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật
hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Phạm tội chưa đạt là một vấn đề hẹp và thuộc chế định các giai đoạn
phạm tội, đồng thời nó cũng có liên hệ mật thiết đến nhiều quy phạm và chế
định khác trong luật hình sự như: tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự,
chuẩn bị phạm tội, tội phạm hoàn thành, tội phạm kết thúc, tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội; v.v... Ngoài ra, mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 đã
có những quy định thay đổi đáng kể về tội phạm và về phạm tội chưa đạt như
tách khoản 2 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 thành Điều 18 Bộ luật hình
sự năm 1999, khoản 3 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 (về quyết định hình
phạt) được tách thành Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 với ba khoản cụ thể
tương ứng với từng hành vi phạm tội ở các giai đoạn phạm tội khác nhau chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nhưng xung quanh chế định này còn
nhiều vấn đề cần nghiên cứu và đòi hỏi có quan điểm thống nhất.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, vấn đề phạm tội chưa đạt
cũng được đề cập trong một số giáo trình, sách tham khảo do các tác giả khác
nhau biên soạn như: 1) Chương XII - Các giai đoạn phạm tội của TS. Nguyễn
Ngọc Chí, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể
tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
2001 (tái bản năm 2003, 2007); 2) Chương IX - Các giai đoạn phạm tội của
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I,
Tập thể tác giả do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, 2007; 3) Chương XII - Các giai đoạn phạm tội của GS.TS. Võ Khánh
Vinh, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác giả do PGS.TS.
Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005;

4) Chương VII - Các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm, trong sách: Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà
Nội, 1995; 5) Lâm Minh Hạnh. Chương III - Các giai đoạn phạm tội, trong

9



sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986; v.v...
Một số nhà khoa học - luật gia hình sự Việt Nam cũng đã dành không
ít công sức cho việc nghiên cứu về đề tài này, đáng chú ý là các công trình
nghiên cứu của GS.TSKH. Lê Văn Cảm: 1) Mục V - Chế định về các giai
đoạn thực hiện tội phạm, Chương thứ tư, trong Những vấn đề cơ bản trong
khoa học luật hình sự (Phần chung), (Sách chuyên khảo Sau đại học), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) Chế định các giai đoạn thực hiện tội
phạm và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, số 2/2002; v.v...
Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như:
1) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội
phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1999, của PGS.TS. Trần Văn Độ; 2)
Một số vấn đề về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Luật học, số 6/1995;
3) Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa
đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002, của PGS.TS. Lê Thị Sơn; 4) Hoàn thiện
hình phạt tử hình, tù có thời hạn và phạt tiền theo yêu cầu cải cách tư pháp,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9, 5/2008 5) Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội
chưa đạt, Tạp chí Khoa học, (chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002, của TS.
Trịnh Quốc Toản; 6) Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002, của TS. Dương Tuyết
Miên; 7) Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số
2/2006; 8) Về phạm tội chưa đạt và các hình thức phạm tội khác trong quá
trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học, (chuyên san Luật học), số 2/2009,
của TS. Trịnh Tiến Việt; 9) Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 3/1993, của tác giả Nguyễn Thị Mai; v.v...
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề phạm tội chưa đạt

nhưng chỉ dừng lại ở một khía cạnh nào đó hoặc chừng mực xem xét qua các

10


trường hợp phạm tội cụ thể hay kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống vấn
đề phạm tội chưa đạt vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức, mặc dù
đây là một giai đoạn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong quá trình đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đặc biệt nếu việc phát hiện và ngăn chặn sớm hành vi
phạm tội chưa đạt sẽ làm giảm khả năng gây ra thiệt hại về nhiều hậu quả
như: chính trị, vật chất, thể chất và tinh thần, cũng như tài sản của Nhà nước
và toàn xã hội. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề
phạm tội chưa đạt cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm tội chưa đạt là một nội dung tương đối hẹp và phức tạp, nghiên
cứu về chế định này đã có nhiều nghiên cứu chung trong các giai đoạn phạm
tội do cố ý mà ít có nghiên cứu chuyên sâu và riêng rẽ về từng trường hợp cụ
thể của vấn đề phạm tội chưa đạt, nên việc hiểu trong lý luận và vận dụng
trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc. Do đó, phạm vi nghiên
cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết một số vấn đề cơ bản xung quanh
chế định phạm tội chưa đạt như sau:
1) Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý;
2) Khái niệm, các đặc điểm và phân loại phạm tội chưa đạt;
3) Các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa
đạt;

4)


Nghiên cứu so sánh các quy định về phạm tội chưa đạt trong pháp

luật hình sự một số nước trên thế giới;
5) Các quy định về phạm tội chưa đạt trong pháp luật hình sự Việt
Nam;

6)

Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

phạm tội chưa đạt;


11


7)

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

về phạm tội chưa đạt.
4. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở này, mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những
vấn đề lý luận về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, so sánh hành

vi phạm tội chưa đạt với các hành vi khác trong quá trình thực hiện tội phạm,
cũng như so sánh vấn đề này với một số nước trên thế giới. Ngoài ra, luận văn
còn phân tích và đánh giá những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và tồn tại

trong các quy định của pháp luật hình sự về phạm tội chưa đạt để từ đó, đưa ra
giải pháp hoàn thiện sửa đổi, bổ sung chế định này trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 hiện hành.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình hoàn thành, tác giả luận văn đã sử dụng tổng hợp và
đồng bộ các phương pháp nghiên cứu có độ tin cậy cao của khoa học luật hình
sự và một số ngành khoa học khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch
sử, so sánh, nghiên cứu (điều tra) án điển hình... để tổng hợp các tri thức khoa
học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong
luận văn.
6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của luận văn
Cơ sở khoa học của luận văn là quan điểm chính thống của các nhà
làm luật được thể hiện trong Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi
hành về phạm tội chưa đạt, cũng như hệ thống lý luận trong các công trình
khoa học, sách báo pháp lý của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan
đến chế định này.

12


Bên cạnh đó, cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn áp dụng việc áp
dụng các bản án của Tòa án nhân dân các cấp trên toàn quốc về phạm tội chưa
đạt theo luật hình sự Việt Nam trong phạm vi khoảng 10 năm gần đây (20002009) và qua đó để rút ra những nhận xét, đánh giá.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý

nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả

đã làm rõ khái niệm, cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội, khái niệm, bản
chất pháp lý của phạm tội chưa đạt, quyết định hình phạt trong trường hợp

phạm tội chưa đạt, nội dung và các căn cứ của các trường hợp phạm tội chưa
đạt trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định tương ứng đó ở
khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần
thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học
viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như
phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục,
cải tạo người phạm tội hiện nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về phạm tội chưa đạt trong luật hình sự.

Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội
chưa đạt.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và việc hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt.

13


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ

1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT

1.1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý

Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho
xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường
hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội
phạm cụ thể. Bởi vì, để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người
phạm tội phải tiến hành từng bước, dần từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn
bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần
thực hiện hành vi phạm tội; v.v...
Trước đây và hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm là
một trong những công việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên
trách bảo vệ pháp luật và toàn thể xã hội. Bên cạnh việc xử lý hành vi phạm
tội đã hoàn thành thì việc phát hiện, trừng trị những hành vi phạm tội chưa
hoàn thành là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do
hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân.
Như vậy, việc nghiên cứu khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm
tội do cố ý có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc xác định mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong từng thời điểm, cũng như
việc phân hóa trách nhiệm hình sự có căn cứ, khách quan và đúng pháp luật.
Hiện nay, các giai đoạn này có nhiều tên gọi khác nhau trong khoa học
và trên các sách báo pháp lý - các giai đoạn thực hiện tội phạm, các giai đoạn
trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý; các giai đoạn phạm tội; v.v...
Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ "các giai
đoạn phạm tội do cố ý" nhằm mục đích cho đơn giản, ngắn gọn và gắn liền

14


với quá trình (diễn biến khách quan) của chủ thể thực hiện các hành vi phạm
tội trên thực tiễn do cố ý, đồng thời phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội ở
từng thời điểm khác nhau của hành vi phạm tội, cũng như phản ánh có trường
hợp hành vi phạm tội là tội phạm và có trường hợp không phải là tội phạm,

qua đó phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với người
thực hiện hành vi đó.
Trước hết, trong khoa học luật hình sự Liên bang Nga quan niệm về
các giai đoạn phạm tội do cố ý là: 1) Các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực
hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của
những hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội
phạm (B.V.Zđravômxlôv); 2) Các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và
thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những
hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt những hành vi ấy
(X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội
phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và
nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết thúc
hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô); v.v... [13, tr. 440-441]. Hay trong luật hình
sự Cộng hòa Pháp gọi là "các giai đoạn thực hiện các tội phạm do cố ý" [14,
tr. 60]; v.v...
Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, về tên gọi có sự khác nhau
nhưng về bản chất pháp lý là giống nhau mặc dù cách thể hiện nội dung có sự
khác nhau, mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét.
GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) định
nghĩa: "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo một trình
tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng việc thực hiện các dấu
hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng và bằng mức độ
khác nhau của việc thực hiện sự cố ý phạm tội của chủ thể" [10, tr. 114]. Theo
đó, đây là quan điểm tương đối chính xác về mặt khoa học và đầy đủ về mặt
nội dung khi phản ánh sự thống nhất giữa phương diện khách quan và chủ

15


quan trong tội phạm, dựa trên cơ sở khoa học - các quy định của pháp luật

cũng như cơ sở thực tiễn - các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ tồn tại trong
lỗi cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, nhận thức về nội dung của định nghĩa này có
nhiều quan điểm khác nhau mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét.
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Trường Đại học Luật Hà Nội) cho rằng:
"Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao
gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [29, tr.
119]. Như vậy, theo quan điểm này thì chỉ những tội phạm cố ý khi thực hiện
thì hành vi phạm tội mới trải qua các giai đoạn - chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt và tội phạm hoàn thành và nhấn mạnh sự khác nhau giữa các giai
đoạn là mức độ thực hiện tội phạm cố ý.
Tác giả Trần Văn Đượm (Học viện Cảnh sát nhân dân) khẳng định
luôn là các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm và định nghĩa đây là "các bước
trong quá trình thực hiện tội phạm, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [18, tr. 176]. Quan điểm này chỉ khẳng
định được các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình thực
hiện tội phạm gồm có: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành.
Trong khi đó, cũng khẳng định như vậy, nhưng tác giả Lâm Minh
Hạnh (Viện Nhà nước và pháp luật) lại quan niệm có hai giai đoạn chính
trong các giai đoạn phạm tội: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong
quá trình thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm việc chuẩn bị phạm tội và thực
hiện tội phạm. Trong giai đoạn thực hiện tội phạm có thể có hai trường hợp
hoặc đã hoàn thành tội phạm hoặc đã phạm tội chưa đạt" [23, tr. 117], vì theo
tác giả, phạm tội chưa đạt và hoàn thành tội phạm chỉ là các trường hợp riêng
biệt trong các giai đoạn thực hiện tội phạm chứ không thể coi là giai đoạn
chính thức được. Quan niệm như vậy có phần đúng, nhưng chưa phân hóa và
cá thể hóa trách nhiệm hình sự một cách rõ ràng sự khác nhau giữa các giai
đoạn là mức độ thực hiện tội phạm do cố ý.

16



Gần đây, TS. Trịnh Tiến Việt (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội)
đưa ra khái niệm các giai đoạn phạm tội phản ánh hình thức lỗi và các giai
đoạn cụ thể trong các giai đoạn phạm tội, nhưng theo chúng tôi cũng cần phản
ánh rõ hơn mức độ nguy hiểm cho xã hội giữa các giai đoạn phạm tội do cố ý
thì sẽ đầy đủ hơn: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực
hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội
phạm hoàn thành" [80, tr. 126]; v.v...
Như vậy, về cơ bản, các quan điểm khoa học trong lý luận luật hình sự
Việt Nam đều thống nhất cho rằng, các giai đoạn phạm tội chỉ tồn tại dưới
hình thức lỗi cố ý, không tồn tại dưới hình thức lỗi vô ý, bởi vì, trong lỗi vô ý,
người phạm tội không nhận thức được hành vi mà mình thực hiện sẽ nguy
hiểm cho xã hội, cũng không thấy trước được hậu quả có thể xảy ra và họ
cũng không mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Tuy nhiên, một vấn đề khác lại đặt ra ở đây là tội cố ý có bao gồm cả
cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp hay không. Mặc dù vậy, về cơ bản, "đa số các
nhà khoa học pháp lý hình sự đều cho rằng quá trình phạm tội chỉ có ở hình
thức lỗi cố ý trực tiếp" [16, tr. 223]. Còn đối với những tội cố ý gián tiếp hay
vô ý chỉ có thể có trường hợp có tội và không có tội mà thôi. Tất nhiên, cũng
có quan điểm cho rằng "đối với những tội có cấu thành hình thức thực hiện
bằng không hành động, mặc dù có lỗi cố ý trực tiếp cũng không có hành vi
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt". Ví dụ: Tội không tố giác tội phạm
(Điều 314 Bộ luật hình sự), tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107 Bộ luật hình sự) [71, tr. 113]. Đặc
biệt, cũng có quan điểm lại cho rằng: các giai đoạn phạm tội có cả ở hình thức
lỗi cố ý gián tiếp. Theo đó, "cũng như trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực
tiếp, người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp cũng có ý thức lựa chọn một xử sự
phạm tội. Những gì nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra ở trường hợp phạm tội cố
ý gián tiếp là những điều tuy chủ thể không nhằm tới nhưng họ chấp nhận

việc nó xảy ra. Khi điều đó chưa xảy ra, chúng ta vẫn có thể và cần phải

17


đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc không xảy ra là do nguyên
nhân khách quan, còn chủ quan người phạm tội vẫn sẵn sàng chấp nhận việc
nó xảy ra. Về mặt thực tiễn, hiện nay chúng ta đã gặp những vụ việc đòi hỏi
cần xét xử về hình sự và việc xét xử này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở
thừa nhận nguyên tắc: các giai đoạn thực hiện tội phạm và trách nhiệm hình
sự đối với các giai đoạn phạm tội được đặt ra cho cả trường hợp phạm tội cố ý
gián tiếp" [28, tr. 68-69]. Chúng tôi nhận thấy, ý kiến này cũng chứa đựng
điểm hợp lý, tuy nhiên, thực tiễn xét xử ở Việt Nam chỉ thừa nhận có giai
đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đối với loại tội cố ý trực tiếp,
đối với trường hợp phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp thì người phạm tội đã nhận
thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhận thức được hậu
quả do hành vi của mình có thể gây ra nhưng hậu quả đó không phải là mục
đích chính của người phạm tội. Chính vì không mong muốn gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội nên họ phải chịu trách nhiệm hình sự hay nói cách khác
là không xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ở đây vì
thái độ của họ là thờ ơ, bỏ mặc. Cho nên, khoa học luật hình sự và thực tiễn
xét xử ở nước ta cho thấy giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
cũng như tội phạm hoàn thành chỉ xảy ra với lỗi cố ý trực tiếp mà thôi.
Vấn đề tiếp theo là các giai đoạn phạm tội do cố ý có thể chỉ được đặt
ra với tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cả với những tội có cấu thành
hình thức; có thể chỉ đặt ra với hành vi khách quan được thực hiện ở dạng
hành động hay còn cả ở dạng không hành động. Theo quan điểm được thừa
nhận chung trong khoa học luật hình sự nhiều nước và Việt Nam thì: trong các
tội thực hiện do cố ý trực tiếp chỉ đối với các tội có cấu thành tội phạm vật
chất mới có đầy đủ các giai đoạn thực hiện thành phần (chuẩn bị phạm tội,

phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành), ví dụ: Tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ
luật hình sự). Còn trong các tội có cấu thành tội phạm hình thức do hậu quả
không phải là điều kiện bắt buộc của tội phạm nên trong các loại tội này chỉ
có thể có tội phạm hoàn thành có chuẩn bị phạm tội mà không có phạm tội

18


chưa đạt. Bởi vì, khi người phạm tội thực hiện hành vi khách quan của cấu
thành tội phạm thì cũng là lúc tội phạm hoàn thành và không thể coi là phạm
tội chưa đạt được. Ví dụ: Tội cướp tài sản (Điều 133), người phạm tội đã thực
hiện hành vi dùng bạo lực tấn công người khác nhưng chưa chiếm đoạt được
tài sản của người đó thì đã cấu thành tội cướp tài sản; hay tương tự là tội phản
bội Tổ quốc (Điều 78), tội gián điệp (Điều 80 Bộ luật hình sự); v.v...
Ngoài ra, riêng đối với tội có cấu thành tội phạm cắt xén thì không có
các giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt mà chỉ có tội phạm
hoàn thành. Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79
Bộ luật hình sự). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội phạm có cấu thành hình
thức có thể có giai đoạn phạm tội chưa đạt, vì các tác giả này cho rằng phạm
tội chưa đạt có thể xảy ra trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi
đi liền trước hành vi khách quan. Ví dụ: Tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội hiếp dâm (Điều 111), tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ (Điều 81 Bộ luật hình sự). Với quan điểm này, chúng
tôi không đồng tình bởi vì riêng đối với tội hiếp dâm có giai đoạn phạm tội
chưa đạt. Dấu hiệu hành vi khách quan của tội này bao gồm: Một là, hành vi
dùng vũ lực (hoặc dùng thủ đoạn khác) để thực hiện, hai là, hành vi giao cấu
trái với ý muốn của người phụ nữ. Nếu người phạm tội đã cố ý dùng vũ lực
rồi mặc dù chưa thực hiện được hành vi giao cấu thì sẽ cấu thành tội hiếp dâm
ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Bởi vì, ở tội này có cấu thành có cấu thành vật
chất chứ không phải có cấu thành hình thức. Còn đối với tội cướp tài sản và

tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì chỉ cần người phạm tội thực hiện hành
vi dùng vũ lực đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hay hành vi bắt cóc con tin
và hành vi đe dọa nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc bất kỳ một hành vi nào được
mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm thì tội phạm đã hoàn
thành. Như vậy, chúng tôi không đồng ý với quan điểm trên vì nó không phù
hợp với bản chất của giai đoạn phạm tội chưa đạt.

19


Cũng như mọi trường hợp phạm tội nói chung, các trường hợp chuẩn
bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều được thực hiện bằng hành vi phạm tội.
Và các hành vi này chỉ có thể dưới dạng hành động. Ví dụ: Tội phản bội Tổ
quốc (Điều 78 Bộ luật hình sự). Còn loại tội được thực hiện bằng không hành
động chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm hoàn thành chứ không thể xảy ra
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được, tuy nhiên loại
tội này chỉ chiếm một tỷ lệ không nhiều trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Ví
dụ: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); v.v...
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam các giai đoạn phạm
tội do cố ý đều thống nhất là bao gồm - chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
và tội phạm hoàn thành. Với quy định này, việc xác định mức hình phạt áp
dụng đối với người thực hiện những hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt cụ thể hơn và quy định tỷ lệ hình phạt tối đa so với hình phạt có thể
được áp dụng trong trường hợp tội phạm hoàn thành. Việc quy định các giai
đoạn phạm tội nói chung và quy định chính xác tội phạm chưa hoàn thành nói
riêng (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) trong từng trường hợp cụ thể
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp chuẩn
bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Hành vi ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội bao

giờ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng thấp hơn ở giai đoạn
phạm tội chưa đạt và tương ứng như vậy, ở giai đoạn phạm tội chưa đạt luôn
thấp hơn so với giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là cơ sở để truy
cứu trách nhiệm hình sự, xác định đúng mức nguy hiểm cho xã hội của hành
vi nhằm bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ trong quyết định hình phạt một cách
công minh, không để oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm
tội theo đúng cơ sở của trách nhiệm hình sự: "Chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" (Điều 2 Bộ

20


luật hình sự). Theo đó, quy định cơ sở của trách hình sự như đã nêu chính là
thể hiện các nguyên tắc pháp chế và công bằng trong luật hình sự nước ta. Với
pháp chế, - chính là sự thể hiện cơ sở duy nhất, rõ ràng và dứt khoát nội dung
"... phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định..." của trách nhiệm hình
sự, còn với công bằng, - có nghĩa bảo đảm sự bình đẳng ngang nhau trong
đánh giá hành vi phạm tội của những người phạm tội, bình đẳng trước pháp
luật đối với tất cả mọi người với nội dung "người nào..." có nghĩa không trừ
bất kỳ một ai trong xã hội [79, tr. 1-2]. Về điều này, C. Mác đã viết: "... dưới
con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi do
chính người đó - do đó phải là hành vi của chính người đó. Giới hạn của y
phải là giới hạn của sự trừng phạt..." [42, tr. 169].
Quy định về các giai đoạn phạm tội do cố ý có ý nghĩa rất quan trọng,
nó là căn cứ để định tội danh. Điều này có nghĩa, việc xác định hành vi chuẩn
bị phạm tội nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội chưa đạt đã thực
hiện mà phạm vào một tội gì có trong số những tội phạm được quy định trong
Bộ luật hình sự. Việc xác định hành vi của một người đã phạm tội gì chính là
quá trình xác định hành vi của họ có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội

phạm trong Bộ luật hình sự. Khi xác định tội danh đó phải căn cứ vào các quy
định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và các tội phạm cụ thể được
pháp luật hình sự quy định thì mới định tội và định tội đối với đúng người và
đúng pháp luật.
Tóm lại, các giai đoạn phạm tội là những bước phát triển trong quá
trình thực hiện tội phạm do cố ý, phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội trong từng thời điểm khác nhau - chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
Như vậy, dưới góc độ khoa học, việc phân chia các giai đoạn phạm tội
trong luật hình sự dựa trên các căn cứ sau:

21


Thứ nhất, dựa trên diễn biến khách quan của quá trình phạm tội mà
cụ thể là dựa vào dấu hiệu hành vi và dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Theo đó,
tội phạm hoàn thành là tội phạm đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu khách quan
được quy định trong luật. Trong khi đó, phạm tội chưa đạt là trường hợp tội
phạm không thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn
của người phạm tội ngăn cản, nói cách khác đó là hành vi chưa thỏa mãn các
dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm. Còn chuẩn bị phạm tội là người
phạm tội mới tìm kiếm, sửa soạn công cụ thực hiện tội phạm chứ chưa thực
hiện hành vi phạm tội được quy định trong cấu thành tội phạm. Như vậy, các
giai đoạn phạm tội là những thang bậc khác nhau của quá trình thực hiện tội
phạm, mỗi thang bậc này có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không
giống nhau và được xếp theo trật tự nhẹ, nặng: từ chuẩn bị phạm tội đến tội
phạm hoàn thành. Nói một cách khác, các giai đoạn phạm tội phản ánh tính
chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm ở từng thời điểm. Trên quan điểm
này, về mặt nội dung, một hành vi phạm tội được coi là hoàn thành khi đã có
những đặc điểm thể hiện được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của mọi

loại tội phạm cụ thể, còn phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội chưa thể
hiện hết tính chất nguy hiểm của một loại tội phạm.
Thứ hai, ngoài dấu hiệu hành vi và dấu hiệu hậu quả, khi phân chia
các giai đoạn phạm tội do cố ý, luật hình sự nước ta còn căn cứ vào tính chất
khách thể tội phạm. Tính chất của quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại
phần nào phản ánh tính chất nguy hiểm của tội phạm. Tính chất nguy hiểm
cho xã hội của tội được xác định bằng nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có
yếu tố khách thể của tội phạm - những quan hệ xã hội được luật hình sự xác
lập, bảo vệ và bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến. Vì vậy, để bảo vệ
các quan hệ xã hội quan trọng một cách nghiêm ngặt, luật hình sự quy định
thời điểm hoàn thành của tội phạm sớm hơn [16, tr. 226-227]. Do đó, việc
phân chia các giai đoạn phạm tội cũng rõ ràng và chính xác hơn.

22


×