Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.89 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM VĂN HUÂN

NHỮNG CƠ SỞ VÀ CĂN CỨ
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM VĂN HUÂN

NHỮNG CƠ SỞ VÀ CĂN CỨ
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí

HÀ NỘI - 2013


2


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.3.
1.4.

Khởi tố vụ án hình sự
Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ
Ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ á
Cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hìn
Cơ sở khởi tố vụ án hình sự

Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Chủ thể, phạm vi, hậu quả pháp lý
Khái quát lịch sử hình thành và ph
hình sự Việt Nam về cơ sở và căn
Giai đoạn từ sau cách mạng tháng
điển hóa lần thứ nhất, Bộ luật tố tụn
Giai đoạn từ sau khi pháp điển lần
hình sự năm 1988 đến nay
Khởi tố vụ án trong các mô hình t
Chương 2: THỰC TIỄN VỀ CƠ SỞ VÀ

1.4.1.
1.4.2.
1.5.

HÌNH SỰ

2.1.

Qui định của Bộ luật tố tụng hình
căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Cơ sở khởi tố vụ án hình sự
Các căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Thực tiễn áp dụng cơ sở và căn cứ
Thực trạng áp dụng cơ sở khởi tố
Thực trạng áp dụng căn cứ khởi tố

2.1.1.
2.1.2.
2.2.

2.2.1.
2.2.2.

3


2.2.3.

Nguyên nhân của những ưu điể
hiện chế định cơ sở và căn cứ k
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG

QUẢ THỰC HIỆN CH

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌN

3.1.
3.2.

Yêu cầu về việc nâng cao hiệu
Giải pháp hoàn thiện các quy đ
căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Hoàn thiện các quy định về tiếp
kiểm sát việc tiếp nhận và giải
Hoàn thiện các quy định về xác
dấu hiệu tội phạm
Hoàn thiện các quy định về trác
sự và không khởi tố vụ án hình
Các giải pháp nâng cao vai trò
hoạt động khởi tố vụ án hình sự

Các giải pháp nâng cao về công
thuật và tài chính cho hoạt độn
Các giải pháp về bảo mật thông
người tố giác tội phạm
Các giải pháp khác

3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.3.
3.4.
3.5.
3.6.

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢ

4


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình
sự, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định có hay không dấu hiệu tội phạm
để quyết định đưa vụ việc giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự với nguyên
tắc "Mọi hình vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lí nhanh chóng,
công minh, theo đúng pháp luật". Trên tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 tại Điều 1 quy định:

Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự... nhằm chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng
và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội.
Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng
thời giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm [19].
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự,
đây là giai đoạn đầu tiên, mở đầu cho các giai đoạn tiếp theo của tố tụng hình
sự trong vụ án hình sự. Giai đoạn này bắt đầu từ việc tiếp nhận và phát hiện
các nguồn thông tin về tội phạm và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự
có căn cứ đúng pháp luật là cơ sở cho các hoạt động tiếp theo, ngược lại khởi
tố không có căn cứ pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng làm oan người vô tội hoặc
bỏ lọt tội phạm. Các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về khởi tố

5


vụ án hình sự nói chung và căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự nói riêng là cơ
sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền thực thi có hiệu quả quyết định đưa
sự việc giải quyết bằng thủ tục tố tụng hình sự. Đồng thời nó cũng là những
công cụ để bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự góp phần thực hiện
đấu tranh phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự đã bộc lộ những
hạn chế trong các qui định của pháp luật, như: các quy định về trách nhiệm tiếp
nhận thông tin về tội phạm, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết thông tin về tội

phạm; các quy định về trách nhiệm xác định dấu hiệu tội phạm, trách nhiệm
quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, công
tác kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động khởi tố vụ án hình sự và chế độ bảo
mật và bảo vệ người cung cấp thông tin về tội phạm còn hạn chế. Ngoài ra,
trong hoạt động tố tụng hình sự vẫn còn tình trạng các cơ quan có thẩm quyền
xác định không đúng căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình sự nên dẫn đến tình
trạng bỏ lọt tội phạm, bắt, giữ, giam, truy tố oan sai người vô tội. Thực trạng
đó làm ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước mà trước hết là uy tín của các cơ
quan bảo vệ pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nền tư pháp xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài "Những cơ sở
và căn cứ khởi tố vụ án hình sự" làm đề tài luận văn của mình. Qua quá trình
nghiên cứu tác giả mong muốn hiểu một cách sâu sắc nhất và có hệ thống về
các quy định trong chế định "Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự" để
nâng cao nhận thức bản thân nhằm nắm rõ và hiểu một cách sâu sắc, có hệ
thống các quy định của pháp luật về chế định "Cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án
hình sự". Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện
các quy định về khởi tố vụ án hình sự có cơ sở, đủ căn cứ và đúng pháp luật,
góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội tạo môi trường thuận lợi để thực hiện
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".

6


2. Tình hình nghiên cứu
Về chế định Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng
hình sự đã có một số công trình nghiên cứu nhưng chưa nhiều, nội dung
nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một vài khía cạnh của chế định: những cơ sở
và căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Mặt khác, thực tiễn hoạt động khởi tố vụ án

hình sự còn nhiều bất cập có nguyên nhân từ các quy định pháp luật tố tụng
hình sự có nội dung còn chưa rõ ràng do đó cần phải tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận về những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ
án hình sự trong tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003. Đồng thời thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện
chế định: những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự, xác định những nguyên
nhân của kết quả cũng như hạn chế, từ đó kiến nghị đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế định khởi tố vụ án hình sự đảm bảo
đúng pháp luật.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật,
đặc biệt là những chế định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về
khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn khởi tố vụ án hình sự. Thông qua đó làm rõ
những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn vận dụng phương pháp luận và phép biện chứng của chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức bộ máy
Nhà nước, trong đó có hệ thống cơ quan tư pháp trong Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác tư pháp thể
hiện trong các Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, 48-NQ/TW ngày 24/5,
49-NQ/TW ngày 02/5/2005 của Bộ Chính trị.

7


- Luận văn sử dụng các phương pháp: Phân tích, đối chiếu, so sánh,

tổng hợp, thống kê… Để khái quát đánh giá thực trạng hoạt động tố tụng về

khởi tố vụ án hình sự. Trong quá trình nghiên cứu tác giả nghiên cứu các văn
bản áp dụng pháp luật liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài, tiếp thu
chọn lọc ý kiến của chuyên gia và kết quả các công trình khoa học.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về căn cứ và căn cứ khởi tố vụ án hình
sự.
Chương 2: Thực tiễn về cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng cơ sở và căn cứ
khởi tố vụ án hình sự.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ SỞ VÀ CĂN CỨ
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề
quyền con người luôn là trung tâm của mọi cuộc cách mạng và tiến bộ xã hội.
Với quan điểm duy vật về lịch sử, triết học Mác - Lênin nói riêng, chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền con
người, khẳng định mối quan hệ gắn bó biện chứng giữa các quyền tự do cơ bản
với các điệu kiện và biện pháp đảm bảo thực hiện quyền con người trong thực
tế. Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là công cụ sắc bén được
Nhà nước sử dụng để quản lý và duy trì trật tự xã hội. Chính vì vậy, mọi công

dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật
đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, có như vậy, mới giữ vững được kỷ
cương phép nước, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong xã hội đó, con người vừa là
mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Chính vì vậy họ luôn được pháp luật
tôn trọng và bảo vệ. Họ không chỉ được bảo đảm các quyền tự do dân chủ mà
"Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm" [16, Điều 71].
Trong lịch sử lập pháp nước ta. Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ
giữa Nhà nước và người phạm tội, trong đó với tư cách là người bảo vệ lợi ích
của toàn xã hội, Nhà nước có quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án đối với người phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm
tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra.

9


Trong khoa học luật tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự là một khái
niệm được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, có thể hiểu đó là một chế
định của luật tố tụng hình sự, gồm tập hợp những quy định về trình tự và thủ
tục khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên cũng có thể hiểu khởi tố vụ án hình sự là
một hành vi tố tụng mở đầu của một vụ án hình sự mà trước hết là mở đầu cho
giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Một cách hiểu phổ biến hiện nay về khởi tố vụ
án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: Khởi tố vụ án hình sự là giai
đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình sự, trong đó các cơ quan có thẩm
quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự, làm cơ sở cho các
hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự.

1.1.2. Đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có thời
điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận thông
tin về tội phạm như: tố giác, tin báo về tội phạm; tin báo của cơ quan tổ chức;
tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; người phạm tội tự thú hoặc
các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm và thời
điểm kết thúc của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là khi các cơ quan tiến hành
tố tụng ra quyết định khởi tố hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Từ khái niệm chung nhất về khởi tố vụ án hình sự cho thấy giai đoạn này có
những đặc điểm chính sau đây:
Một là: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu
tiên, được bắt đầu với việc các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền tiếp
nhận tố giác, tin báo... hoặc trực trực tiếp phát hiện về tội phạm và thời điểm
kết thúc của giai đoạn này là việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
hoặc quyết định không khởi tố vị án hình sự.

10


Hai là: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ có nhiệm vụ xác định có
hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hay quyết định
không khởi tố vụ án hình sự.
Ba là: Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chủ thể có quyền tiến hành
các hoạt động tố tụng hình sự bao gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa
án; các Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra như Kiểm lâm,
Hải quan…
Bốn là: Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các biện pháp mà các cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền được áp dụng đó là:
Biện pháp yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân

cung cấp tài liệu cần thiết, liên quan đến tội phạm;
Biện pháp khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết của tội phạm; áp
dụng các biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của
người tố giác tội phạm...;
1.1.3. Ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Tố tụng hình sự là một quá trình thống nhất của nhiều giai đoạn tố tụng
độc lập. Giai đoạn tố tụng trước là tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau, giai đoạn
sau kiểm tra giai đoạn trước. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của
quá trình tố tụng hình sự giả quyết một vụ án và là giai đoạn tố tụng độc lập vì
giai đoạn này có đầy đủ các dấu hiệu của một giai đoạn tố tụng với mục tiêu và
nhiệm vụ riêng thể hiện trên các mặt như: Chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và
văn bản tố tụng.
Mục đích chung của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm không làm oan người vô tội, để thực hiện mục đích chung đó thì mục
đích cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định tội phạm, phát hiện
người phạm tội trên cơ sở xác định dấu hiệu của tội phạm bảo đảm pháp chế

11


của Nhà nước trước hành vi phạm tội nhằm ngăn ngừa và xử lý kịp thời tội
phạm, người phạm tội.
Như vậy giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có nhiệm vụ và ý nghĩa về mặt
lý luận, ý nghĩa về mặt pháp lý và ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội rất rõ ràng:
Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là sự tiếp nhận, xử lý tố giác, tin
báo về tội phạm; kiểm tra, xác minh nguồn thông tin đó để xác định có hay
không có tội phạm xảy ra làm cơ sở cho việc ra quyết định khởi tố hoặc không
khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn này có nhiệm vụ làm rõ các tình tiết loại trừ tố
tụng của vụ việc, đồng thời với việc giữ gìn, bảo quản những cơ sở và căn cứ

khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự tạo ra những điều kiện cần thiết để xác định người phạm tội, tội phạm ở giai
đoạn tiếp theo như: giai đoạn điều tra; truy tố; xét xử; Thi hành án hình sự theo
quy định của pháp luật.
Về mặt pháp lý: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu cho các giai
đoạn tố tụng hình sự tiếp theo để giải quyết vụ án hình sự. Thực hiện việc khởi
tố vụ án hình sự làm phát sinh quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án hình sự khi thực hiện các
hành vi tố tụng để phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh tội
phạm. Thời điểm bắt đầu áp dụng các qui định của Bộ luật hình sự và Bộ luật
tố tụng hình sự là khi các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định
khởi tố vụ án hình sự, từ thời điểm này các quan hệ pháp luật hình sự được
thực hiện.
Về mặt chính trị - xã hội: Khởi tố vụ án hình sự là biện pháp quan trọng
nhằm phòng ngừa, ngăn chặn hành vi phạm tội và là công cụ hữu hiệu để bảo
vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Đồng thời cũng thể hiện sự phản ứng nhạy cảm và kịp thời của hệ thống
đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm xác định sự thật của vụ án hình sự,
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, bảo đảm thực

12


hiện nguyên tắc công bằng, nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm và Người
phạm tội dù bất kể là ai nếu có lỗi thì phải bị trừng phạt của pháp luật. Việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án hình sự sẽ tạo sự tin
tưởng của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật.
Tội phạm là mặt tiêu cực của đời sống xã hội, tình hình tội phạm là
hiện tượng xã hội nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quan hệ xã hội
được pháp luật hình sự bảo vệ. Hậu quả do tội phạm gây ra thường rất lâu dài,

xâm phạm đến độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa, do đó nó tác động xấu đến các hiện tượng xã hội khác, tác
động tiêu cực đến tiến trình phát triển của xã hội.
Vì vậy việc đấu tranh phòng và chống tội phạm luôn là đòi hỏi sự quan
tâm lãnh đạo và thực hiện nghiêm túc của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
ngànhh các cấp, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức
xã hội - nghề nghiệp và mọi công dân trong đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án, Thi hành án giữ vai trò nòng cốt. Trên tinh thần đó, khởi tố vụ án
hình sự có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm. khởi tố vụ án hình sự chính thức công nhận sự tồn tại của một vụ án,
khẳng định trên thực tế sự kiện phạm tội đã xảy ra, từ đó làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong
việc xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, góp phần đảm bảo pháp chế,
giữ vững trật tự, an toàn xã hội.
Trên mọi mặt của đời sống xã hội mặc dù đã có các quy phạm pháp
luật để điều chỉnh hành vi của mọi chủ thể trong xã hội nhưng cũng không thể
tránh khỏi sự xâm phạm các quan hệ pháp luật được pháp luật hình sự bảo vệ.

13


chính vì vậy việc nhiều cơ quan được giao nhiệm vụ có thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự khi phát hiện dấu hiệu của tội phạm trên lĩnh vực mình phụ trách
phát huy được sự phản ứng nhanh chóng, chính xác, xử lý kịp thời đối với tội
phạm và người phạm tội
Việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và kịp thời sẽ góp phần bảo vệ lợi

ích chung của toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công
dân,bảo đảm thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời, việc khởi tố vụ án hình sự
nhanh chóng, kịp thời và chính xác có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giáo
dục công dân ý thức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, góp phần bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa làm cho nước mạnh dân cường, đem lại cuộc sống
bình yên cho xã hội, làm cơ sở cho mọi công dân cống hiến để xây dựng đất
nước ngày một giàu mạnh và phồn vinh.
Tuy nhiên, bên cạnh việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và kịp thời,
pháp luật hình sự cũng dự liệu và điều chỉnh việc khởi tố thiếu căn cứ pháp
luật. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định những căn cứ không được khởi tố vụ
án hình sự. đây là một quy định mang tính nhân văn sâu sắc nhằm bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của của công dân. Việc không khởi tố vụ án hình sự
khi có căn cứ mà pháp luật quy định là không khởi tố vụ án cũng tạo niềm tin
cho nhân dân vào sự công bằng của pháp luật, đồng thời cũng giảm thiểu
những chi phí xã hội không cần thiết cho công dân và cho nhà nước cũng như
toàn xã hội.
Việc khởi tố kịp thời các vụ án hình sự còn góp phần đấu tranh chống
tội phạm "ẩn", tình trạng tội phạm ẩn vẫn là vấn đề ngày càng được xã hội và
những nhà lập pháp quan tâm trong bối cảnh tình hình đất nước đang trong tiến
trình quá độ nên chủ nghĩa xã hội, chính vì vậy việc khởi tố kịp thời các vụ án
hình sự sẽ góp phần làm giảm tội phạm ẩn đang diễn ra trên đất nước ta.

14


1.2. CƠ SỞ VÀ CĂN CỨ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.2.1. Cơ sở khởi tố vụ án hình sự
a. Khái niệm cơ sở khởi tố vụ án hình sự
"Cơ sở khởi tố vụ án hình sự là những nguồn tin mà dựa vào đó cơ.

quan có thẩm quyền khởi tố xác định có dấu hiệu tội phạm".
Để tránh những sai sót có thể xảy ra, luật quy định chỉ được quyết định
khởi tố vụ án hình sự khi xác định có dấu hiệu tội phạm nhưng không phải
trong mọi trường hợp khi có tội phạm xảy ra thì cơ quan có thẩm quyền cũng
trực tiếp phát hiện được dấu hiệu tội phạm, rất nhiều trường hợp phải thông
qua các nguồn tin mà dựa vào đó dấu hiệu tội phạm mới được xác định. Các
nguồn tin này là cơ sở ban đầu để cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác minh
nhằm xác định dấu hiệu của tội phạm. Dấu hiệu của tội phạm được xác định
thông qua các nguồn tin do luật định có giá trị pháp lý để khởi tố vụ án hình sự,
nếu không dựa vào những cơ sở do luật định thì cơ quan có thẩm quyền cũng
không thể có được căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Mọi thông tin không được
xác định từ các cơ sở do luật định thì không thể coi là căn cứ khởi tố vụ án
hình sự.
b. Những cơ sở khởi tố vụ án hình sự
Thứ nhất, tin báo, tố giác về tội phạm của công dân
Tố giác về tội phạm là việc công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
của một người nào đó mà họ cho rằng là tội phạm. Công dân có quyền và nghĩa
vụ tố giác hành vi vi phạm pháp luật hình sự đối với cơ quan, tổ chức. Luật
không giới hạn công dân chỉ được tố giác đến cơ quan điều tra, viện kiểm sát
hay tòa án và do đó Công dân có thể tố giác tội phạm đến bất cứ cơ quan, tổ
chức nào nếu thuận tiện cho họ. Tố giác của công dân có thể trực tiếp bằng
miệng, bằng văn, qua điện thoại hoặc hòm thư điện tử... Người bị hại làm đơn
trình báo về sự việc phạm tội gây thiệt hại cho họ cũng là một hình thức của tố
giác tội phạm của công dân.

15


Khi công dân trực tiếp tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp
nhận tố giác đó có trách nhiệm giải thích cho người tố giác về trách nhiệm

pháp lý của họ đối với nội dung tố giác và lập biên bản ghi rõ ngày, tháng, năm
tiếp nhận, nội dung tố giác và yêu cầu người tố giác ký xác nhận
Trong trường hợp công dân tố giác tội phạm qua điện thoại thì cơ quan
tiếp nhận phải ghi lại họ, tên, địa chỉ và số điện thoại của người tố giác, nội
dung tố giác để trên cơ sở đó liên hệ với người tố giác để kiểm tra xác minh
nguồn tin tố giác.
Thứ hai, tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức
Tin báo của cơ quan, tổ chức là những thông tin về tội phạm do cơ
quan, tổ chức phát hiện hoặc do cơ quan, tổ chức nhận được tố giác của công
dân và sau đó báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.
Việc khởi tố vụ án hình sự dựa trên cơ sở tin báo của cơ quan, tổ chức chỉ được
thực hiện sau khi cơ quan điều tra, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra đã kiểm ra, xác minh và đã xác định có dấu hiệu tội
phạm theo quy định của pháp luật
Thứ ba, tin báo tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng
Nhằm phát huy vai trò to lớn của các phương tiện thông tin đại chúng
trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, Bộ luật tố tụng hình sự quy
định tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng là cơ sở để để xác định
dấu hiệu tội phạm vì vậy khi có tin báo về tội phạm trên các phương tiện thông
tin đại chúng các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm của mình
phải tiến hành xem xét, xác minh tin báo đó, nếu có dấu hiệu của tội phạm thì
khởi tố vụ án hình sự để điều tra phát hiện người phạm tội. Trong một số
trường hợp cơ quan thông tin đại chúng đề nghị cơ quan có thẩm quyền có ý
kiến trả lời bạn đọc thì cơ quan có thẩm quyền được yêu cầu phải có văn bản
trả lời cơ quan thông tin đại chúng đã đưa tin.

16


Thứ tư, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng,

Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công
an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm
Đây là những trường hợp các cơ quan nêu trên thông qua các hoạt động
thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đã phát hiện dấu hiệu của tội phạm và
trên cơ sở đó để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Thứ năm, người phạm tội tự thú
"Tự thú" là việc người đã thực hiện hành vi phạm tội tự nhận và khai rõ
về hành vi phạm tội của mình trước cơ quan, tổ chức. Pháp luật quy định tự thú
là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quy định này thể hiện tính nhân
văn và thực hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với những người đã
lầm lỗi nhưng biết nhận ra, ăn năn hối cải và quyết tâm sửa chữa để trở thành
người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời với quy định này cũng mang ý
nghĩa phòng ngừa tích cực, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều
tra nhanh chóng phát hiện tội phạm và ngăn chặn kịp thời những hành vi có thể
sẽ tiếp tục thực hiện tội phạm, mặt khác nó còn tác động đến tư tưởng của
những đối tượng khác đã hoặc đang có hành vi phạm tội cũng phải tự kiềm chế
hành vi và ý đồ thực hiện tội phạm của mình. Người phạm tội có thể tự thú
trước cơ quan công an, viện kiểm sát, tòa án hoặc cơ quan, tổ chức khác. Các
cơ quan, tổ chức tiếp nhận tự thú phải lập biên bản ghi rõ họ, tên, tuổi nghề
nghiệp, chỗ ở và những lời khai của người tự thú, trong đó ghi cụ thể về hành
vi phạm tội,những người có thể biết được việc phạm tội, công cụ, phương tiện
phạm tội (nếu có) và những tình tiết khác cho phép khẳng định lời khai của
người tự thú là đúng. Cán bộ tiếp nhận cùng người tự thú ký tên vào biên bản.
trong trường hợp cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú không phải
là cơ quan điều tra, viện kiểm sát thì cơ quan, tổ chức này có trách nhiệm báo
ngay cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát.

17



1.2.2. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
a. Khái niệm căn cứ khởi tố vụ án hình sự
"Căn cứ khởi tố vụ án hình sự là dấu hiệu tội phạm đã được xác định
trên những cơ sở khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật".
Khi chưa xác định được dấu hiệu của tội phạm thì việc tiến hành các
hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người bị nghi
thực hiện tội phạm có thể dẫn đến oan, sai, vi phạm quyền dân chủ của công
dân.
Để loại trừ những trường hợp oan, sai, vi phạm quyền tự do, dân chủ
của nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Chỉ được khởi tố vụ
án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Như vậy dấu hiệu của tội
phạm chính là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Việc xác định dấu hiệu của tội
phạm dựa trên những cơ sở do luật định (như tố giác của công dân; tin báo của
cơ quan, tổ chức; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; người phạm
tội tự thú; cơ quan điều ta, viện kiểm sát, tòa án, bộ đội biên phòng, hải quan,
kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của công an nhân dân,
quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực
tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm) mới là hợp pháp.
Khi xác định dấu hiệu tội phạm thì chỉ cần xác định có sự việc phạm tội
xảy ra mà chưa cần xác định ai là người thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi đã
khởi tố vụ án hình sự, cơ quan điều tra sẽ tiến hành các hoạt động điều tra để
xác định người thực hiện tội phạm.
b. Những căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền phải
xác định cho được vấn đề sau đây: Có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra và
hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm.

18



Hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,an toàn xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự
do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Như vậy nếu chỉ dựa vào những nguồn tin chưa có sự kiểm tra, xác
minh có dấu hiệu tội phạm hay không mà đã quyết định khởi tố vụ án hình sự
thì việc khởi tố vụ án hình sự như vậy không có căn cứ pháp luật.
Việc kiểm tra, xác minh các tin báo về tội phạm được pháp luật quy
định. Theo quy định của pháp luật khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm
hoặc kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh nguồn tin để
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thời hạn kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm là hai mươi ngày kể
từ khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đối với tin
báo trên các phương tiện thông tin đại chúng thì ngày tính thời hạn kiểm tra,
xác minh là ngày cơ quan, phương tiện thông tin đại chúng phát nguồn tin đó.
Trong trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm có nhiều tình tiết phức tạp hoặc
phải kiểm tra xác minh nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác, tin
báo có thể dài hơn nhưng không quá hai tháng. đây là những trường hợp mà
nội dung kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo hoặc kiến nghị khởi tố đòi hỏi phải
có kiến thức chuyên môn nhất định thì mới có thể đưa ra kết luận chính xác
hoặc việc kiểm tra, xác minh nguồn tin liên quan đến nhiều cơ quan, ở nhiều
địa điểm cách xa nhau.
Luật quy định thời hạn kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm nhằm
đề cao trách nhiệm của cơ quan điều tra mỗi khi nhận được nguồn tin về tội
phạm phải chủ động và khẩn trương áp dụng các biện pháp hợp pháp do


19


luật định để làm rõ có hay không có dấu hiệu của tội phạm để khởi tố vụ án
hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, đối với bất cứ nguồn tin tội
phạm nào, cơ quan điều tra phải tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh
nguồn tin bao gồm:
- Tiến hành kiểm ra giấy tờ tùy thân, hộ khẩu, đăng ký tạm trú của của

người bị tố cáo vi phạm pháp luật; yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
hoặc công dân có liên quan đến sự việc cung cấp những thông tin tài liệu cần
thiết. Những tài liệu có thể là những hiện vật có giá trị chứng minh sự việc
phạm tội hoặc các văn bản, giấy tờ, tài liệu, các biên bản kiểm tra nội bộ cơ
quan… trong trường hợp này các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công
dân có liên quan phải chấp hành đầy đủ các yêu cầu của cơ quan khởi tố vụ án
hình sự theo đúng quy định của pháp luật.
- Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân có liên quan

giải thích rõ sự việc. Nội dung yêu cầu giải thích chủ yếu để làm rõ dấu hiệu
tội phạm. khi yêu cầu giải thích, cơ quan khởi tố vụ án hình sự không được áp
dụng các biện pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố tụng đối với người được yêu
cầu giải thích.
- Khi cần thiết phải kiểm tra nội bộ cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội

thì phải yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan tự kiểm tra hoặc yêu cầu cơ quan
thanh tra cùng cấp tiến hành thanh tra để làm rõ sự việc.
- Trong trường hợp cần thiết thì khám nghiệm hiện trường và tiến hành

các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để xác định dấu hiệu của tội

phạm.
Tất cả tố giác, tin báo về tội phạm đều phải được kiểm tra kỹ để xác
định căn cứ khởi tố vụ án hình sự và tùy từng sự việc mà đề ra biện pháp kiểm
tra cho thích hợp. Khi kiểm tra phải triệt để chấp hành các quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự. Sau khi kiểm tra, xác minh, kết quả giải quyết tố giác, tin

20


báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được cơ
quan điều tra gửi đến viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ
chức đã báo tin hoặc người tố giác biết.
1.3. CHỦ THỂ, PHẠM VI, HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ

a. Chủ thể của thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
Khi có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự. Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công
an nhân dân. Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp như sau:
1- Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải
quan, lực lượng Cảnh sát biển có thẩm quyền khởi tố vụ án và khởi tố bị can
đối với tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang và có chứng cứ, lai lịch rõ
ràng, sau khi điều tra phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền
trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc
tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì Bộ đội biên phòng, Hải quan, lực

lượng Cảnh sát biển có thẩm quyền khởi tố vụ án, tiến hành một số hoạt động
điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong
thời hạn bảy ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án;
2- Trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, ngoài các Cơ quan
điều tra theo quy định của pháp luật thì các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình nếu phát
hiện sự việc có dấu hiệu của tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành

21


những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có
thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự;
Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp
Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các Cơ quan điều tra
và của Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân. Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và trong trường hợp
Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án.
Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi
tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm
hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
b. Phạm vi thẩm quyền của khởi tố vụ án hình sự
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra
Cơ quan cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân khởi tố các vụ án
hình sự về các tội quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXII
của Bộ luật hình sự, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan an ninh điều tra trong Công
an nhân dân. Trong cơ quan điều tra thì cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp
huyện khởi tố các vụ án về các tội phạm thuộc thẩm quyền của cơ quan cảnh

sát điều tra khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
cấp huyện; Cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh khởi tố các vụ án hình
sự về các tội thuộc thẩm quyền của cơ quan cảnh sát điều tra khi các tội đó
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, hoặc các tội phạm
thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện
nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra; Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an
khởi tố các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp
thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh
nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.

22


Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc về thủ trưởng,
phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp của lực lượng cảnh sát nhân dân.
Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân khởi tố các vụ án
hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XI (Các tội xâm phạm an ninh
Quốc gia), Chương XXIV (Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội
phạm chiến tranh) và các tội quy định tại các điều 180, 181, 221, 222, 223,
230, 231, 232, 236, 263, 264, 274, 275 của Bộ luật hình sự năm 1999. Những
tội phạm trên đều thuộc thẩm quyền khởi tố vụ án của cơ quan an ninh điều tra
công an cấp tỉnh, cơ quan an ninh điều tra Bộ công an chỉ khởi tố vụ án hình sự
về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra
của cơ quan an ninh điều tra công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần rực tiếp điều
tra.
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc về thủ trưởng,
phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp của lực lượng an ninh nhân dân.
Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân khởi tố các vụ án
hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII (Các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người) đến Chương

XXIII (Các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân) của Bộ luật
hình sự năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của cơ quan điều tra Viện
kiểm sát quân sự trung ương. Các tội phạm trên sẽ thuộc thẩm quyền khởi tố
vụ án hình sự của cơ quan điều tra hình sự khu vực khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực; thẩm quyền khởi tố vụ án của
cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự quân khu và tương đương hoặc các tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra hình sự khu vực nhưng
xét thấy cần trực tiếp điều tra. Đối với cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng
sẽ khởi tố các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng,

23


phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra hình sự quân khu và
tương đương nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Cơ quan an ninh điều tra trong quân đội nhân dân khởi tố các vụ án
hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật
hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Việc
khởi tố vụ án hình sự đối với những tội phạm trên sẽ thuộc thẩm quyền của cơ
quan an ninh điều tra và quân khu tương đương; thuộc thẩm quyền của cơ quan
an ninh điều tra Bộ Quốc phòng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức
tạp thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra quân khu và tương
đương nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc về thủ trưởng,
phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp trong quân đội nhân dân.
Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố vụ án
hình sự về một số loại tội xâm phạm đến hoạt động tư pháp mà người phạm tội
là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét

xử của Tòa án nhân dân. cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát quân sự trung
ương khởi tố vụ án hình sự về một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm
đó thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự.
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc về thủ trưởng,
phó thủ trưởng cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát quân sự trung ương.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Khi thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra,
các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra, lực lượng Cảnh sát biển, đơn vị Bộ đội biên
phòng, cơ quan Hải quan và cơ quan Kiểm lâm không có căn cứ thì Viện

24


kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố đó và ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự.
Trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án thì thẩm quyền
khởi tố vụ án thuộc thẩm quyền Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân các cấp.

Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
Tòa án khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án
hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa phát hiện ra tội phạm hoặc người
phạm tội mới cần phải điều tra. Trong quá trình chuẩn bị xét xử tòa án phát
hiện bị can phạm tội mới hoặc có đồng phạm khác, Tòa án không khởi tố vụ án
hình sự mà trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Thẩm quyền ra văn bản khởi tố vụ án hình sự của Tòa án thuộc về Hội
đồng xét xử.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của đơn vị Bộ đội, cơ quan hải

quan, cơ quan kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của
công an nhân dân, quân đội nhân dân
Đơn vị bộ đội biên phòng khi thực hiện nhiệm vụ của mình mà phát
hiện tội phạm quy định tại Chương XI (Các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và
các điều 119, 120, 153, 154, 172, 180, 181, 188, 192, 193, 194, 195, 196, 230,
232, 236, 263, 264, 273, 274, 275 của Bộ luật hình sự năm 1999 xảy ra trong
khu vực biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và trên các vùng biển do bộ đội
biên phòng quản lý có quyền khởi tố vụ án hình sự
Thẩm quyền ra văn bản khởi tố vụ án hình sự thuộc cục trưởng cục
trinh sát biên phòng, chỉ huy trưởng bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và tưởng đồn biên phòng.
Cơ quan hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực mình quản lý
mà phát hiện tội phạm quy định tại điều 153, điều 154 của Bộ luật hình sự năm
1999 thì cục trưởng cục điều tra chống buôn lậu, cục trưởng điều tra sau

25


×