Tải bản đầy đủ (.docx) (140 trang)

Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 140 trang )

Formatted: Left

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LẠI THỊ HỒNG

NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA VIỆC
CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LẠI THỊ HỒNG

NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA VIỆC
CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan

HÀ NỘI - 2012

2


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ
1.1.

Khái niệm chung về quyền

1.1.1.

Quyền sở hữu tài sản của

1.1.1.1.

Quyền sở hữu của vợ chồn

1.1.1.2.


Quyền sở hữu của vợ, chồ

1.1.2.

Mối quan hệ giữa các quy
vợ chồng và việc công chứ
vợ chồng

1.2.

Một số vấn đề lý luận côn
vợ chồng

1.2.1.

Khái niệm thỏa thuận về t

1.2.2.

Khái niệm công chứng thỏ

1.2.3.

Yêu cầu đối với văn bản c
của vợ chồng

1.2.3.1.

Yêu cầu về hình thức đối v
thuận về tài sản của vợ ch


1.2.3.2.

Yêu cầu về nội dung của v

4


tài sản của vợ chồng
1.2.3.3.

Trình tự, thủ tục chung c
của vợ chồng

1.3.

Ý nghĩa pháp lý của việ
của vợ chồng

Chương 2: ÁP DỤNG PHÁ

2.1.

Các trường hợp phát sin
tài sản của vợ chồng

2.1.1.

Yêu cầu công chứng the


2.1.2.

Yêu cầu công chứng the

2.1.3.

Công chứng thỏa thuận
cầu của bên thứ ba có li
vợ chồng

2.2.

Áp dụng pháp luật để cô
của vợ chồng trong thực

2.2.1.

Công chứng thỏa thuận
vào khối tài sản chung c

2.2.2.

Công chứng thỏa thuận

2.2.3.

Công chứng thỏa thuận
trong thời kỳ hôn nhân

2.2.4.


Công chứng thỏa thuận

2.2.5.

Công chứng thỏa thuận

2.2.6.

Thỏa thuận khôi phục ch
trong thời kỳ hôn nhân

2.2.7.

Thỏa thuận phân chia di

2.2.8.

Công chứng thỏa thuận

5


2.2.9.

Công chứng các thỏa thu
đồng, giao dịch giữa vợ v

Chương 3: MỘT SỐ VƯỚN


3.1.

Những vướng mắc phát s
cầu công chứng các thỏa

3.1.1.

Những vướng mắc phát s
hôn nhân và gia đình

3.1.2.

Những vướng mắc trong

3.1.3.

Những vướng mắc trong

3.1.4.

Một số điểm tồn tại trong

3.2.

Một số kiến nghị nhằm h
luật về công chứng thỏa

3.2.1.

Một số kiến nghị hoàn th

chứng các thỏa thuận về

3.2.1.1.

Một số kiến nghị nhằm h
luật hôn nhân và gia đình

3.2.1.2.

Một số kiến nghị nhằm h
nhà ở

3.2.1.3.

Một số kiến nghị nhằm h
luật đất đai

3.2.1.4.

Một số kiến nghị nhằm h

3.2.2.

Một số kiến nghị nhằm đ
công chứng
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THA

6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
CCV
LCC
LHN&GĐ
UBND
VPCCHN
Formatted: Left

7


8


MỞ ĐẦU

Formatted: Indent: First line:
0.5"

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Formatted: Space Before: 0 pt

Nền kinh tế thị trường mang lại cho kinh tế gia đình những cơ hội, đồng
thời cũng đặt kinh tế gia đình trước những rủi ro và thách thức. "Gia đình là
một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi đầu
tư cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững" [32]. Với vai trò quan
trọng như vậy, Nhà nước cần phải có chính sách nhằm bảo đảm sự phát triển ổn
định, bền vững cho gia đình và xã hội. Hoạt động công chứng hợp đồng, giao
dịch đã tỏ rõ là giải pháp hiệu quả để Nhà nước quản lý và bảo đảm an toàn
pháp lý cho các giao dịch phát sinh trong xã hội, trong đó có giao dịch về tài
sản của vợ chồng trong thời gian qua.
Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng xuất phát từ yêu cầu chính đáng của
vợ chồng trong việc chủ động nguồn vốn đề đầu tư kinh doanh, hạn chế các rủi
ro có thể gặp phải, bảo đảm quyền và lợi ích của vợ chồng và gia đình. Tuy
nhiên, do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế cộng với quy định còn phức
tạp, chưa cụ thể và thống nhất của pháp luật đã làm cho vợ chồng lúng túng, e
ngại khi lập văn bản thỏa thuận về tài sản. Trong khi đó, công chứng thỏa thuận
về tài sản của vợ chồng đã tỏ rõ những ưu việt của mình trong việc bảo đảm giá
trị pháp lý của văn bản công chứng, từ đó bảo đảm quyền và lợi ích của vợ
chồng và người thứ ba có quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ chồng, đồng
thời hạn chế các tranh chấp có thể phát sinh. Vì vậy, việc công chứng thỏa
thuận về tài sản được vợ chồng quan tâm, lựa chọn ngay cả khi pháp luật không
yêu cầu bắt buộc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải được công chứng.

9


Trong khi nhu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong
xã hội không ngừng gia tăng thì các quy định của pháp luật lại chưa theo kịp
với thực tiễn, các quy định hiện hành còn chưa rõ ràng, thống nhất đã gây khó
khăn cho công chứng viên (CCV) trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết
các yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trên thực tế.
Mặc dù là một vấn đề không mới và có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển của xã hội nói chung và gia đình nói riêng nhưng vấn đề công chứng

thỏa thuận về tài sản của vợ chồng chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu
một cách toàn diện. Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận
và thực tiễn, đặc biệt trong việc nâng cao giá trị pháp lý của văn bản công
chứng liên quan đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, một vấn đề quan trọng
mà những người làm nghề dịch vụ công chứng như chúng tôi phải bảo đảm.
Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: "Những khía cạnh pháp lý của
việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng" làm đề tài luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề công chứng dưới góc độ là hoạt động bổ trợ tư pháp đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn
trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, của
Đặng Văn Khanh; "Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước
trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, của
Tuấn Đạo Thanh… Vấn đề công chứng giao dịch tài sản nói chung cũng đã
được quan tâm nghiên cứu như: "Một số vấn đề về công chứng giao dịch tài

10


sản ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Đỗ Xuân Hòa. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các giao
dịch tài sản nói chung, còn việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý của việc công
chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng dưới góc độ thực hiện quyền tài
sản của vợ chồng thì chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện. Vì vậy,
có thể khẳng định, đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách chuyên
sâu, có hệ thống, toàn diện về vấn đề công chứng các thỏa thuận về tài sản của
vợ chồng, áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các yêu cầu công

chứng trên thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu nhằm các mục đích sau đây:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về tài sản của vợ
chồng, với vai trò là cơ sở pháp lý đảm bảo tính hợp pháp, có căn cứ của các
thỏa thuận về tài sản của vợ chồng tại cơ quan công chứng;
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về công chứng nhằm đảm
bảo giá trị pháp lý của văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
+ Giải quyết những vấn đề lý luận liên quan đến chế định tài sản của vợ
chồng là cơ sở pháp lý thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, xây dựng văn bản
công chứng và bảo đảm giá trị của văn bản công chứng.
+ Nghiên cứu một số tình huống thỏa thuận về tài sản của vợ chồng đã
gặp trong thực tiễn tại Văn phòng Công chứng Hà Nội (VPCCHN).
+ Phân tích mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật về tài sản của
vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Đất đai, Luật Nhà ở… và
Luật Công chứng (LCC), trên cơ sở đó có những đề xuất nhằm bảo đảm tính
chính xác, khách quan và giá trị pháp lý của văn bản công chứng, nâng cao

11


hiệu quả thực hiện công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng tại các
cơ quan công chứng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
+ Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về tài sản của vợ
chồng và pháp luật công chứng để xác định cơ sở pháp lý xây dựng và công
chứng văn bản thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.
+ Phân tích, đánh giá một số tình huống công chứng các thỏa thuận về

tài sản của vợ chồng thường gặp tại VPCCHN. Để đảm bảo giữ bí mật các
thông tin về nội dung công chứng theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 12
của LCC, các tình huống tại luận văn được xây dựng trên cơ sở các tình huống
đã gặp từ thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu việc công
chứng các thỏa thuận về tài sản giữa vợ và chồng mà không nghiên cứu việc
công chứng các thỏa thận khác về tài sản giữa vợ chồng với người thứ ba như
mua bán, tặng cho… Luận văn chỉ xem xét và đánh giá một số tình huống công
chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng thường gặp tại VPCCHN.
+ Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả cũng chỉ tập trung
nghiên cứu chế định tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
(LHN&GĐ) năm 2000 với vai trò là cơ sở pháp lý để xây dựng một văn bản
công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, không nghiên cứu các vấn đề
về nghiệp vụ công chứng.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật
lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: so sánh, phân

12


tích, tổng hợp, thống kê.
6. Những điểm mới và đóng góp của đề tài
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu một cách có
hệ thống những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận về tài
sản của vợ chồng.
- Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về công chứng thỏa

thuận về tài sản của vợ chồng, phát hiện những vướng mắc trong quá trình áp
dụng pháp luật để giải quyết việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ
chồng trên thực tiễn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
liên quan đến việc công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng để đảm bảo
giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về công chứng các thỏa thuận
tài sản của vợ chồng.
Chương 2: Áp dụng pháp luật giải quyết yêu cầu công chứng các thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng tại cơ quan công chứng.
Chương 3: Những vướng mắc, bất cập trong việc công chứng các thỏa
thuận về tài sản của vợ chồng và một số kiến nghị.

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG
CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

1.1.1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
Quan hệ vợ chồng được hình thành từ sự kiện kết hôn, sự kiện này làm
phát sinh quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng.
Kết hôn còn là một trong các sự kiện làm phát sinh một gia đình, với các chức
năng sinh đẻ, giáo dục và chức năng kinh tế. Sau khi kết hôn, vợ chồng có trách
nhiệm chăm sóc cho nhau, cùng nhau chia sẻ việc nuôi dưỡng và giáo dục con

cái cũng như thực hiện các giao dịch nhằm đảm bảo các nhu cầu vật chất và
tinh thần của gia đình. Để thực hiện được điều này, vợ chồng phải cùng nhau
duy trì một khối tài sản chung nhằm nuôi sống và đáp ứng các nhu cầu của các
thành viên trong gia đình. Vì vậy, quyền sở hữu tài sản là yếu tố quan trọng để
bảo đảm sự tồn tại và phát triển của gia đình. Dưới góc độ pháp lý, "quyền sở
hữu là tổng hợp một hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo
quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự" [63, tr. 178]. Như vậy, quyền sở hữu tài
sản của vợ chồng được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành để điều chính các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng. Quyền sở hữu này bao gồm quyền sở
hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng của mỗi bên và quyền sở hữu chung của
vợ chồng đối với tài sản chung. Vì vậy, vợ chồng có thể cùng lúc duy trì hai
hình thức sở hữu đối với tài sản đó là sở hữu chung đối với tài sản chung của
vợ chồng và sở hữu riêng đối với tài sản riêng.
Formatted: Vietnamese (Vietnam)

Trong thời kỳ hôn nhân, xuất phát từ tính cộng đcồng của quan hệ hôn
nhân, đòi hỏi vợ, chồng phải duy trì một khối tài sản chung để đảm bảo các
14


nhu cầu của vợ, chồng và các thành viên trong gia đình. Vì vậy, pháp luật cần
quy định cơ sở pháp lý để xác lập quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản
chung, là căn cứ để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình, quyền và lợi
ích của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, ngoài tài sản chung, vợ chồng
có thể có tài sản riêng là những tài sản hình thành trước khi kết hôn, khi chưa bị
các quan hệ hôn nhân gia đình chi phối hoặc những tài sản được thừa kế, được
tặng cho riêng... Mỗi hình thức sở hữu có đặc thù pháp lý riêng biệt, vì vậy,

việc xác định quyền sở hữu chung, sở hữu riêng của vợ chồng có ý nghĩa quan
trọng đối với việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng.
1.1.1.1. Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung
Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung là một trong các cơ
sở pháp lý để bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng thỏa thuận về tài
sản của vợ chồng. Vì vậy, việc CCV xác định đúng quyền sở hữu của vợ chồng
đối với tài sản yêu cầu công chứng sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo đảm
"tính hợp pháp" của văn bản công chứng.
 Căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 27 của LHN&GĐ năm 2000:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,
thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung [46].
Như vậy, việc xác định quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản
chung dựa vào các căn cứ là thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc phát sinh tài sản.
- Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân.
Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng chung sống với nhau, cùng nhau tạo
dựng tài sản chung và thực hiện các nghĩa vụ tài sản nhằm bảo đảm nhu cầu
15


của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, vì vậy, pháp luật cần quy định
cơ sở pháp lý để bảo đảm vợ chồng có thể sở hữu chung đối với tài sản trong
thời kỳ hôn nhân.
"Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính
từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân" [46, Điều 8].
Như vậy, ngày đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là mốc thời gian
bắt đầu tính thời kỳ hôn nhân. Những tài sản mà vợ chồng có được từ ngày

đăng ký kết hôn cho đến ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân là tài sản chung của
vợ chồng (trừ những tài sản được pháp luật quy định là tài sản riêng như được
tặng cho riêng, được thừa kế riêng, tài sản có được từ việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân).
Trên thực tế, để do điều kiện lịch sử, phong tục tập quán, chiến tranh
kéo dài nên rất nhiều trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
nhưng không đăng ký kết hôn. Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng
và các thành viên trong gia đình và góp phần giải quyết tình trạng "hôn nhân
thực tế" ở nước ta, đối với các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng trước ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng
của họ vẫn được pháp luật thừa nhận. Điểm a, Mục 3 của Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình quy định: Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước
ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có
hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn;
trong trường hợp yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy
định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Theo Mục 1 của
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của
Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: Cần chú ý là
trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực
16


hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể
từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ
không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn. Đây là một
trường hợp ngoại lệ của LHN&GĐ năm 2000, trong trường hợp này, thời kỳ
hôn nhân không được tính từ ngày đăng ký kết hôn mà được tính từ ngày vợ

chồng chung sống với nhau trên thực tế. Như vậy, trong trường hợp nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì tài sản mà họ có
được, thu nhập do lao động, sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp
khác từ "ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng" là tài sản chung
của vợ chồng.
Ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân được xác định dựa vào sự kiện: vợ,
chồng chết; quyết định tuyên bố vợ, chồng bị chết của Tòa án có hiệu lực pháp
luật; bản án ly hôn, quyết định về ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Đất đai là một tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân, do vậy, vợ chồng
chỉ có quyền sử dụng đất mà không có quyền sở hữu đất. Theo quy định tại
Khoản 1 Điều 27 của Luật Đất đai năm 2003LHN&GĐ năm 2000: "Quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế
riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận" [48]. Như vậy, thời kỳ
hôn nhân cũng là căn cứ để xác định quyền sử dụng chung của vợ chồng đối
với đất đai.
Trong thời kỳ hôn nhân, các tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, không phải mọi
trường hợp tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của
vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân chỉ là một trong các căn cứ để xác định tài sản
chung của vợ chồng. Để xác định chính xác tài sản của vợ, chồng

17

Formatted: Vietnamese (Vietnam)


là tài sản chung hay tài sản riêng, CCV còn phải căn cứ vào nguồn gốc phát
sinh tài sản của vợ chồng.

- Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tài sản của vợ chồng.
Tài sản của vợ chồng có thể được hình thành từ nhiều nguồn gốc khác
nhau như từ hoạt động lao động của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, từ sự
định đoạt hợp pháp của chủ sở hữu tài sản (tặng cho, thừa kế), từ sự thỏa thuận
của vợ chồng hoặc từ nguồn gốc hợp pháp khác được pháp luật thừa nhận.
+ Hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh của vợ chồng là nguồn gốc
tạo lập tài sản chủ yếu của vợ chồng. Tài sản được hình thành do lao động, hoạt
động sản xuất kinh doanh có thể là tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng, lợi
nhận từ đầu tư sản xuất kinh doanh, lợi tức thu được từ việc góp vốn, đầu tư
chứng khoán...
Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản do vợ chồng
"tạo ra" trong thời kỳ hôn nhân. Những tài sản này do vợ chồng dùng tài sản do
lao động, sản xuất kinh doanh và các nguồn tài sản hợp pháp khác để mua sắm,
trao đổi như máy vi tính, ô tô, xe máy, ti vi, tủ lạnh…
+ Quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng có thể được xác lập do sự
định đoạt của chủ sở hữu tài sản khi tặng cho hoặc để lại thừa kế cho cả hai vợ
chồng. Trường hợp này, việc xác lập quyền sở hữu tài sản của vợ chồng trên cơ
sở định đoạt hợp pháp tài sản từ người khác qua việc tặng cho tài sản hoặc
được hưởng di sản do thừa kế theo di chúc.
Việc tặng cho tài sản có giá trị thường được thực hiện đối với những
người có quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng như bố, mẹ, vợ, chồng,
con, tuy nhiên, cũng không loại trừ những trường hợp khác. Trong thời kỳ hôn
nhân, vợ chồng có thể được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy
định của pháp luật. Đối với trường hợp vợ chồng được hưởng

18


di sản theo di chúc mà di chúc để lại di sản cho cả hai vợ chồng, không phân
định rõ phần di sản mà mỗi người được hưởng thì di sản đó là tài sản chung của

hai vợ chồng.
+ Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung còn được xác lập
trên cơ sở thỏa thuận của vợ chồng.
Trong thời kỳ hôn nhân, việc cùng nhau tạo lập tài sản, đóng góp tài sản
để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình thể hiện trách nhiệm của vợ,
chồng đối với các thành viên trong gia đình. Vì vậy, việc thỏa thuận nhập tài
sản riêng của vợ, chồng vào khối tài sản chung để làm giàu cho khối tài sản
chung của vợ chồng cần được khuyến khích.
Trên thực tế, có nhiều tài sản có nguồn gốc là tài sản riêng nhưng được
vợ, chồng sử dụng cho gia đình, lâu dần không còn chứng cứ để xác định tài
sản đó là tài sản riêng hay tài sản chung thì vợ chồng hoàn toàn có thể thỏa
thuận để công nhận tài sản đó là tài sản chung. Xuất phát từ những lý do như
vậy, nhằm đảm bảo sự cân bằng, hợp lý và bảo đảm lợi ích của gia đình cũng
như các thành viên trong gia đình, pháp luật quy định "những tài sản khác mà
vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung" [46, Điều 27].
+ Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng còn được xác lập
dựa trên các căn cứ được pháp luật thừa nhận.
Những tài sản mà vợ chồng xác lập quyền sở hữu theo quy định của
pháp luật do phát hiện vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu, tìm
thấy vật bị chôn giấu, chìm đắm, vật do người khác đánh rơi, bỏ quên, gia súc,
gia cầm bị thất lạc… cũng là tài sản chung của hai vợ chồng. Theo quy định tại
Khoản 2, Điều 27 của LNH&GĐ năm 2000: "Trong trường hợp không có
chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng
của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung" [46]. Đây là nguyên tắc suy đoán
về tài sản chung của vợ chồng, lần đầu tiên được quy định trong

19


LNH&GĐ năm 2000, pháp luật về hôn nhân và gia đình trước đây chưa có quy

định cụ thể về vấn đề này.
Theo Điểm a, Khoản 3 của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, tài sản chung
của vợ chồng còn bao gồm: "tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số,
mà vợ, chồng có được" [58].
 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung.
Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt đối với tài sản chung.
Sự phát triển của quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ dựa vào sự nỗ
lực, cố gắng của một cá nhân, quan hệ này đòi hỏi sự nỗ lực, chung sức, chung
lòng của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, việc ỷ lại của một bên sẽ
làm cho quan hệ hôn nhân và gia đình khó phát triển. Vì vậy, trách nhiệm tạo
lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người là trách nhiệm
của vợ chồng. Bên cạnh các quyền hưởng thụ từ tài sản như chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản thì vợ chồng phải có trách nhiệm cùng nhau tạo lập
khối tài sản chung đó.
Đối với tài sản thuộc sở hữu chung, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tuy nhiên,
về nguyên tắc, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ, chồng
phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận và chỉ để bảo đảm nhu cầu của gia
đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự
hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu của gia đình. Quy định này nhằm xác định nghĩa vụ chung của vợ,
chồng đối với các giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng

20



thực hiện vì lợi ích chung của gia đình. Vợ, chồng có thể trực tiếp thực hiện các
giao dịch hoặc ủy quyền cho vợ hoặc chồng đại diện cho mình thực hiện các
giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Khoản 1, Điều 24 của
LHN&GĐ năm 2000 quy định: "Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập,
thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự
đồng ý của cả vợ chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản" [46, Điều
24].
Tài sản chung của vợ chồng là cơ sở đảm bảo cho gia đình tồn tại và
phát triển, đảm bảo quyền và lợi ích của vợ chồng và các thành viên trong gia
đình, đồng thời để thực hiện nghĩa vụ tài sản chung nhằm phục vụ cho nhu cầu
vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình...
Thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, vợ chồng có quyền
bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt
khác phù hợp với quy định của pháp luật đối. Đối với việc định đoạt tài sản
chung giữa vợ và chồng, vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận tặng cho tài sản giữa vợ và chồng,
thỏa thuận chia tài sản chung của "vợ chồng" sau khi ly hôn, thỏa thuận khôi
phục chế độ tài sản chung của vợ chồng…
1.1.1.2. Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng
Vợ, chồng chỉ có quyền xác lập các giao dịch về tài sản nếu tài sản đó
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình… Do vậy, việc xác định quyền sở hữu
của vợ, chồng đối với tài sản riêng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm giá
trị pháp lý của văn bản công chứng.
 Căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết
hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản
được chia riêng cho các bên theo thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng

21



Formatted: Vietnamese (Vietnam)

trong thời kỳ hôn nhân, đồ dùng, tư trang cá nhân. Như vậy, có thể dựa vào các
căn cứ các căn cứ sau đây để xác định quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài
sản riêng:
- Căn cứ vào thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản.
Theo quy định tại Điều 58 của Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi bổ
sung năm 2001: "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh
nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác, đối với đất được Nhà nước giao sử
dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18" [47]. Như vậy, trước khi kết
hôn, với vai trò là chủ thể của các quan hệ xã hội, "vợ, chồng" có quyền sở hữu
đối với thu nhập, của cải và tài sản khác được tạo lập hợp pháp theo quy định
của pháp luật. Những tài sản này không phải do "vợ, chồng" tạo ra trong thời
kỳ hôn nhân nên không chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ
hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Do vậy, những tài sản mà vợ chồng có
được trước khi kết hôn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ chồng ngay cả trong
thời kỳ hôn nhân.
- Tài sản mà vợ hoặc chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng
trong thời kỳ hôn nhân.
Việc định đoạt tài sản của chủ sở hữu cho một bên vợ hoặc chồng có
thể thực hiện bằng việc tặng cho riêng một bên vợ, chồng hoặc để lại di sản
thừa kế cho riêng vợ, chồng.
Chủ sở hữu có quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình
theo các hình thức được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, trong trường hợp, bằng
ý chí của mình, chủ sở hữu tặng cho riêng tài sản cho một bên vợ, chồng thì tài
sản đó tài sản riêng của vợ, chồng.
Trong trường hợp được hưởng di sản thừa kế, vợ, chồng có thể được
hưởng di sản theo di chúc (định đoạt tài sản riêng cho một bên) hoặc được


22


thừa kế theo pháp luật. Trong cả hai trường hợp này, vợ, chồng đều có quyền sở
hữu riêng đối với di sản được thừa kế.
- Tài sản riêng được chia từ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân.
Theo quy định tại Điều 30 LHN&GĐ năm 2000: "Trong trường hợp
chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia
thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc
sở hữu chung của vợ chồng" [46]. Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng là một trong các căn cứ để xác định quyền
sở hữu riêng của vợ, chồng đối với tài sản được hình thành trong thời
kỳ hôn nhân. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,
tài sản đã chia cho ai thuộc quyền sở hữu riêng của bên đó. Việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng dẫn đến "hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường
hợp vợ chồng có thỏa thuận khác" [18, Điều 8]. Ngoài ra, "thu nhập do lao
động, do hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng sau khi chia tài sản chung nếu không có thỏa thuận là tài sản riêng
của vợ chồng" [18, Điều 8].
Như vậy, sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, tài sản chia cho ai thuộc quyền sở hữu riêng của bên đó, nếu không có
thỏa thuận khác thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã chia, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác là tài sản
riêng của vợ, chồng.
- Tài sản riêng của vợ chồng còn có đồ dùng, tư trang cá nhân.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 32 của LHN&GĐ năm 2000, tài sản
riêng của vợ chồng còn bao gồm "đồ dùng, tư trang cá nhân". Đây là một quy

định mới của LHN&GĐ năm 2000, quy định này là phù hợp với thực tiễn,

23

Formatted: Vietnamese (Vietnam)


nhằm bảo đảm quyền tự do cá nhân và cuộc sống riêng tư của vợ, chồng. Tuy
nhiên, từ khi LHN&GĐ năm 2000 có hiệu lực đến nay, chưa có văn bản nào
của cơ quan có thẩm quyền giải thích cụ thể về "đồ dùng", tư trang cá nhân".
Theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành
phố Hồ Chính Minh do tác giả Nguyễn Như Ý là chủ biên, "đồ dùng" được giải
thích là "vật để sử dụng trong sinh hoạt, hoạt động thường ngày, thường do con
người tạo ra" [69, tr. 540]; "tư trang" được giải thích là "đồ trang sức của
người con gái mang theo khi về nhà chồng" và "các thứ đồ đạc cần thiết mang
theo của một cá nhân" [69, tr. 1704].
Trước đây, tại Điểm b, Mục 3, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có quy định:
Đối với đồ trang sức mà người vợ người chồng được cha mẹ
vợ hoặc chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng,
nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất
là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung. Khi
chia tài sản chung, những trang sức có giá trị không lớn so với tài
sản chung thì chia cho người đang sử dụng [57].
Tuy nhiên, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP nêu trên cũng chỉ dừng lại ở
việc hướng dẫn về đồ trang sức, hiểu thế nào là "đồ dùng, tư trang cá nhân" thì
vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Hiện nay, việc xác định đồ dùng, tư trang cá
nhân là tài sản riêng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm thì cho
rằng, "đồ dùng tư trang cá nhân dù mua sắm bằng tài sản chung hay tài sản
riêng của vợ, chồng đều là tài sản riêng của vợ, chồng bất luận đồ dùng, tư

trang cá nhân đó có giá trị hay không" [31, tr. 214]. Tuy nhiên, có quan điểm
khác thì cho rằng "đồ dùng, tư trang cá nhân mà vợ, chồng có được từ tài sản
riêng mới thuộc tài sản riêng của vợ, chồng" [31, tr. 214].
Cho đến nay, hiểu thế nào là đồ dùng, tư trang cá nhân vẫn chưa được
cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể, vì vậy, CCV sẽ gặp lúng túng trong

24


giải quyết yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng có liên quan
đến những tài sản mà người yêu cầu công chứng cho rằng là "đồ dùng, tư trang
cá nhân".
 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng.
Với tư cách là chủ sở hữu tài sản, vợ, chồng có toàn quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản riêng thuộc quyền sở hữu của mình, không phụ thuộc
vào ý chí của bên kia. Tuy nhiên, "trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc
chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó
là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải
được sự thỏa thuận của cả vợ chồng" [46, Điều 33]. Đây là quy định mới của
LHN&GĐ năm 2000, quy định hoàn toàn phù hợp với đặc thù của quan hệ hôn
nhân và gia đình, bởi lẽ vợ, chồng đều phải có trách nhiệm bảo đảm các nhu
cầu thiết yếu của gia đình, khi gia đình gặp khó khăn thì vợ chồng phải nỗ lực
hết sức có thể, kể cả dùng tài sản riêng để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của gia đình. Nhằm nâng cao trách nhiệm của vợ, chồng trong việc đảm bảo
các các nhu cầu thiết yếu của gia đình, Điều 25 của LHN&GĐ năm 2000 quy
định: "Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự
hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu của gia đình" [46].
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 32 của LHN&GĐ năm 2000: "Vợ, chồng
còn có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung" [46].

Việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng phục thuộc vào ý chí của chủ sở hữu tài
sản, do vậy, vợ, chồng bằng ý chí của mình có thể nhập tài sản riêng của

mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi nhập tài sản riêng vàoới
khối tài sản chung, tài sản thỏa thuận nhập trở thành tài sản chung của vợ
chồng. Việc định đoạt tài sản này phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng của mình hoặc có thể ủy quyền cho vợ,
chồng của mình quản lý. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng vợ, chồng chỉ được

25

Formatted: Vietnamese (Vietnam)


quản lý hộ tài sản của nhau chứ không có quyền xác lập quyền sở hữu hay định
đoạt tài sản riêng của bên kia (nếu không được vợ hoặc chồng ủy quyền).
Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản
riêng của người đó. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng phát sinh từ những
mục đích cá nhân của một bên mà không vì lợi ích chung của gia đình như bồi
thường thiệt hại do hành vi vi pháp luật gây ra, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
riêng… thì vợ, chồng phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện. Quy định
này nhằm mục đích bảo toàn cho khối tài sản chung của vợ chồng, không làm
ảnh hưởng đến lợi ích của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình.
Như vậy, về nguyên tắc, vợ, chồng với tư cách là các chủ sở hữu độc
lập đối với tài sản riêng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng
của mình không phụ thuộc vào ý chí của người khác, kể cả vợ hoặc chồng của
mình. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền
sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng trong một số trường hợp có thể bị
hạn chế nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
gia đình. Khi tài sản chung của vợ chồng có thể đảm bảo các nhu cầu thiết yếu

của gia đình thì quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng sẽ không bị
hạn chế, khi đó vợ, chồng có toàn quyền định đoạt tài sản theo hình thức phù
hợp với quy định của pháp luật mà không cần sự đồng ý của bên còn lại.

1.1.2. Mối quan hệ giữa các quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ
chồng và việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng
- Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một chế định trong pháp luật về
hôn nhân và gia đình được xây dựng từ các điều kiện kinh tế - xã hội và truyền
thống của gia đình Việt Nam. Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định các
quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng, đồng thời quy định các biện pháp
để bảo đảm cho các quyền của vợ, chồng được thực hiện. Một trong các

26


×