Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Pháp luật về công bố thông tin của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam thực tiễn pháp lý và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.72 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ

7

THÔNG TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT VÀ PHÁP LUẬT
CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT
1.1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN

7

CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT
1.1.1.

Niêm yết chứng khoán và tình hình phát triển công ty

7

niêm yết trên thị trường chứng khoán
1.1.2.



Hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết trên

16

thị trường chứng khoán
1.2.

KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG

24

TYNIÊMYẾTTRÊNTHỊTRƯỜNGCHỨNGKHOÁN
1.2.1.

Sự cấn thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với

24

hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết
1.2.2.

Các yêu cầu đối với pháp luật về công bố thông tin

29

của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
1.2.3.

Nội dung điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động


33

công bố thông tin của công ty niêm yết
1.2.4.

Khái quát sự phát triển pháp luật về công bố thông

44

tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
1.3.

KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI

47

VỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA MỘT SỐ
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THỂ GIỚI VÀ BÀI HỌC
RÚT RA CHO VIỆT NAM
1.3.1.

Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng

48

khoán Mỹ
1.3.2.

Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng

1

49


khoán Trung Quốc
1.3.3.

Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng

52

khoán Nhật Bản
1.3.4.

Bài học rút ra cho Việt Nam trong việc điều chỉnh

54

bằng pháp luật đối với hoạt động công bố thông tin
của công ty niêm yết
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

57

Chương 2: THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ

58

THÔNG TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ

TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.1.

THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN

58

CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.1.

Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về công bố

58

thông tin
2.1.2.

Đánh giá thực trạng hoạt động công bố thông tin của

78

công ty niêm yết
2.2.

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

92


CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT
2.2.1.

Các đề xuất giải pháp ngắn hạn

95

2.2.2.

Các đề xuất giải pháp dài hạn

114

KẾT LUẬN

125

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

127

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Phạm Thị Hồng Nhung


PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA
CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM THỰC TIỄN PHÁP LÝ VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.50

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2011


Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Giang Thu

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 200….

Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội



MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ

7

THÔNG TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT VÀ PHÁP LUẬT
CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT
1.1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN

7

CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT
1.1.1.

Niêm yết chứng khoán và tình hình phát triển công ty

7


niêm yết trên thị trường chứng khoán
1.1.2.

Hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết trên

16

thị trường chứng khoán
1.2.

KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG

24

TYNIÊMYẾTTRÊNTHỊTRƯỜNGCHỨNGKHOÁN
1.2.1.

Sự cấn thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với

24

hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết
1.2.2.

Các yêu cầu đối với pháp luật về công bố thông tin

29

của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
1.2.3.


Nội dung điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động

33

công bố thông tin của công ty niêm yết
1.2.4.

Khái quát sự phát triển pháp luật về công bố thông

44

tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
1.3.

KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI

47

VỚI HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA MỘT SỐ
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THỂ GIỚI VÀ BÀI HỌC
RÚT RA CHO VIỆT NAM
1.3.1.

Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng

48

khoán Mỹ
1.3.2.


Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng
1

49


khoán Trung Quốc
1.3.3.

Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng

52

khoán Nhật Bản
1.3.4.

Bài học rút ra cho Việt Nam trong việc điều chỉnh

54

bằng pháp luật đối với hoạt động công bố thông tin
của công ty niêm yết
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

57

Chương 2: THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ

58


THÔNG TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.1.

THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN

58

CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.1.

Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về công bố

58

thông tin
2.1.2.

Đánh giá thực trạng hoạt động công bố thông tin của

78

công ty niêm yết
2.2.

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT


92

CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT
2.2.1.

Các đề xuất giải pháp ngắn hạn

95

2.2.2.

Các đề xuất giải pháp dài hạn

114

KẾT LUẬN

125

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

127

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời (năm 2000) và phát triển đến nay đã

10 năm, nhân tố chính tham gia thị trường là các công ty niêm yết và nhà đầu tư…
Các công ty niêm yết cũng từng bước lớn mạnh và phần lớn có được kết quả kinh
doanh khả quan. Nhà đầu tư ngày càng phát triển về số lượng, đa dạng về thành phần
và tính chuyên nghiệp ngày càng cao hơn. Có rất nhiều yếu tố giúp nhà đầu tư và các
công ty niêm yết gặp nhau. Song thông tin được xem như sợi dây xuyên suốt liên kết
giữa họ.
Minh bạch thông tin là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng giúp thị
trường chứng khoán phát triển bền vững, lành mạnh. Do vậy, ngay từ khi trường
chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động vấn đề công bố thông tin của công ty niêm
yết được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, qua thực tiễn có thể đánh giá tổng quan
rằng: Các quy định của pháp luật, việc thực thi pháp luật, việc thanh tra xử lý vi phạm
pháp luật về công bố thông tin, nhất là việc công bố thông tin của các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu của người
sử dụng thông tin, chưa phù hợp với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Gần
đây, một thực trạng diễn ra khá phổ biến của các công ty niêm yết đã được các
phương tiện thông tin đại chúng phản ánh, đó là hiện tượng chậm công bố hoặc công
bố thông tin sai lệch, thông tin không đầy đủ, chưa kịp thời, chất lượng thông tin còn
nhiều bất cập, tình trạng thông tin bất cân xứng còn phổ biến…gây bức xúc cho nhà
đầu tư và làm đau đầu những nhà quản lý. Thông tin không làm được chức năng
hướng dẫn dư luận và định hướng thị trường, gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích và tâm lý
nhà đầu tư, cũng như công tác quản lý và điều hành thị trường chứng khoán.
Do đó việc nghiên cứu, tìm kiếm đề xuất các giải pháp xây dựng và thực thi
pháp luật công bố thông tin của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán hiện
nay là yêu cầu khách quan và cấp bách.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề công bố thông tin của công ty niêm yết với tư cách là chủ thể chính cung
cấp nguồn hàng hóa trên thị trường chứng khoán trong thời gian qua và hiện nay đang
3



tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập và là chủ đề “nóng” luôn được đề cập trong các diễn
đàn chứng khoán. Nhiều chuyên gia kinh tế, nhà nghiên cứu, những người có chức
trách trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền…đang cùng nhau tìm giải pháp cho
bài toán “Minh bạch hoá thông tin trên thị tường chứng khoán” bằng nhiều bài viết
được công bố nhưng chưa có những giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Vì lý do đó,
Tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật công bố thông tin của công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam thực tiễn pháp lý và phương hướng hoàn
thiện” Làm luận văn tốt nghiệp cao học Luật là một đề tài có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Là luận văn chuyên ngành luật học, luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận
và thực trạng quy định pháp luật hiện hành về công bố thông tin của công ty niêm yết
trong mối tương quan với quá trình xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam trong
điều kiện mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận văn không nghiên cứu pháp luật về công bố thông tin của các chủ thể
khác như các quỹ đại chúng, các tổ chức phát hành, cũng như các tổ chức niêm yết
khác mà không phải là công ty cổ phần đại chúng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng lý luận cơ bản của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác –Lênin, Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích,
khảo sát thực tiễn, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam và thực tế áp dụng, sử
dụng các số liệu thống kê, một số vụ việc thực tế để minh chứng cho những vấn đề
được đề cập.
5 . Nội dung nghiên cứu chính của đề tài
Luận văn nghiên cứu xây dựng hệ thống lý luận về thông tin của CTNY, công bố
thông tin, khái quát tình hình phát triển và đánh giá thực trạng CBTT của công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp và phương hướng hoàn thiện các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam về vấn đề đã nêu.
4



6. Những đóng góp về khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận khoa học, luận văn đã hệ thống hoá được những lý luận về
thông tin, hoạt động công bố thông tin trên TTCK Việt Nam. Khái quát hoá quá trình
hình thành phát triển pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam, phân tích những kết
quả đạt được, những bất cập trong việc thực thi pháp luật về CBTT của công ty niêm
yết, trên cơ sở đó luận văn xây dựng được hệ thống quan điểm lý luận và đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin của công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, các kết luận, đề xuất giải pháp được đề cập trong luận văn hy
vọng sẽ là những gợi ý, đóng góp cho việc sửa đổi xây dựng mới các qui định pháp
luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam mà Bộ tài Chính
đang chủ trì thực hiện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu làm hai chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công bố thông tin và pháp luật công
bố thông tin của công ty niêm yết
Chương 2: Thực tiễn pháp lý về công bố thông tin của công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam và phương hướng hoàn thiện

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG
TY NIÊM YẾT VÀ PHÁP LUẬT CÔNG BỐ THÔNG TIN
CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY

NIÊM YẾT
1.1.1. Niêm yết chứng khoán và tình hình phát triển công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán
1.1.1.1. Niêm yết chứng khoán
a) Khái niệm niêm yết chứng khoán
Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn vào
đăng ký và giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung (Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán).
Như vậy, để có thể được niêm yết tại một Sở giao dịch chứng khoán nào đó thì
chủ thể xin niêm yết phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn do Sở đó đặt ra. Việc niêm yết
chứng khoán đối với Sở giao dịch, chủ yếu là nhằm lựa chọn các chứng khoán có
chất lượng cao đưa vào giao dịch để bảo đảm cho hoạt động giao dịch của Sở giao
dịch đó diễn ra một cách có tổ chức, ổn định, đồng thời nhằm bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp và tạo lòng tin cho công chúng đầu tư.
b) Điều kiện niêm yết chứng khoán
Ở Việt Nam hiện nay, TTCK có 2 sở GDCK đặt ở 2 thành phố lớn, phù hợp
với quy định của pháp luật và mục đích hoạt động của mình, mỗi sở GDCK Việt Nam
cũng đặt ra các điều kiện niêm yết khác nhau, cụ thể:
Một là, Sở GDCK tp Hồ Chí Minh (Tên tiếng Anh là Hochiminh Stock
Exchange – HOSE), tiền thân là Trung tâm giao dịch chứng khoán tp Hồ Chí Minh
được thành lập theo quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998, khai trương
và đi vào vận hành từ ngày 20/07/2000. Phiên giao dịch đầu tiên được tổ chức vào
ngày 28/07/2000 với 2 loại cổ phiếu niêm yết. Sau gần 7 năm hoạt động đến ngày
11/05/2007 trung tâm này được chuyển đổi thành Sở GDCK tp Hồ Chí Minh theo
quyết định 599/2007/QĐ-TTg, chính thức khai trương vào ngày 08/08/2007. Sở
6


GDCK tp Hồ Chí Minh được tổ chức theo mô hình công ty TNHH 1 thành viên thuộc
sở hữu nhà nước hoạt động theo quy định của luật Doanh Nghiệp, luật Chứng Khoán,

điều lệ của Sở GDCK và qui định pháp luật khác [49].
Để niêm yết cổ phiếu tại sở GDCK tp Hồ Chí Minh, Công ty đại chúng phải
thoả mãn những điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định số
14/2007/NĐ-CP.
Hai là, Sở GDCK Hà Nội (Tên tiếng Anh là Hanoi Stock Exchange – HNX),
tiền thân là Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội được thành lập theo quyết định
số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998, khai trương và đi vào vận hành từ ngày
08/03/2005. Sau gần 4 năm hoạt động đến ngày 02/01/2009 trung tâm này được
chuyển đổi thành Sở GDCK Hà Nội theo quyết định 01/2009/QĐ-TTG. Sở GDCK
Hà Nội được tổ chức theo mô hình công ty TNHH 1 thành viên thuộc sở hữu nhà
nước hoạt động theo quy định của luật Doanh nghiệp, luật Chứng khoán, điều lệ của
Sở GDCK và qui định pháp luật khác [49].
Để niêm yết cổ phiếu tại sở GDCK tp Hồ Chí Minh, Công ty đại chúng phải
thoả mãn những điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số
14/2007/NĐ-CP.
Các điều kiện niêm yết do mỗi Sở GDCK đặt ra được coi như bộ lọc để lọc những
chứng khoán kém chất lượng, thông qua đó bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, và bảo đảm
hoạt động của thị trường diễn ra bình thường, hiệu quả và phát triển bền vững.

1.1.1.2. Tình hình phát triển công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
So với các nước trên thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời muộn,
nhưng đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Trên thực tế sự phát triển của TTCK Việt Nam
những năm qua đã cho thấy số lượng các CTNY ngày càng gia tăng một cách nhanh
chóng, không ngừng lớn mạnh về qui mô vốn và cung cấp lượng hàng hoá đủ lớn cho
thị trường. Biểu đồ dưới đây cho thấy rõ điều đó:

7


Biểu 1: Qui mô công ty niêm yết giai đoạn 2000 - 2010

700
600
500
400

HNX
HOSE
Tổng

300
200
100
0
2000

2002

2004

2006

2008

2010

Bên cạnh việc gia tăng về số lượng và qui mô vốn của CTNY, giao dịch chứng
khoán niêm yết trên các sở giao dịch diễn ra theo xu thế ngày càng gia tăng mạnh mẽ.
Bằng những kỷ lục về số lượng và giá trị giao dịch cho thấy rõ đà phát triển nhanh
của TTCK niêm yết trong những năm gần đây. Tính thanh khoản của cổ phiếu niêm
yết được cải thiện rõ rệt. Chỉ so sánh trong một năm, năm 2009 khối lượng và giá trị

giao dịch bình quân tăng hơn 200% so với năm 2008. Cùng với việc SGDCK
tp.HCM chính thức triển khai giao dịch trực tuyến vào ngày 12/01/2009 là một điều
kiện quan trọng góp phần vào việc tăng tính thanh khoản của thị trường. Theo đó,
lệnh giao dịch của nhà đầu tư được công ty chứng khoán chuyển thẳng vào hệ thống
của SGDCK mà không cần qua đại diện tại sàn, tốc độ truyền lệnh từ Công ty chứng
khoán vào lệnh của SGDCK tp. HCM đạt 220 lệnh/giây so với 8-10 giây/lệnh trước
đó và không quá một giây để nhà đầu tư biết được lệnh đã khớp. Đây được coi là một
bước tiến lớn thức đẩy TTCK niêm yết Việt nam phát triển mạnh mẽ. Quy mô thị
trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn
vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt
trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP
vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007. Trước biến động của
thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá

8


chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường
giảm hơn 50%, xuống còn 18%. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi
phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số
lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Giá trị vốn
hóa thị trường cổ phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,7% GDP. Ước tính đến cuối
năm 2010 sẽ đạt khoảng từ 40-50% GDP [11].
1.1.2. Hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán

1.1.2.1. Thông tin trên thị trường chứng khoán niêm yết
Bí quyết đầu tư là “Lấy thông tin trước chứ không phải sau khi đầu tư. Sẽ tốn
thời gian khi tự tìm kiếm thông tin, nhưng sẽ tốn tiền khi không nắm được thông tin.
Thông tin không rõ ràng làm nên rủi ro lớn cho một chứng khoán” [27]. Như vậy,

thông tin chính là cơ sở cho hoạt động và sự phát triển của thị trường chứng khoán,
với một nhà đầu tư khi tham gia thị trường này, họ phải có hai “vũ khí” là thông tin
và kỹ năng đầu tư. Thiếu một trong hai, nhà đầu tư sẽ thất bại.
Khái niệm thông tin trên trị trường chứng khoán niêm yết cũng được tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau: Dưới góc độ kinh tế, dưới góc độ xã hội, dưới góc độ
pháp lý... Ở mỗi góc độ tiếp cận này, khái niệm thông tin được hiểu theo nội hàm
rộng, hẹp khác nhau. Song nhìn chung đa số các quan điểm nghiên cứu đều thống
nhất rằng: Thông tin trên thị trường niêm yết là hệ thống các dữ liệu liên quan đến
tổ chức niêm yết do các chủ thể có thẩm quyền cung cấp theo một trình tự, phương
thức do pháp luật quy định.
Đặc điểm của thông tin trên thị trường niêm yết
- Thông tin trên thị trường niêm yết là cơ sở để các công chúng đầu tư phân
tích đánh giá và đưa ra quyết định mua - bán chứng khoán. Với ưu thế là các
chứng khoán được niêm yết công khai các thông tin về nó là thước đo phản ánh giá
trị doanh nghiệp. Thông qua hệ thống các chỉ số về vốn, lợi nhuận, chiến lược kinh
doanh,... nhà đầu tư thấy được tiềm năng phát triển của tổ chức phát hành, tổ chức
niêm yết để đưa ra quyết định đầu tư.
- Thông tin trên thị trường niêm yết là một trong những biểu hiện làm gia
tăng giá trị của công ty niêm yết. Việc niêm yết trên TTCK là một lợi thế không thể
phủ nhận được của các công ty, nó xem như một kênh quản cáo rất hữu hiệu, tạo
9


thêm lợi thế cạnh tranh trên thương trường cho công ty vì thông qua số lượng cổ
phiếu của công ty được giao dịch hàng ngày, công ty sẽ thu hút thêm được các đối tác
mới cũng như những nhà đầu tư tiềm năng.
- Thông tin trên thị trường niêm yết làm tăng tính thanh khoản cho chứng
khoán và tạo điều kiện để doanh nghiệp niêm yết huy động vốn với chi phí thấp
Chứng khoán được niêm yết ở Sở GDCK phải đạt được những điều kiện nhất
định, thường là các loại chứng khoán có chất lượng cao tạo ra sự hấp dẫn với các nhà

đầu tư, từ đó việc mua bán chứng khoán của doanh nghiệp được thực hiện thuận lợi
hơn, người đầu tư dễ dàng chuyển đổi thành tiền. Các thông tin về công ty niêm yết là
yếu tố quan trọng quyết định đến việc xác định và hình thành giá thị trường của
chứng khoán do công ty phát hành.
- Thông tin trên thị trường niêm yết có thể làm công ty đối mặt nhiều hơn
với những rủi ro từ những hành vi phi pháp, một doanh nghiệp có chứng khoán
được niêm yết dễ trở thành đối tượng tấn công của các hành vi trái pháp luật trên thị
trường như các hành vi tung tin đồn nhảm sai sự thật, các hoạt động đầu cơ phi pháp
lũng đoạn thị trường, hoặc các công ty niêm yết làm ăn hiệu quả dễ trở thành mục
tiêu của hoạt động thâu tóm và sáp nhập doanh nghiệp...
1.1.2.2. Hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết
Là thị trường của thông tin, vì vậy bất cứ thị trường chứng khoán nào cũng cần
được tổ chức khoa học và hoạt động theo nguyên tắc công khai thông qua hoạt động
công bố thông tin.
Công bố thông tin là hoạt dộng của các chủ thể có thẩm quyền nhằm công
khai những thông tin về doanh nghiệp niêm yết và thông tin thị trường tới các nhà
đầu tư thông qua hệ thống thông tin được quy định (của UBCKNN; Sở giao dịch
chứng khoán và của chính chủ thể niêm yết).
Các nguyên tắc trong công bố thông tin
Một là, Nguyên tắc chính xác, trung thực, đầy đủ
Hai là, Nguyên tắc kịp thời, liên tục
Ba là, Nguyên tắc bảo đảm tính công bằng

10


1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.2.1. Sự cần thiết phải
điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động công bố thông tin của công ty niêm
yết

Tuân thủ pháp luật là yêu cầu bắt buộc đối với các chủ thể tham gia thị trường
chứng khoán nói chung, với đặc trưng là một thị trường giao dịch có tổ chức, việc
điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động CBTT của CTNY là cần thiết, khách
quan, vì những lý do sau đây:
Một là, Để tổ chức và vận hành thị trường TTCK.
Hai là, Để phục vụ hoạt động đầu tư chứng khoán.
Ba là, Để bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của nhà đầu tư.
Bốn là, Để hạn chế nguy cơ lạm quyền của người quản trị công ty và giám sát
hoạt động của công ty.
Năm là, Để TTCK phát triển bền vững, lành mạnh đáp ứng điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế và triển khai các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
1.2.2. Các yêu cầu đối với pháp luật về công bố thông của công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán
Là bề nổi của TTCK, thị trường chứng khoán niêm yết đòi hỏi được tổ chức,
vận hành một cách qui chuẩn. Pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường nói
chung, hoạt động CBTT của công ty niêm yết nói riêng phải bảo đảm các yêu cầu
sau:
Thứ nhất, pháp luật về CBTT phải được xây dựng thống nhất với các quy định
pháp luật về: kế toán, kiểm toán, quản trị công ty…và các qui định pháp luật khác.
Thứ hai, pháp luật về CBTT của công ty niêm yết phải là công cụ chủ yếu tạo
lập TTCK minh bạch và phát triển bền vững.
Thứ ba, pháp luật về CBTT của công ty niêm yết phải bảo đảm phân định rõ
ràng quy định thông tin phải công bố và những thông tin không phải công bố.
Thứ tư, phải có cơ chế để bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông, nhà đầu tư và các
thiết chế đủ mạnh để quản lý giám sát thực thi.
Thứ năm, pháp luật về CBTT của công ty niêm yết cần có cơ chế thực thi hiệu
quả. Hiệu quả pháp luật luôn là vấn đề cần phải được quan tâm và giải quyết thích
đáng, vì suy cho cùng, đây mới là “cái đích” của hoạt động lập pháp.
11



1.2.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động công bố thông tin của
công ty niêm yết
1.2.4. Khái quát sự phát triển pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam
1.3. KINH NGHIỆM ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA MỘT SỐ THỊ TRƯƠNG CHỨNG
KHOÁN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM
1.3.1. Pháp luật về công bố thông tin thị trường chứng khoán Mỹ
1.3.2. Pháp luật về công bố thông tin thị trường chứng khoán Trung quốc
1.3.3. Pháp luật về công bố thông tin thị trường chứng khoán Nhật bản
1.3.4. Bài học rút ra cho Việt Nam trong việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với
hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết
Qua các quy định pháp luật và cơ chế công bố thông tin của doanh nghiệp niêm
yết trên thị trường chứng khoán của các nước nêu trên. Dựa vào nền tảng, điều kiện
thực tế phát triển TTCK Việt Nam, có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm về
việc xây dựng và áp dụng các quy định pháp luật công bố thông tin của công ty niêm
yết, như sau:
- Thứ nhất, công bố thông tin là hoạt động cực kỳ quan trọng, xuyên suốt trong
hoạt động của thị trường chứng khoán nhằm góp phần đạt được những mục tiêu cơ
bản như bảo vệ nhà đầu tư, bảo đảm thị trường trung thực, hiệu quả, minh bạch và
giảm thiểu rủi ro hệ thống.
- Thứ hai, hoạt động công bố thông tin được phát triển từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến đa dạng song song với sự phát triển của thị trường, phù hợp với quy mô thị
trường và theo đối tượng sử dụng.
- Thứ ba, công bố thông tin phải đi liền với bảo mật thông tin nhằm tránh trường
hợp thông tin bị tiết lộ, lạm dụng ở tổ chức phát hành, doanh nghiệp niêm yết, công ty
chứng khoán, cơ quan quản lý và những thể nhân, pháp nhân có liên quan khác.

- Thứ tư, công bố thông tin phải dựa trên nền tảng hệ thống kế toán, kiểm
toán, quản trị doanh nghiệp.

Thứ năm, xây dựng cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho hoạt động
thị trường.

12


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Thông tin trên TTCK niêm yết được xem như là chiếc chìa khoá vạn năng mở
ra và duy trì hoạt động giao dịch chứng khoán, là cầu nối giữa công ty niêm yết và
nhà đầu tư, giữa các chủ thể tham gia thị trường với cơ quan quản lý thị trường.
Là bộ phận trọng tâm của TTCK, thị trường chứng khoán niêm yết cần được tổ
chức vận hành dựa trên hệ thống thông tin minh bạch.
Pháp luật về CBTT có vị trí, vai trò quan trọng đối với việc xây dựng và phát
triển TTCK ở hiện tại và tương lai. Hệ thống pháp luật về CBTT cần phải phù hợp
với thực tiễn phát triển TTCK tương ứng với từng giai đoạn nhất định.
Trên đây là những nội dung lý luận cơ bản làm cơ sở cho việc tiếp tục nghiên
cứu đánh giá thực trạng pháp luật về CBTT của công ty niêm yết trên TTCK Việt
Nam, đồng thời đề xuất các quan điểm hoàn thiện pháp luật về CBTT trong giai đoạn
hiện nay ở chương sau.

13


Chương 2
THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÔNG TY
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.1. THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÁC CÔNG TY
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.1. Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về công bố thông tin
Với sự nỗ lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động xây
dựng và ban hành pháp luật, cùng với vai trò trực tiếp quản lý của UBCKNN, môi
trường pháp lý cho hoạt động công bố thông tin đã được ban hành khá đồng bộ và
được áp dụng trong thực tiễn trong thời gian qua có thể nhận thấy những ưu, nhược
điểm như sau:
2.1.1.1. Ưu điểm đạt được
Thứ nhất, đã hình thành một khung pháp lý thống nhất, đồng bộ bao gồm
hệ thống các văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động công bố thông tin trên
TTCK niêm yết. Khung pháp lý này được xây dựng trên nền tảng sự phát triển của
TTCK, song hành và phản ánh thực tiễn phát triển thị trường, có thể chia thành 2 giai
đoạn: Giai đoạn từ 2005 trở về trước và giai đoạn từ 2005 trở lại đây.
Giai đoạn từ 2005 trở về trước
Năm 2000, TTCK niêm yết chính thức hình thành và đi vào hoạt động. Trước
đó để tạo căn cứ pháp lý cho việc tổ chức, vận hành thị trường, các văn bản qui phạm
pháp luật điều chỉnh cho hoạt động CBTT đã được ban hành. Phù hợp với TTCK mới
hình thành, qui mô nhỏ, giao dịch tập trung được tổ chức tại một địa điểm (Trung tâm
GDCK tp Hồ Chí Minh), chưa thu hút sự chú ý của nhà đầu tư… Các VBQPPL về
chứng khoán được ban hành ở giai đoạn này còn ít, hiệu lực pháp lý chưa cao (văn
bản dưới luật – Nghị định), phạm vi điều chỉnh hẹp.
Giai đoạn từ 2005 trở lại đây
TTCK Việt Nam sau 2005 đến nay ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt,
năm 2005 khi Trung tâm GDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt động làm cho qui mô
14


thị trường này càng mở rộng. Năm 2006 Luật chứng khoán được ban hành. LCK
dành 01 chương riêng quy định về CBTT, trong đó qui định cụ thể, chi tiết nghĩa vụ
CBTT của Công ty niêm yết. Để nâng cao mức độ tuân thủ nghĩa vụ của các công ty

niêm yết, Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư số 38/2007/TT-BTC hướng dẫn về
việc CBTT trên thị trường chứng khoán (sau đây gọi chung là Thông tư số
38/2007/TT-BTC). Thông tư này quy định cụ thể: đối tượng công bố thông tin, yêu
cầu thực hiện công bố thông tin, người được ủy quyền công bố thông tin, phương tiện
và hình thức công bố thông tin, bảo quản, lưu giữ thông tin và xử lý vi phạm về công
bố thông tin.
Từ năm 2008 đến nay, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. TTCK
có nhiều biến động, trước thực trạng đó các qui định pháp luật về CBTT cũng nhanh
chóng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, ngày 15/01/2010 Bộ Tài chính đã ban
hành Thông tư số 09/2010/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán, thông tư này thay thế cho thông tư 38/2007/TT-BTC. Ngày
24 tháng 11 năm 2010 Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của luật chứng khoán, trong đó có những qui định mới về CBTT.
Bên cạnh đó Bộ tài chính, UBCKNN cũng nỗ lực xây dựng các văn bản hỗ trợ hoạt
động CBTT như: Các biểu mẫu thống nhất đối với mỗi loại thông tin cần công bố,
điều lệ mẫu áp dụng đối với các công ty niêm yết, Qui chế quản trị công ty niêm
yết…
Thứ hai, Pháp luật về CBTT của CTNY đã đáp ứng được yêu cầu kịp
thời, phù hợp để điều chỉnh hoạt động CBTT theo sát mức độ phát triển của thị
trường.
Đây là vấn đề quan trọng để đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật về CBTT. Các
qui định pháp luật đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi để chủ thể có nghĩa vụ thực hiện.
cũng như việc phát hiện, ngăn chặc và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về
CBTT. Bằng việc ban hành thông tư 09/2010/TT-BTC có nhiều qui định mới điều
chỉnh hoạt động CBTT của CTNY cho thấy mức độ đầy, đủ kịp thời của các qui định
pháp luật về CBTT. Một trong những nội dung chính sửa đổi được quan tâm nhất tại
Thông tư số 09/2010/TT-BTC là các quy định về công bố
15



thông tin của công ty đại chúng và tổ chức niêm yết nhằm tăng cường tính minh bạch
của thị trường, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nhà đầu tư.
Thứ ba, Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán đã
quy định cụ thể các nguyên tắc, đối tượng, hình thức, phương tiện và loại thông
tin công bố.
Thứ tư, pháp luật CBTT bước đầu thiết lập một cơ sở pháp lý để kiểm tra,
giám sát thị trường và xử lý vi phạm trong lĩnh vực công bố thông tin.
2.1.1.2. Những tồn tại hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, môi trường pháp lý cho hoạt động công bố
thông tin của doanh nghiệp niêm yết còn tồn tại một số hạn chế sau:
Một là, các qui dịnh pháp luật CBTT tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ
của CTNY và công ty đại chúng trong hoạt động CBTT.
Hai là, các văn bản hướng dẫn CBTT chưa đáp ứng được yêu cầu hình
thành khung pháp lý ổn định và nhất quán, chưa có tính định hướng thị trường,
thường bị thay đổi để “chạy theo” thị trường.
Ba là, các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động CBTT
chưa đủ mạnh, thiếu sức răn đe và ngăn chặn vi phạm.
Bốn là, pháp luật về CBTT chưa quy định quyền tiếp cận thông tin của cổ
đông, nhà đầu tư.
Năm là, pháp luật về CBTT chưa quy định cụ thể việc CBTT trong tương
lai.
Những phân tích đánh giá trên đây về những hạn chế, tồn tại cũng như những
ưu điểm của khung pháp luật về CBTT của CTNY, cung cấp những luận chứng lý
luận và thực tiến làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp được đề cập ở phần sau.
2.1.2. Đánh giá thực trạng hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết
Trong những ngày tháng tư này, khi mùa nộp báo cáo thường niên, mùa đại hội
cổ đông thường niên…diễn ra sôi động. Ở những diễn đàn ấy câu chuyện về CBTT
không còn là đề tài mới, nhưng luôn “nóng” và luôn thu hút sự chú ý nhất của các
16



bên tham gia thị trường. Những con số, sự kiện, ý kiến, đặc biệt là những báo cáo
được phù phép…không chỉ gây “sốc” cho nhà đầu tư mà còn làm đau đầu những nhà
quản lý. Do vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động CBTT của CTNY để
thấy rõ những kết quả đạt được và chỉ ra những tồn tại, hạn chế để tìm giải pháp khắc
phục là việc làm cần thiết.
2.1.2.1. Những tồn tại hạn chế
Thứ nhất, Các qui định về CBTT của CTNY chưa được thực hiện nghiêm
túc.
Thứ hai, Chất lượng thông tin công bố chưa đạt yêu cấu, số liệu kế toán
trong BCTC trước và sau kiểm toán còn sai lệch phổ biến.
Thứ ba, Tình trạng vi phạm pháp luật về CBTT còn diễn ra phổ biến và
mang tính tái diễn. Một thực trạng đáng buồn trên diễn ra trên TTCK Việt Nam
trong những năm gần đây là sự vi phạm pháp luật về TTCK nói chung và vi phạm
nghĩa vụ CBTT của CTNY còn diễn ra phổ biến, công khai, mang tính hệ thống.
Thực tế đó không chỉ gây bức xúc cho các nhà đấu tư mà còn làm đau đầu các nhà
quản lý và tiềm ẩn nguy cơ đe dọa sự ổn định bền vững của thị trường.
Thứ tư, việc kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về CBTT còn chưa thiếu
tính nghiêm minh và chưa kịp thời.
Thứ năm, Người được uỷ quyền CBTT chưa có tính chuyên nghiệp, hoạt
động mang tính kiêm nhiệm.
2.1.2.2. Những ưu diểm đạt được
Hoạt động CBTT của CTNY, bên cạnh những tồn tại hạn chế nêu trên đã đạt
được những kết quả khả quan không thể phủ nhận, tạo tín hiệu tích cực cho thị trường
nhờ những thông tin được công khai, thị trường đã có những bước đi ổn định, trật tự
và kỷ luật thị trường dần được thiết lập và duy trì, tạo lập lòng tin của nhà đầu tư,
TTCK đạt được mục tiêu là kênh huy động vốn trung và dài hạn để phục vụ cho mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cụ thể:
- Trên cơ sở khung pháp luật hiện hành về CBTT của CTNY đã tạo hành lang
pháp lý ổn định để các chủ thể có nghĩa vụ thực thi.


17


- Thông qua hoạt động CBTT, từng bước nâng cao điều kiện niêm yết phù hợp
với quy mô vốn của các công ty niêm yết tương xứng với các TTCK khu vực.
- Việc CBTT đã bước đầu đạt được yêu cầu về bảo vệ lợi ích của
nhà đầu tư, cơ chế cung cấp thông tin đã phần nào đảm bảo được sự công
bằng cho người sử dụng.
- Việc quản lý, giám sát hoạt động CBTT trên TTCK luôn được coi trọng nhằm
đảm bảo cho thị trường hoạt động an toàn và ổn định.
- Ngoài ra, hoạt động CBTT ứng dụng hiệu quả hệ thống phương tiện công bố
thông tin theo qui định của pháp luật, đã dần đáp ứng được yêu cầu thông tin được
cung cấp nhanh chóng, kịp thời, rộng rãi đến toàn thị trường.
- Hơn nữa, các công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ và nhà đầu tư đã bắt đầu
có thói quen chọn lọc thông tin, phân tích tổng hợp thông tin ngày càng chuyên
nghiệp và sử dụng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Như vậy, Cùng với những mặt đạt được và những khó khăn nêu trên. Có thể
nói, hoạt động CBTT ở thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đang đi theo đúng
hướng, đặc biệt là những cố gắng về phát triển công bố thông tin một cách toàn vẹn
với sự tham gia của tất cả các thành phần liên quan đến công bố thông tin, cơ chế
công bố thông tin, phương tiện công bố thông tin, hệ thống thông tin thị trường, công
tác kế toán, kiểm toán, quản trị công ty...được qui định và luật hoá kịp thời đã góp
phần thúc đẩy TTCK Việt Nam hoạt động công khai, minh bạch, phát triển bền vững.
2.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÔNG BỐ THÔNG TIN
CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT
Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến 2020 và yêu cầu hoàn thiện
khung pháp lý
Trong thập kỷ tới, TTCKVN có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát
triển mạnh, tuy nhiên, cơ hội phát triển luôn đồng hành cùng với những thách thức.Vì

vậy, Mục tiêu hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK đến 2020 theo hướng nhằm nâng
cao năng lực quản lý TTCK và tăng cường tính công khai minh bạch, thu hẹp thị
trường tự do, mở rộng thị trường có tổ chức. Theo đó, mục tiêu hoàn thiện khung
18


pháp lý TTCK được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn từ 2010- 2015 thực hiện kế
hoạch sửa đổi bổ sung luật chứng khoán theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh và
đối tượng điều chỉnh, từng bước tiếp cận thông lệ quốc tế [12].
Giai đoạn từ 2015-2020: xây dựng và ban hành luật chứng khoán thế hệ thứ hai
thay cho luật chứng khoán hiện hành. Trong đó thể hiện một bước thay đổi quan
trọng căn bản trong khuôn khổ pháp lý: thay thế việc cấp phép phát hành trên cơ sở
điều kiện bằng chế độ CBTT đầy đủ; Áp dụng các chuẩn mực quốc tế về luật pháp,
thuế, kế toán quản trị doanh nghiệp, nhằm tăng tính cạnh tranh toàn cầu của TTCK,
Thể hiện được cấu trúc thị trường mới dựa trên sự phát triển theo chiều sâu [12].
Hoàn thiện pháp luật về CBTT trên TTCK, theo chúng tôi cần tập trung vào
các giải pháp cơ bản sau đây:
2.2.1. Các đề xuất giải pháp ngắn hạn
2.2.1.1. Về phương diện lập pháp
a) Bộ Tài Chính cần nhanh chóng ban hành thông tư hướng dẫn CBTT
mới để thay thế thông tư 09/2010/TT-BTC hiện hành. Trên cơ sở Luật Chứng
khoán sửa đổi (Luật số: 62/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011). Trong đó bãi bỏ Điều 103 và khoản 2 Điều 106
của Luật chứng khoán số 70/2006/QH11, qui định về nghĩa vụ CBTT của tổ chức
niêm yết (Điều 103), Khoản 2- Điều 106 qui định về nghĩa vụ CBTT của công ty đầu
tư chứng khoán có cổ phiếu niêm yết tại SGDCK. Bộ Tài chính cần triển khai xây
dựng thông tư hướng dẫn công bố thông tin thay cho Thông tư 09/2010/TT-BTC hiện
hành. Các qui định về CBTT chủ yếu nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế và tập
trung vào những vấn đề nổi cộm sau đây:
Một là, bổ sung qui định nghĩa vụ CBTT của Trung tâm lưu ký chứng khoán.

Hai là, sửa đổi bổ sung qui định nghĩa vụ CBTT của người có liên quan.
Ba là, bổ sung qui định về Ngôn ngữ thực hiện công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán Việt Nam phải là tiếng Việt và tiếng Anh (nếu có).
19


Bốn là, sửa đổi qui định về việc tạm hoãn công bố thông tin.
Năm là, sửa đổi qui định về CBTT của CTNY theo qui định của LCK sửa đổi
năm 2010. Những qui định mới về công bố thông tin cơ bản sẽ tập trung một số điểm
sau: Tăng thêm trách nhiệm của công ty đại chúng về công bố thông tin. Theo đó
CTĐC dựa vào qui mô vốn và tính đại chúng sẽ được chia thành các lớp và qui định
nghĩa vụ CBTT phù hợp, bảo đảm tính công khai minh bạch trong hoạt động của
CTĐC. Cụ thể:
Thứ nhất, CTĐC thông thường
Thứ hai, CTĐC niêm yết (công ty niêm yết)
Thứ ba, Công ty đại chúng quy mô lớn,
Việc sửa đổi qui định về CBTT như trên khắc phục tình trạng nhiều DN lớn,
tính đại chúng cao nhưng do chưa niêm yết, đứng ngoài sàn nên thực hiện công bố
thông tin một cách sơ sài, trong khi những DN quy mô nhỏ đã thực hiện niêm yết lại
phải tuân thủ nhiều quy định công bố thông tin khắt khe. Đồng thời, khung pháp về
CBTT sửa đổi mới phải bảo đảm thúc đẩy các CTĐC đủ điều kiện thực hiện việc
niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường tập trung để đảm bảo định hướng
phát triển TTCK.
Sáu là, Thông tư mới cần quy định chi tiết hơn các trường hợp công bố thông
tin về các giao dịch mua, bán lại cổ phiếu quỹ; các giao dịch chào mua công khai
gắn với hoạt động thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp...
b)

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tiến hành tổng rà


soát các quy định pháp luật liên quan về CBTT trên TTCK sửa đổi, bổ
sung các quy định cho phù hợp
Một là, Bộ tài chính sớm ban hành qui chế về quản trị công ty áp dụng cho
công ty đại chúng thay thế cho qui chế quản trị công ty ban hành Quyết định số
12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ Tài Chính về việc ban hành Quy chế quản
trị công ty áp dụng cho các tổ chức niêm yết trên SGDCK.

20


Hai là, tiến hành rà soát lại các biểu mẫu về CBTT theo hướng dẫn của Bộ tài
chính. Cần sửa đổi và ban hành mới các mẫu biểu CBTT trong các trường hợp sửa
đổi bổ sung qui định mới.
Ba là, kiện toàn các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về công bố thông tin
trên thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1.2. Về phương diện thực thi pháp luật
Mục tiêu cao nhất của điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động CBTT
không chỉ dừng lại ở việc xây dựng khung pháp luật hoàn chỉnh, chất lượng tốt. Mà
quan trọng là mức độ và hiệu quả thực thi các qui định pháp luật đó trên thực tế như
thế nào? Vì vậy việc tìm kiếm các giải pháp thực thực thi pháp luật CBTT hiệu quả là
việc làm cần thiết. Theo tác giả, để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật CBTT trong
giai đoạn hiện nay cần tập trung vào các giải pháp sau đây:
Một là, nâng cao chất lượng thông tin của công ty niêm yết khi công
bố Hai là, thực thi quản trị công ty hiện đại và chuyên nghiệp hoá
Ba là, tăng cường hoạt động quản lý, giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm
trong hoạt động công bố thông tin của các công ty niêm yết
Bốn là, nâng cao nhận thức thông tin về chứng khoán và TTCK cho nhà
đầu tư.
2.2.2. Các đề xuất giải pháp dài hạn
Trong thời gian tới, để TTCK Việt Nam công khai minh bạch, phát triển bền

vững, đạt mục tiêu là kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế thì hoạt động
CBTT của CTNY cần tập trung vào các giải pháp sau đây:
Một là, cần phải nâng cao tiêu chuẩn niêm yết chứng khoán
Hai là, qui định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc dùng thông tin để điều chỉnh thị trường.
Ba là, tiếp tục phát huy hiệu quả và nâng cao vai trò của báo giới trong
hoạt động CBTT trên TTCK.
Bốn là, tiếp tục duy trì và nâng cao vai trò của Hiệp hội đầu tư tài chính
(VAFI) trong việc bảo đảm tính minh bạch trên thị trường.
21


×