Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt nam luận văn ths luật 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.56 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Đỗ Thị Hường

QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Đỗ Thị Hường

QUYỀN CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO

Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước - pháp luật
Mã số: 60.38.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS,TS Hoàng Thị Kim Quế



Hà Nội - 2011


Contents
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1........................................................................................................................... 9
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI.......................................................... 9
VÀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO.................9
1.1.Cơ sở lý luận về QCN.................................................................................................. 9
1.1.1. Khái niệm QCN

9

1.1.2. Những điều kiện bảo đảm thực hiện QCN

12

1.1.3. Mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền và bảo đảm QCN

24
1.2. Cơ sở lý luận của việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo....................... 28
1.2.1. Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo 28
TTHS là một quá trình bao gồm một loạt các hoạt động được sắp xếp
theo một trình tự nhất định, có quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là: khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Có thể nói, bị can, bị cáo
luôn là trung tâm trong số những người tham gia TTHS, bởi vì hầu như mọi
hoạt động tố tụng đều hướng tới việc làm rõ các vấn đề liên quan đến việc
phạm tội hay không phạm tội của họ................................................................................. 28
1.2.2. QBC của bị can, bị cáo


31

A) Tự MÌNH BÀO CHữA............................................................................................. 34
1.2.3. Vai trò của Luật sƣ trong việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo

39

1


CHƯƠNG 2........................................................................................................................ 41
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT V Ề B ẢO
ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO Ở VIỆT NAM .............................41
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển về QBC của bị can, bị
cáo ở Việt Nam................................................................................................................................. 41
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 41
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1985 43
2.1.3. Giai đoạn từ 1986 đến nay

46

2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC
của bị can, bị cáo............................................................................................................................. 55
Vụ án 3: Vụ PMU 18 - Công tố và luật sƣ tranh luận căng thẳng [26] 63

2.3. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế trong việc
bảo đảm QBC của bị can, bị cáo.............................................................................................. 69
2.3.1. Hạn chế, bất cập


69

2.3.2. Nguyên nhân

82

2.4. Ý nghĩa của việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo................................... 87
CHƯƠNG 3........................................................................................................................ 89
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH..........89
CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA............................ 89
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO Ở VIỆT NAM........................................................................ 89
3.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm
QBC của bị can, bị cáo.................................................................................................................. 89

2


3.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp
luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo........................................................................ 91
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật TTHS về bảo đảm
QBC của bị can, bị cáo............................................................................................................. 91
3.2.2. Cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và bổ
trợ tư pháp................................................................................................................................. 101
3.2.3. Kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật về QBC của bị can, bị cáo.

108
3.2.4. Tăng cường tuyền truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
QBC của người bị can, bị cáo............................................................................................ 110
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 114


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con ngƣời (QCN) là một trong những vấn đề cơ bản nhất của
nhận thức và thực tiễn chính trị, vì vậy, nó gắn với các thời đại lịch sử cụ thể
và nó bị chế định bởi lịch sử, bởi các điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc
gia và quốc tế. Các Học thuyết chính trị - pháp lý về QCN là hệ thống các
quan điểm chính trị - triết học và pháp lý về QCN thể hiện cô đọng trong các
trƣờng phái triết học, trong các văn bản pháp lý nhƣ các bản Tuyên ngôn,
Hiến pháp, các đạo luật tồn tại ở các thời kỳ lịch sử khác nhau. Sự phát triển

3


của tƣ tƣởng về QCN gắn liền với tiến trình phát triển, vận động của các
quan điểm chính trị - triết học và pháp lý qua từng thời đại lịch sử khác nhau.
Ngay sau khi nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, dù có biết bao nhiệm
vụ khó khăn cần giải quyết nhƣng chính quyền dân chủ nhân dân rất quan tâm đến
nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, trong đó có quyền bào chữa
(QBC) trƣớc tòa. Ngày 10/10/1945, Nhà nƣớc ban hành sắc lệnh quy định các tổ
chức đoàn thể luật sƣ và từ đó đến nay các quy định của pháp luật về bảo đảm QBC
của bị can, bị cáo đƣợc bổ sung ngày càng đầy đủ hơn.

Bảo đảm QBC của bị can, bị cáo luôn đƣợc coi là nguyên tắc hiến định,
đƣợc thể hiện trong tất cả các bản Hiến pháp của nƣớc ta. Đồng thời đƣợc coi là
nguyên tắc đặc thù của Luật Tố tụng hình sự (TTHS). Điều 12, Bộ luật TTHS
năm 1988 - Bộ luật TTHS đầu tiên của nƣớc ta quy định: “Bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện Kiểm
sát và tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện QBC của họ”


QBC trong Luật TTHS năm 2003 đƣợc mở rộng cả đối tƣợng và phạm
vi

các quyền, ngƣời bị tạm giữ cũng đƣợc bảo đảm QBC. Cùng với sự phát

triển của pháp luật TTHS, QBC ngày càng đƣợc tôn trọng và mở rộng hơn,
đồng thời có những cơ chế bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền này.
Điều đó thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật nƣớc ta.
QBC của bị can, bị cáo không chỉ là mối quan tâm của riêng bị can, bị cáo
hay gia đình họ và những ngƣời làm công tác bảo vệ pháp luật mà nó còn là sự
quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc và toàn xã hội. Chính vì lẽ đó, ngày 02/01/2002, Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết chỉ
ra những quan điểm chỉ đạo nhƣ “bảo đảm tranh tụng với Luật sƣ, ngƣời bào chữa
và những ngƣời tham gia tố tụng khác ...”. Tiếp đó, trong chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp đến năm 2020, Nghị quyết 59/NQ-TW đã chỉ rõ “... xác định rõ hơn vị trí,
quyền hạn, trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng theo hƣớng đảm bảo

4


tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lƣợng tranh tụng tại các phiên
tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp”. Điều đó cũng phù hợp
với chiến lƣợc phát triển đất nƣớc mà Đại hội Đảng X, XI đã chỉ ra rằng: “... xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN (XHCN) của dân, do dân, vì dân ...”

Trong thực tiễn qua cho thấy, mặc dù pháp luật TTHS đã quy định tƣơng
đối đầy đủ và khá chặt chẽ, nhƣng trong các vụ án hình sự QBC của bị can, bị
cáo vẫn chƣa đƣợc các cơ quan tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng thực sự tôn
trọng và bảo đảm thực hiện. Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của bị can, bị
cáo vẫn còn diễn ra. Một số ngƣời tiến hành tố tụng còn chƣa nhận thức đƣợc

việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và minh oan cho ngƣời vô
tội cũng nhƣ xử lý nghiêm minh đối với ngƣời phạm tội. Ở giai đoạn điều tra,
nhiều điều tra viên cho rằng ngƣời bị tạm giữ không cần mời luật sƣ vì chƣa
cần thiết. Trong quá trình tố tụng thƣờng chú ý đến việc không bỏ lọt tội phạm
hơn là việc không làm oan ngƣời vô tội và coi việc tham gia tố tụng của ngƣời
bào chữa chỉ là để cho đủ thủ tục mà thôi. Điều đó đã ảnh hƣởng không nhỏ đến
việc bảo vệ QBC của bị can, bị cáo, dẫn đến tình trạng oan sai trong tố tụng.

Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài về QBC của bị can, bị cáo ở Việt Nam có
ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng ngƣời, đúng tội, đúng
pháp luật, hạn chế tối đa tình trạng oan sai.
Với nhận thức trên, tác giả chọn đề tài Quyền con người và vấn đề bảo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo đảm QBC của bị can, bị cáo trong công cuộc cải cách tƣ
pháp ở Việt Nam nói chung và trong hoạt động TTHS nói riêng đang là vấn
đề thu hút sự quan tâm của toàn ngành tƣ pháp và cả xã hội. Đặc biệt là kể từ

5


khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị ban hành
xác định: bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác; cũng nhƣ nội dung trong Nghị quyết 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị nhấn mạnh: nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp, thì nội dung về ngƣời bào chữa và QBC lại càng đƣợc quan tâm nghiên
cứu. Điển hình là: Luật sƣ, PGS.TS Phạm Hồng Hải với cuốn sách: Đảm bảo
QBC của người bị buộc tội; TS. Trần Quang Tiệp với cuốn sách Về bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS.
Các tác giả làm luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến ngƣời
bào chữa và vấn đề bảo đảm QBC của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhƣ:
tác giả Hoàng Thị Sơn với đề tài: Thực hiện QBC của bị can, bị cáo trong
TTHS; tác giả Nguyễn Thu Thủy với đề tài: Vai trò của Luật sư trong việc
bảo vệ QCN trong TTHS Việt Nam; tác giả Nguyễn Thị Vân Hằng với đề tài:
Vai trò của Luật sư góp phần bảo đảm dân chủ trong hoạt động TTHS ở Việt
Nam hiện nay; tác giả Nguyễn Phạm Duy Trang với đề tài: Sự tham gia của
người bào chữa trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố vụ án hình sự;
tác giả Giang Thanh Hải với đề tài: Hoạt động chứng minh của người bào
chữa trong vụ án hình sự; tác giả Nguyễn Tiến Đạt với đề tài: Bảo đảm quyền
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam; tác giả Trần Văn
Bảy với đề tài: Người bào chữa trong TTHS Việt Nam; tác giả Huỳnh Thị Trúc
Linh với đề tài: Chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam; tác giả Võ Văn
Hòa với đề tài: Chức năng buộc tội và bào chữa trong TTHS Việt Nam.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp
chí chuyên ngành nhƣ Tạp chí Toà án nhân dân; Tạp chí Kiểm sát; Tạp chí
dân chủ và pháp luật; Tạp chí Luật học; Tạp chí Nghề luật; Báo pháp luật...

6


Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu ở trên chủ yếu đƣợc các tác
giả thực hiện khi bộ luật TTHS năm 2003 chƣa đƣợc ban hành, thực tiễn cho
thấy vẫn còn nhiều hạn chế và vƣớng mắc trong việc thực hiện QBC của bị
can, bị cáo. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này vẫn còn rất cần thiết để tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo góp phần đảm bảo xét xử
đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Trong khuôn khổ luận văn cao học, học viên giới hạn sự nghiên cứu của
mình về các vấn đề sau:
-

Khái niệm, các đảm bảo thực hiện QCN

-

Vai trò của ngƣời bào chữa trong việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo

-

Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của chế định bảo đảm

QBC của bị can, bị cáo trong hệ thống pháp luật từ sau 1945 đến nay.
-

Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm

QBC ở Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là khi nhà nƣớc ta ban
hành năm 2003.
-

Những hạn chế, bất cập; nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

trong việc bảo đảm QBC cho bị can, bị cáo.
-

Ý nghĩa của việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo


-

Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp

luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về nhà
nƣớc và pháp luật, về QCN, về QBC, về mối quan hệ giữa nhà nƣớc và cá
nhân...với tƣ cách là những căn cứ lý luận để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra.

7


Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biến chứng và duy vật lịch sử
để nghiên cứu QCN; sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp trên lập trƣờng duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử để đánh giá thực trạng về vấn đề đảm bảo QBC
của bị can, bị cáo; kết hợp phƣơng pháp hệ thống với phƣơng pháp logic - lịch sử,
phƣơng pháp so sánh nhằm phân tích luận chứng một cách khoa học khi xác định
các giải pháp bảo đảm thực hiện QBC của bị, bị cáo ở Việt Nam.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
-

Về mặt lý luận: đề tài nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng về bảo

đảm QBC của bị can, bị cáo trong TTHS; từ đó đề xuất phƣơng hƣớng và các
giải pháp để sửa đổi, bổ sung, hƣớng dẫn chi tiết các quy định của pháp luật
về bảo đảm QBC, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trên thực tế.
Với kết quả nghiên cứu nhƣ vậy, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận

về QBC và bảo đảm QBC của bị can, bị cáo.
- Về mặt thực tiễn: Kết qủa nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng

thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo; qua đó khắc phục
đƣợc những thiếu sót, bất cập trong hoạt động này. Các đề xuất, kiến nghị trong đề
tài có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, hƣớng dẫn, sửa đổi,
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến vấn đề này.
6.

Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, 03 chƣơng và kết luận, mục lục và danh
mục tài liệu tham khảo
Chương 1: Cơ sở lý luận về QCN và việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo

Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm
QBC của bị can, bị cáo ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo ở Việt Nam

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI
VÀ VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ
CÁO

1.1.Cơ sở lý luận về QCN
1.1.1. Khái niệm QCN

Con ngƣời là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên QCN luôn
trở thành nội dung thu hút đƣợc sự quan tâm cả về phƣơng diện lý luận cũng
nhƣ trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của từng khu vực và mang
tính toàn cầu. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về QCN. Tuy nhiên, QCN có
thể đƣợc hiểu là đặc quyền vốn có của từng cá nhân nhằm bảo vệ nhân phẩm

9


và nâng cao giá trị của họ với tƣ cách là con ngƣời. Không có nó, các cá nhân
không thực sự là con ngƣời. Đó là các giá trị cơ bản mà thông qua đó, chúng
ta khẳng định rằng chúng ta là một cộng đồng nhân loại duy nhất. Đó là các
nhu cầu và quyền lợi của con ngƣời đƣợc thừa nhận và bảo đảm bởi pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế. QCN có những đặc điểm cơ bản là:
Thứ nhất, QCN vừa phản ánh các nhu cầu tự nhiên, khách quan, vừa thể
hiện các quan hệ xã hội, ý chí chủ quan của từng con ngƣời và của xã hội. Nó là
những đặc quyền của con ngƣời đã đƣợc pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
ghi nhận, điều chỉnh, do chính cá nhân con ngƣời nắm giữ trong mối quan hệ với
tự nhiên, với xã hội, với nhà nƣớc và với những cá nhân con ngƣời khác.

Thứ hai, QCN là khái niệm thể hiện xu hƣớng, yêu cầu, quan niệm
đƣợc xác định với những nội dung cụ thể.
Thứ ba, QCN vừa là giá trị chung, phổ biến, vừa mang tính riêng biệt,
đặc thù, vừa có tính nhân loại, vừa có tính giai cấp. Tuy nhiên, quan niệm
QCN trên thực tế đƣợc lý giải bởi những quan điểm khác nhau, tuỳ thuộc vào
lợi ích và ý chí giai cấp.
Thứ tư, QCN vừa bao hàm quyền của từng cá nhân con ngƣời, thể hiện
lợi ích cá thể, tự do cá nhân, vừa thể hiện lợi ích của nhóm, của cộng đồng,
của quốc gia dân tộc.
Thứ năm, QCN phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,

truyền thống văn hoá, đạo đức của các quốc gia.
Thứ sáu, QCN và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời, Với chức năng là
công cụ, phƣơng tiện pháp luật ghi nhận và bảo đảm việc thực hiện các QCN.

QCN là giá trị thắng lợi chung của nhân loại, nhƣng do điều kiện kinh
tế chính trị - xã hội ở các châu lục, các khu vực, các quốc gia phát triển không
giống nhau nên ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu cầu của mỗi
thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế -

10


chính trị - xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Vì vậy, ở các quốc
gia, QCN đƣợc thể hiện thành quyền công dân và đƣợc đảm bảo thực hiện
bởi hệ thống pháp luật quốc gia đó.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này, khoa học pháp lý đã chia

QCN theo các lĩnh vực hoạt động của đời sống con ngƣời thành các nhóm:
- Nhóm quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: quyền bầu cử, ứng cử;

quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hôị; quyền bình đẳng nam nữ; quyền
tự do ngôn luận; tự do báo chí; quyền đƣợc thông tin; quyền tự do tín nhƣỡng.
-

Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: quyền tự do đi

lại và cƣ trú trong nƣớc; quyền ra nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài về nƣớc; quyền
bất khả xâm phạm về thân thể; quyền đƣợc pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền đƣợc an
toàn và bí mật thƣ tín, điện thoại, điện báo, quyền khiếu nại, tố cáo….

-

Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, bao gồm: quyền lao động; quyền

tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và thừa kế; quyền học tập; quyền
nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền đƣợc bảo vệ sức khoẻ; quyền đƣợc
bảo vệ hôn nhân và gia đình; quyền trẻ em; quyền ngƣời già…
Thế giới hiện đại với sự thay đổi thƣờng xuyên và nhanh chóng trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, cho nên QCN đƣợc
phát triển phong phú hơn cả về nội dung lẫn hình thức. Cho nên, trong quá
trình phát triển của nhân loại một số QCN mới đƣợc xuất hiện nhƣ:
-

Quyền phát triển: Quyền phát triển đƣợc Uỷ ban nhân quyền Liên

Hợp quốc chuẩn bị từ năm 1981, đƣợc thông qua tại kỳ họp thứ 41 của Đại
Hội đồng Liên hợp quốc ngày 4/12/1986 dƣới hình thức Tuyên ngôn toàn cầu
về phát triển. Đó là quyền của các quốc gia, dân tộc với chủ quyền trên lãnh
thổ của mình nhƣ: quyền tự do lựa chọn các thể chế chính trị, kinh tế, quyền
đƣợc trợ giúp về kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế và các quốc gia

11


khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Quyền phát
triển là sự hiện thực hoá QCN ở thế hệ thứ ba, khi mà nhiều quốc gia từng ghánh
chịu các hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh và đang gặp phải những khó
khăn trầm trọng về kinh tế nhƣ đói nghèo, dốt nát, bệnh tật… vì vậy, họ có
quyền đƣợc giúp đỡ về kinh tế, tài chính từ các quốc gia tổ chức khác.
-


Quyền đƣợc sống hoà bình và môi trƣờng trong sạch

Ngày nay, nhân loại đang đứng trƣớc nhiều hiểm hoạ mang tính toàn
cầu nhƣ hiểm hoạ chiến tranh hạt nhân, nạn khủng bố mang tính quốc tế,
khủng hoảng nghiêm trọng về lƣơng thực, thực phẩm, những cuộc xung đột
tôn giáo, chủng tộc, căn bệnh AIDS đến nay chƣa có phƣơng cứu chữa thực
sự hiệu quả…Thực trạng đó đã và đang đe doạ đến sự tồn tại và phát triển của
loài ngƣời. Do đó, yêu cầu về quyền đƣợc sống trong một thế giới hoà bình,
bền vững đang là vấn đề cấp bách thật sự của các quốc gia, khu vực và cộng
đồng trên thế giới. Chính vì thế, pháp luật quốc tế ngày càng quan tâm đến
các vấn đề liên quan đến cuộc sống trong hoà bình của con ngƣời nhƣ là vấn
đề loại trừ vũ khí hạt nhân, ngăn chặn khủng bố, ngăn chặn các cuộc xung
đột, thành lập toà án quốc tế để xét xử tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh và
đến ngày 1/7/2002, Liên hợp quốc đã thành lập Toà án hình sự quốc tế hoạt
động một cách thƣờng xuyên, độc lập với liên hợp quốc. Bên cạnh đó, do sự
phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, loài ngƣời đang đứng trƣớc
nguy cơ suy thoái và ô nhiễm ngày càng nặng nề.
1.1.2. Những điều kiện bảo đảm thực hiện QCN
Bảo đảm thực hiện QCN là kết quả tổng hợp của các nhân tố chính trị,
kinh tế, văn hoá giáo dục và pháp luật. Những nhân tố này đƣợc xem xét với
tƣ cách là những điều kiện, tiền đề cần thiết đảm bảo thực hiện QCN.
-

Về mặt chính trị, con ngƣời sống trong mỗi quốc gia, dân tộc vì thế

QCN chỉ đƣợc đảm bảo thực hiện khi dân tộc đó đƣợc sống trong độc lập, tự

12



do, không bị áp bức nô dịch, có chế độ chính trị xã hội tiến bộ, dân chủ và ổn
định. Một đất nƣớc, một dân tộc còn bị nô dịch, nhân dân bị áp bức bóc lột thì
không thể có tự do, dân chủ, không thể nói đến việc thực hiện nhân quyền. Và


đâu còn áp bức, bất công thì ở đó QCN còn bị chà đạp. Ngay thời điểm hiện

nay, mặc dù QCN đã đƣợc long trọng tuyên bố và cụ thể hoá trong nhiều văn
kiện quan trọng của Liên hợp quốc, nhƣng ở nhiều nơi trên thế giới QCN vẫn
bị vi phạm nghiêm trọng. Thế giới vẫn còn các thế lực tham vọng trở thành
ngƣời điều khiển “trật tự thế giới”, thực chất là duy trì chính sách áp bức, bóc
lột đối với các dân tộc khác dƣới hình thức và thủ đoạn mới. Làm sao có
đƣợc QCN khi hàng trăm triệu ngƣời ở Châu Phi và các nƣớc chậm phát
triển lâm vào cảnh đói nghèo, bệnh tật, trong lúc tài nguyên và sức lao động
của họ đang làm đầy thêm lợi nhuận cho các công ty tƣ bản độc quyền. Và
cũng vì lợi nhuận còn biết bao kẻ tham lam không đếm xỉa đến môi trƣờng
sống, môi trƣờng sinh thái, huỷ hoại môi trƣờng chung của loài ngƣời. Nhƣ
vậy, điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm thực hiện QCN ở mỗi quốc gia
cũng nhƣ trên phạm vi toàn cầu là các quốc gia, dân tộc phải đuợc sống trong
hoà bình, độc lập, tự do, giữ vững ổn định chính trị đất nƣớc; đồng thời phải
đấu tranh cho các dân tộc đƣợc sống trong thế giới hoà bình, hữu nghị, hợp
tác, công bằng, văn minh. Đó cũng chính là xu thế tất yếu của thời đại, là đòi
hỏi khách quan của nhân loại tiến bộ.
Độc lập, tự do, sự ổn định và phát triển của đất nƣớc cũng nhƣ QCN
có đƣợc đảm bảo hay không phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội mà nhân
dân mỗi nƣớc lựa chọn. Bằng nhận thức và kinh nghiệm lịch sử, nhân dân ta
đã tin tƣởng rằng chỉ có chế độ XHCN mới đảm bảo chắc chắn nhất, đầy đủ
nhất cho việc thực hiện QCN.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị - xã hội với các thiết chế

chính trị để đảm bảo thực hiện QCN. QCN muốn đƣợc tôn trọng và bảo đảm

13


thực hiện đòi hỏi phải có nền dân chủ thực sự. Một xã hội mà mọi công dân là
chủ nhân, có quyền tham gia công việc của nhà nƣớc và xã hội, thiết chế chính
trị đều nhằm phục vụ tự do, hạnh phúc của con ngƣời mới thực sự là xã hội tôn
trọng và đảm bảo thực hiện QCN. Muốn có xã hội nhƣ thế thì phải có hệ thống
chính trị dân chủ, nghĩa là các tổ chức chính trị trong xã hội ấy phải xây dựng và
thực hiện đƣờng lối chính trị phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Chỉ có
trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) mới hội đủ các yêu tố cần thiết để xây
dựng hệ thống chính trị - xã hội và các thiết chế dân chủ ấy.

Trong hệ thống chính trị - xã hội XHCN, Đảng cộng sản là hạt nhân
lãnh đạo. Nếu Đảng cộng sản thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, lấy chủ nghĩa Mác –Lênin làm nền tảng tƣ tƣởng và
kim chỉ nam cho hành động, không ngừng đƣợc chỉnh đốn và đổi mới – thì
đó là yếu tố quyết định trong việc xây dựng hệ thống chính trị dân chủ, đảm
bảo thực hiện QCN. Bởi vì mục tiêu và ý tƣởng của một đảng Mác –xít, của
những ngƣời cộng sản không có gì khác là tổ chức và lãnh đạo nhân dân xây
dựng xã hội mới XHCN tất cả vì con ngƣời, cho con ngƣời.
-

Nhà nước cũng là yếu tố quan trọng trong hệ thống chính trị XHCN

cần phải đƣợc hoàn thiện với tƣ cách là điều kiện đảm bảo thực hiện QCN.
Trong các chủ thể thực hiện QCN Nhà nƣớc có vị trí đặc biệt quan trọng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền mọi đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của
Đảng đƣợc cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thông qua Nhà nƣớc; Nhà nƣớc trực

tiếp tổ chức quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật – công cụ
sắc bén mà không tổ chức xã hội nào có đƣợc. Mặt khác, hoạt động của bộ máy
nhà nƣớc, nhất là hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc lại diễn
ra liên tục, rộng khắp, trực tiếp hàng ngày với nhân dân; hoạt động của cơ quan
tƣ pháp trực tiếp đụng chạm đến quyền tự do của nhân dân. Nhƣ vậy, hoạt động
của bộ máy nhà nƣớc vừa trực tiếp vừa hết sức nhạy cảm đối với việc

14


thực hiện, bảo vệ QCN. Thực tiễn cho thấy không thể có ngay một bộ máy
nhà nƣớc với cơ chế hoạt động hoàn hảo. Hoàn thiện tổ chức hoạt động của
bộ máy nhà nƣớc là một quá trình thƣờng xuyên, liên tục, là yêu cầu khách
quan trong việc thực hiện, bảo vệ QCN.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nƣớc nhằm
đảm bảo cho nó có khả năng và bắt buộc nó phải tôn trọng, thực hiện và bảo
vệ QCN. Loại trừ đƣợc sự tuỳ tiện, lạm quyền trong khi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình. Chúng ta từng chú trọng xây dựng nhà nƣớc trở thành
công cụ sắc bén bảo vệ thành quả cách mạng, nhấn mạnh bản chất dân chủ
của nhà nƣớc ta, nhƣng chƣa nhận thức đầy đủ Nhà nƣớc là cơ quan công
quyền, thống trị xã hội bằng pháp luật, phục vụ kịp thời nhu cầu lợi ích chính
đáng của nhân dân, có trách nhiệm với nhân dân và đòi hỏi nghĩa vụ ở dân.
Phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc Việt Nam thực sự của dân, do
dân, vì dân, tuân thủ pháp luật và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo
đảm thực hiện và bảo vệ QCN, quyền công dân.
Hệ thống chính trị xã hội ở nƣớc ta còn bao gồm các đoàn thể quần chúng
và các tổ chức xã hội. Hoàn thiện các đoàn thể, tổ chức này cũng tạo điều kiện
đảm bảo thực hiện QCN ngày càng tốt hơn. Dƣới chế độ ta, nhân dân làm chủ
thông qua nhà nƣớc và thông qua các tổ chức xã hội. Thông qua các tổ chức này
nhân dân tham gia xây dựng nhà nƣớc, quản lý nhà nƣớc, thực hiện và bảo vệ

các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các tổ chức quần chúng ngoài việc thực
hiện chức năng của một tổ chức chính trị - xã hội, còn có trách nhiệm kiến nghị
với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là
thành viên của mình, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích đó khi chúng bị xâm
hại. Hoạt động của các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong hoạt động quản
lý nhà nƣớc xã hội, là cơ sở chính trị của Nhà nƣớc, là nguồn gốc sức mạnh và
hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc. Mặt khác, các tổ chức

15


quần chúng tiến hành giáo dục, quản lý, giúp đỡ các thành viên của các thành
viên tạo nên sức ép và đối trọng buộc các cơ quan, tổ chức, công chức nhà
nƣớc và các thành viên khác của xã hội phải tôn trọng, thực hiện QCN.
Thực tiễn tổ chức, hoạt động của các tổ chức xã hội ở nƣớc ta cho thấy
bên cạnh những thành tích, ƣu điểm vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém nhƣ hoạt
động còn hình thức, nặng tính chất phong trào, nội dung hoạt động còn nghèo
nàn, còn thiếu chủ động trong việc đấu tranh bảo vê QCN, quyền công dân. Vì
vậy, xây dựng và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các tổ chức xã hội trở
thành yêu cầu khách quan, bức xúc là điều kiện quan trọng tạo nên động lực
to lớn trong việc thực hiện, bảo vệ QCN ở nƣớc ta.
-

Về mặt kinh tế: Đảm bảo ổn định, phát triển kinh tế là cơ sở để bảo đảm

và phát triển đối với mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì thế những điều kiện
để ổn định và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của con ngƣời có tính quyết
định đối với việc thực hiện hoá các vấn đề liên quan đến bảo đảm QCN, quyền công
dân. Trong mối quan hệ này, Các Mác đã chỉ rõ: “QCN phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế và sự phát triển văn hoá do chế độ kinh tế đó quy định”.


Trong điều kiện đổi mới ở nƣớc ta hiện nay, phát triển năng lực sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân là yêu cầu cơ bản và cấp thiết để thực hiện
có hiệu quả chiến lƣợc QCN, quyền công dân ở nƣớc ta hiện nay. Đáp ứng
yêu cầu ấy, Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nƣớc phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc;
theo định hƣớng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tƣ nhân trong đó sở hữu toàn dân và tập thể làm nền tảng”
Với mục đích của chính sách kinh tế là làm cho dân giàu, nƣớc mạnh,
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ
sở giải phóng năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần

16


kinh tế. Cho nên, phát triển nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay là một đảm
bảo quan trọng trong việc thực hiện QCN. Bởi vậy, chỉ trên cơ sở đảm bảo đƣợc
ổn định về đời sống kinh tế, thì các đảm bảo khác về chính trị, văn hoá, xã hội
mới đƣợc thực hiện. Bởi vì, sự phát triển kinh tế là cơ sở nền tảng cho sự phát
triển các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, và ngƣợc lại. Để đáp ứng yêu cầu
đó, Nhà nƣớc ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo các
chính sách về bảo vệ quyền tự do sản xuất kinh doanh, về chính sách bảo hiểm,
bảo hộ ngƣời lao động, bảo hộ ngƣời tiêu dùng và đặc biệt là bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị xâm hại hoặc bị tranh chấp.
-

Về văn hoá, giáo dục: Thực hiện QCN, quyền công dân còn phụ thuộc

vào sự phát triển văn hoá, giáo dục, trình độ dân trí . Mỗi thành viên trong xã

hội là chủ thể thực hiện QCN của chính mình và của ngƣời khác, vì thế họ
phải có trình độ nhận thức về văn hoá, dân chủ, chính trị, pháp luật và các tri
thức khác để có khả năng thực hiện và bảo vệ quyền của mình, của ngƣời
khác, có khả năng nhận thức và thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với nhà
nƣớc và xã hội. Nhƣ vậy, phát triển văn hoá, giáo dục, nâng cao dân trí giúp
cho mỗi công dân có khả năng phát triển trí thức, tự hoàn thiện để thực hiện
quyền, nghĩa vụ của mình. Trong chủ nghĩa xã hội nhân dân là ngƣời chủ xã
hội, QCN, quyền công dân đƣợc nhà nƣớc tôn trọng, nhƣng nhân dân phải có
năng lực, tri thức nhất định mới thực hiện đƣợc vai trò chủ nhân xã hội, mới
có khả năng đấu tranh với các hành vi xâm phạm QCN từ phía các cơ quan, tổ
chức, công chức nhà nƣớc cũng nhƣ các thành viên khác của xã hội.
Trình độ dân trí càng cao sẽ trở thành áp lực, buộc các cơ quan, tổ chức,
công chức nhà nƣớc phải làm việc tốt hơn, đúng pháp luật và tôn trọng con
ngƣời hơn. Đảm bảo thực hiện QCN trong xã hội không chỉ là trừng trị những
hành vi xâm hại QCN, điều quan trọng hơn là đảm bảo thực hiện những nội
dung QCN đối với mọi thành viên trong xã hội, nếu có vi phạm

17


phải đƣợc phát hiện xử lý kịp thời, công minh, từng bƣớc hạn chế đi đến loại
trừ những hành vi vi phạm QCN. Điều đó chỉ có thể đƣợc thực hiện nếu có
một nền văn hoá giáo dục phát triển, nâng cao dân trí nhiều mặt, hình thành ý
thức pháp luật và nếp sống văn hoá pháp lý trong xã hội.
-

Về pháp luật: Đảm bảo thực hiện QCN bằng pháp luật cũng là điều kiện

quan trọng đảm bảo thực hiện QCN, quyền công dân, những tƣ tƣởng, quan điểm
tích cực tiến bộ về QCN, những tuyên bố long trọng về nội dung QCN chỉ là không

tƣởng nếu chúng không đƣợc thể chế hoá thành pháp luật, đƣợc pháp luật bảo vệ.

Thứ nhất, pháp luật là phƣơng tiện chính thức hoá giá trị xã hội của
QCN. Quyền – đó là điều mà pháp luật và xã hội công nhận, cho đƣợc
hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi. QCN là những giá trị đƣợc xã hội hoá, tức là
đƣợc xã hội thừa nhận và bảo vệ, phải thông qua phƣơng tiện pháp luật,
đƣợc biểu hiện dƣới hình thức pháp luật. Nếu không có sự thừa nhận của xã
hội thông qua pháp luật thì những quyền tự nhiên vốn có của con ngƣời chƣa
trở thành quyền pháp định, là ý chí chung của xã hội, đƣợc xã hội phục tùng,
đƣợc quyền lực nhà nƣớc bảo vệ. Trong một nhà nƣớc pháp quyền khi QCN
đƣợc quy định trong Hiến pháp và Luật sẽ trở thành “tối thƣợng”, có giá trị
bắt buộc đối với toàn xã hội, ngay cả với các cơ quan cao nhất của Nhà nƣớc.
Nhƣ vậy, phƣơng diện pháp luật là phƣơng tiện chính thức hoá giá trị QCN,
có thể nói lịch sử QCN là lịch sử nhận thức, đấu tranh cho QCN và đƣợc thể hiện
trong lịch sử lập hiến của mỗi quốc gia, lịch sử phát triển của các công ƣớc quốc tế
về QCN. Chỉ thông qua pháp luật QCN mới trở thành ý chí và mục tiêu hành động
chung của toàn xã hội, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội.

Thứ hai, Pháp luật là công cụ sắc bén của nhà nƣớc trong việc thực
hiện và bảo vệ QCN. Pháp luật là công cụ của Nhà nƣớc, có tính bắt buộc
chung đối với toàn xã hội, vì thế, những quy định về QCN, quyền công dân
cùng với những thiết chế nhằm thực hiện, bảo vệ nó trong Hiến pháp và pháp

18


luật cũng bắt buộc mọi thành viên của xã hội phải nghiêm chỉnh thi hành kể
cả các cơ quan, tổ chức, công chức nhà nƣớc. Mặt khác, tính sắc bén của
pháp luật trong việc thực hiện, bảo vệ QCN còn thể hiện ở chỗ các quy định
vệ QCN trong pháp luật đƣợc đảm bảo thực hiện bằng bộ máy, cách thức sử

dụng những biện pháp giáo dục thuyết phục bảo đảm cho nội dung quyền,
nghĩa vụ công dân và những lợi ích hợp pháp của công dân đƣợc thực hiện và
bảo vệ. Hơn nữa, nhờ hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật mà mọi hành vi vi
phạm QCN, quyền công dân đều có khả năng bị phát hiện, xử lý.
Nhƣ vậy, pháp luật với tƣ cách là công cụ quản lý cơ bản, riêng có của
nhà nƣớc sẽ tác động, tổ chức, điều chỉnh hành vi của mọi thành viên trong xã
hội hƣớng đến mục đích là thực hiện, bảo vệ QCN. Thông qua pháp luật, nhờ
những thuộc tính của pháp luật, QCN đƣợc đảm bảo thực hiện một cách
nhanh chóng, có hiệu quả, trên quy mô toàn xã hội. Không có công cụ,
phƣơng tiện nào có đƣợc các lợi thế nhƣ pháp luật trong việc tổ chức, quản
lý xã hội cũng nhƣ trong vấn đề thực hiện, bảo vệ QCN, quyền công dân.
Thứ ba, pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ,
Ở đây pháp luật đƣợc xem xét không chỉ với tƣ cách là công cụ,
phƣơng tiện của Nhà nƣớc mà còn là công cụ, vũ khí của nhân dân trong việc
thực hiện, bảo vệ QCN.
Pháp luật là đại lƣợng mang giá trị phổ biến, là chuẩn mực của sự công
bằng do đó có thể đo đƣợc hành vi của mọi ngƣời, kể cả các cơ quan, tổ
chức, công chức nhà nƣớc. Nó là cơ sở, là căn cứ để công dân đánh giá, kiểm
tra đối chiếu các hành vi từ phía nhà nƣớc và các thành viên khác trong xã
hội, đấu tranh bảo vệ các quyền là lợi ích hợp pháp của mình.
QCN, quyền công dân có thể bị xâm hại từ phía các cơ quan, công chức,
viên chức nhà nƣớc trong khi thi hành công vụ, có thể bị xâm hại từ phía các

19


thành viên khác của xã hội. Nhƣng đáng lƣu ý là nguy cơ xâm hại từ phía các cơ
quan, tổ chức, công chức, viên chức nhà nƣớc. Trong quan hệ với nhà nƣớc,
công đân vừa là ngƣời chủ nhà nƣớc, vừa là đối tƣợng bị quản lý, vì thế quyền

và lợi ích hợp pháp của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại. Sự xâm hại đó có thể do
trình độ non kém trong tổ chức, quản lý, do năng lực làm việc, hoặc do thiếu tinh
thần trách nhiệm, và cũng có thể do một bộ phận công chức thoái hoá biến chất,
vô đạo đức. Đó là tình trạng không ai muốn, nhƣng nó vẫn tồn tại.

Trong hoạt động của bộ máy nhà nƣớc thì hoạt động của hệ thống cơ
quan hành chính nhà nƣớc và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung rất dễ
có nguy cơ làm phƣơng hại QCN, quyền công dân. Bởi vì các quyết định
quản lý của cơ quan hành chính nhà nƣớc, các phán quyết của cơ quan bảo vệ
pháp luật đều trực tiếp đụng chạm đến quyền, lợi ích của công dân. Hơn nữa,
trong quan hệ với các cơ quan này, với tƣ cách là ngƣời bị quản lý và chịu sự
phán quyết, công dân luôn luôn ở vào vị thế bất lợi hơn.
Trong điều kiện đó, công dân không có vũ khí, phƣơng tiện nào khác
ngoài pháp luật để đấu tranh tự bảo vệ các quyền và lợi ích của mình. Chỉ có
pháp luật, bằng các quy định chặt chẽ trong pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, công chức, viên chức nhà
nƣớc; về quyền, nghĩa vụ công dân - mới tạo cơ sở pháp lý vững chắc để công
dân đấu tranh chống lại các hành vi xâm hại, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
hợp pháp của mình. Xét trên phƣơng diện đó, pháp luật là vũ khí, phƣơng tiện
của nhân dân; các quy định trong pháp luật không chỉ một chiều tạo điều kiện
thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nƣớc trong khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ mà còn phải đủ cụ thể, đơn giản, dễ hiểu, tạo điều kiện dễ
dàng cho nhân dân sử dụng pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích của mình.

20


Nếu công dân hiểu biết pháp luật, lại có hệ thống tƣ vấn và dịch vụ
pháp lý đƣợc tổ chức, quản lý chặt chẽ thì pháp luật là chỗ dựa, là vũ khí lợi
hại trong đấu tranh bảo vệ tự do, dân chủ QCN.

Thứ tư, Vai trò quan trọng hàng đầu của pháp luật trong việc thực hiện
QCN còn thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật với các điều kiện đảm bảo khác
(chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục). Các điều kiện này đều phải thông qua
pháp luật, thể hiện dƣới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn
định, đƣợc thực hiện hoá trên quy mô toàn xã hội. Và chỉ có nhƣ vậy các điều
kiện đó mới phát huy đƣợc vai trò của mình trong việc thực hiện QCN.
Về phƣơng diện chính trị: Đƣờng lối chính trị nhằm xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, bảo đảm dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền dân chủ
XHCN và nhà nƣớc pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân … phải đƣợc
thể hoá trong Hiến pháp và pháp luật… Hiến pháp quy định chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội, quy định về tổ chức hoạt động của các cơ
quan nhà nƣớc và các tổ chức xã hội… Đó chính là cơ sở pháp lý để xây
dựng một xã hội có cơ cấu tổ chức và chế độ chính trị hƣớng đích tôn trọng
QCN, bảo đảm thực hiện, bảo vệ QCN.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lƣợng lãnh đạo Nhà
nƣớc và xã hội”. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện kiên quyết bảo đảm nhà
nƣớc ta là Nhà nƣớc thực sự của dân, do dân, vì dân, xây dựng nền dân chủ,
bảo đảm định hƣớng XHCN trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá xã
hội, tạo tiền đề, điều kiện bảo đảm thực hiện QCN. Cƣơng lĩnh, đƣờng lối,
chính sách, các Nghị quyết của đảng muốn trở thành hiện thực phải đƣợc thể
chế hoá thành pháp luật. Nhƣ vậy, trong điều kiện Đảng cầm quyền, pháp luật
trở thành phƣơng tiện hữu hiệu chuyển tải đƣờng lối, chính sách, nghị quyết
của Đảng vào cuộc sống, cũng có nghĩa là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nƣớc và xã hội.

21


Nhƣ vậy, điều kiện bảo đảm thực hiện QCN về chính trị phải đƣợc
hình thành trong pháp luật, biểu hiện dƣới hình thức pháp luật mới trở thành

hiện thực và có hiệu lực đối với toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị dân
chủ, trong đó có nhà nƣớc pháp quyền đều phải thông qua những quy định cụ
thể trong Hiến pháp và pháp luật.
Phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất, bảo đảm thực hiện và nâng cao chất
lƣợng QCN, là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện QCN.
Nhƣng muốn phát triển kinh tế phải có đƣờng lối, chính sách, cơ chế quản lý
kinh tế đúng đắn và phải đƣợc cụ thể hoá trong pháp luật. Pháp luật tạo khuôn
khổ và môi trƣờng pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát
huy mọi tiềm năng, đồng thời đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hƣớng
XHCN, hạn chế đƣợc các mặt tiêu cực của cơ chế này, gắn việc phát triển kinh
tế với thực hiện các chính sách xã hội, bảo vệ môi trƣờng, giữ gìn truyền thống
bản sắc dân tộc. Nhƣ vậy, phát triển kinh tế phải quản lý kinh tế bằng pháp luật,
mặt khác những nội dung QCN về kinh tế cũng đòi hỏi phải đƣợc quy định bằng
pháp luật, đƣợc điều chỉnh bằng pháp luật trong quá trình phát triển kinh tế.

Đƣờng lối phát triển văn hoá, giáo dục, nâng cao dân trí cũng đƣợc thể
chế hoá trong hệ thống pháp luật bảo đảm cho con ngƣời phát triển tự do và
toàn diện; tạo điều kiện cho công dân đƣợc học tập, nghiên cứu, nâng cao
kiến thức nhiều mặt. Đồng thời, pháp luật tạo ra khuôn khổ, môi trƣờng của
nền văn hoá giáo dục mới tiếp thu tinh hoa của nền văn minh nhân loại, vừa
giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá dân tộc. Mặt khác, pháp
luật có vai trò giáo dục mạnh mẽ đối với các thành viên xã hội, góp phần hình
thành văn hoá pháp lý ở mỗi công dân và trong toàn xã hội, làm cho mọi
ngƣời biết sống và làm việc theo pháp luật, biết bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của mình, biết tôn trọng quyền và lợi ích của ngƣời khác.

22


Thứ năm, pháp luật là phƣơng tiện thực hiện sự cam kết và hoà nhập

giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế bảo đảm thực hiện QCN ở mỗi
quốc gia và trên bình diện quốc tế.
Trong điều kiện phát triển của thời đại, nhiều nội dung cụ thể của QCN cũng
nhƣ việc thực hiện và bảo vệ QCN đòi hỏi phải có sự đấu tranh, hợp tác giải quyết,
phối hợp hành động của nhiều quốc gia hoặc của cộng đồng quốc tế. Đấu tranh
chống tội phạm, giải quyết vấn đề môi trƣờng, giải trừ vũ khí hạn nhân, vũ khí hoá
học, giải quyết đói nghèo và các vấn đề xã hội, thực hiện quyền sống trong hoà
bình, quyền của phụ nữ, của trẻ em, giải quyết các vấn đề nhân đạo đối với nạn
nhân chiến tranh, xung đột vũ trang; quyền của các nhóm dễ tổn thƣơng khác
(quyền tàn tật, ngƣời thiểu số…) đều là những vấn đề đòi hỏi sự hợp tác, chia sẻ
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Không phải ngẫu nhiên mà sau Tuyên ngôn
QCN của Đại Hội đồng Liên hợp quốc năm 1948 có hàng loạt các Công ƣớc quốc
tế về QCN đã đƣợc thông qua. Điều đó, chứng tỏ cộng đồng quốc tế không thể lẩn
tránh những vấn đề bức xúc về QCN đã trở nên có tính toàn cầu.
Trách nhiệm của mỗi quốc gia đã tham gia, ký kết các Công ƣớc, các Tuyên bố
của các Hội nghị quốc tế về QCN phải tìm mọi biện pháp thực hiện các cam kết nêu
trong các Công ƣớc và Tuyên bố đó. Mỗi nƣớc phải cụ thể hoá những quy định của
pháp luật quốc tế phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nƣớc mình, hoà nhập pháp
luật quốc gia với pháp luật quốc tế. Sửa đổi hệ thống pháp luật của quốc gia phù hợp
với những tiêu chuẩn của các Công ƣớc quốc tế đã tham gia, ký kết là thể hiện sự ràng
buộc trách nhiệm thực hiện bảo vệ QCN đối với công dân trƣớc cộng đồng quốc tế.

Hơn nữa, trong điều kiện giao lƣu và quan hệ giữa các nƣớc ngày càng
mở rộng (ngoại giao, kinh tế, học tập nghiên cứu, hợp tác lao động, tham quan
du lịch, quan hệ hôn nhân…) vấn đề thực hiện, bảo vệ QCN của nƣớc ngoài
và công dân nƣớc mình ở ngoài nƣớc đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, cần
có sự phối hợp giải quyết trƣớc hết là lĩnh vực pháp luật. Việc ký kết

23



×