Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Quyền hành pháp và tổ chức quyền hành pháp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.47 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HÀ

QUYỀN HÀNH PHÁP
VÀ TỔ CHỨC QUYỀN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HÀ

QUYỀN HÀNH PHÁP
VÀ TỔ CHỨC QUYỀN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Xuân Đức

HÀ NỘI - 2010


M



Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN

VÀ TỔ CHỨC

1.1.

Khái niệm về quyền hàn
ở Việt Nam

1.1.1.

Quyền hành pháp và mô
một số nước trên thế giớ

1.1.1.1.

Quyền hành pháp

1.1.1.2.

Mô hình tổ chức quyền h

1.1.2.


Khái niệm, đặc điểm củ

1.1.2.1.

Khái niệm

1.1.2.2.

Đặc điểm của quyền hàn

1.2.

Nội dung của quyền hàn

1.2.1.

Tính chất của quyền hàn

1.2.1.1.

Tính chấp hành (tính thi

1.2.1.2.

Tính hành chính nhà nư

1.2.2.

Chức năng của quyền hà


1.2.2.1.

Chức năng đảm bảo an n

1.2.2.2.

Chức năng bảo vệ quyền

1.2.2.3.

Chức năng thực thi pháp


1.2.2.4.

Chức năng tài phán

1.2.2.5.

Chức năng quản lý, điề

1.2.3.

Mô hình tổ chức quyền

1.2.3.1.

Mô hình Chính phủ ở t

1.2.3.2.


Mô hình Uỷ ban nhân

Chương 2: THỰC TRẠ

PHÁP Ở VIỆ

2.1.

Tổ chức quyền hành p

2.1.1.

Tổ chức quyền hành p

2.1.2.

Tổ chức quyền hành p

2.1.3.

Tổ chức quyền hành p

2.2.

Tổ chức quyền hành ph

2.2.1.

Nguyên thủ quốc gia hành pháp


2.2.2.

Chính phủ - chủ thể cơ

2.2.3.

Các cơ quan hành pháp

2.3.

Đánh giá những ưu điể
Hiến pháp về vị trí, va
chức thực hiện quyền h

Chương 3: PHƯƠNG H

CHỨC THỰ
KIỆN XÂY

NAM HIỆN

3.1.

Yêu cầu hoàn thiện tổ
hiện nay

3.2.

Phương hướng hoàn th

trong điều kiện xây dự


3.2.1.

Đổi mới trong nhận thứ
xã hội chủ nghĩa theo h
xây dựng một nhánh hà

3.2.2.

Đổi mới mô hình tổ chứ
cơ quan thực hiện quyề
quyền hành pháp mạnh

3.2.2.1.

Đổi mới mô hình tổ chứ
Trung ương

3.2.2.2.

Đổi mới mô hình tổ chứ
pháp ở địa phương: t
chuyển sang mô hình c

3.3.

Một số giải pháp hoàn
pháp trong điều kiện xâ

Nam hiện nay

3.3.1.

Kiện toàn cơ cấu tổ chứ

3.3.1.1.

Đối với Chính phủ

3.3.1.2.

Đối với Ủy ban nhân d

3.3.2.

Hoàn thiện cơ chế chịu

3.3.3.

Tăng cường trách nhiệm
các cơ quan hành pháp

3.3.4.

Thực hiện công khai, m
chống tham nhũng

3.3.5.


Tăng cường đào tạo, bồ
hành pháp

3.3.6.

Hiện đại hóa quyền hành pháp bằng việc áp dụng khoa học
công nghệ trong bộ máy quản lý nhà nước

109

KẾT LUẬN

112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

115


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quyền lực nhà nước là vấn đề đã được quan tâm, nghiên cứu khá
nhiều. Tuy nhiên, đối với nước ta để đáp ứng cho công cuộc đổi mới đất nước,
việc nghiên cứu về tổ chức quyền lực nhà nước vẫn được đặt ra như một nhu
cầu cấp bách. Cùng với sự chuyển biến về kinh tế, bộ máy nhà nước cũng cần
có sự thay đổi tương ứng sao cho phù hợp với các yêu cầu của xã hội. Chủ
trương của Đảng và Nhà nước trong suốt thời gian qua về việc xây dựng Nhà
nước Pháp quyền của dân, do dân và vì dân, trong đó quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là đồng nhất.
Nghiên cứu cấu trúc quyền lực nhà nước sẽ mở đường cho quá trình tìm hiểu
về tính chất quyền lực nhà nước, làm sáng tỏ nội dung của quyền lực nhà
nước và từ đó tạo ra khả năng khái quát cao hơn trong việc tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nớc trong điều kiện đổi mới hiện nay. Mặc dù Hiến pháp đã ghi
nhận khá rõ về các quyền trong hệ thống quyền lực nhà nước, nhưng làm sao
có thể đảm bảo thực hiện đúng trên thực tế, lại là vấn đề không đơn giản, nhất
là đối với việc thực hiện quyền hành pháp. Các cơ quan hành pháp là nơi chỉ
đạo việc thi hành pháp luật, trực tiếp quản lý các lĩnh vực của xã hội, có liên
quan trực tiếp đến người dân. Trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở
Việt Nam hiện nay, việc xác định chính xác vị trí, vai trò của quyền hành pháp
có ảnh hưởng rất lớn đến các quyền khác trong cơ cấu quyền lực nhà nước và
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm thế nào để có thể phát huy hơn
nữa hiệu quả của việc thực hiện quyền này là một vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu. Với mong muốn góp phần vào công cuộc nghiên cứu đó, tôi chọn
đề tài "Quyền hành pháp và tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam" làm đề
tài nghiên cứu của mình.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước, quyền hành pháp và cách tổ
chức thực hiện, cũng như vị trí, vai trò và ảnh hưởng của quyền này trong đời
sống thực tế là một đề tài được khá nhiều học giả nghiên cứu. Công cuộc cải
cách hành chính quốc gia đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn nhận và nghiên cứu
một cách nghiêm túc, đầy đủ nội dung, ý nghĩa của loại quyền lực này. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước đang từng bước tổ chức xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Các
công trình nghiên cứu của các học giả trong nước liên quan đến quyền hành pháp

cũng như các công trình của các học giả nước ngoài về lĩnh vực này đã đóng góp
những kinh nghiệm, hiểu biết quý báu cho công cuộc cải cách hành chính ở nước
ta. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Hành chính học
và vấn đề cải cách hành chính, Nxb Sự thật, 1992; Quyền hành pháp và chức
năng của quyền hành pháp, của PGS.TS Lê Minh Tâm. Bên cạnh đó còn rất
nhiều các bài viết của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS. Bùi Xuân Đức,
TS. Thái Vĩnh Thắng… đăng trên tạp chí Luật học, Tạp chí Lập pháp, Tạp chí
Cộng sản, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật… và trong các giáo trình Luật Hiến
pháp, Luật Hành chính, Luật Hiến pháp các nước tư bản… vấn đề này cũng được
đề cập và nghiên cứu. Trong các tác phẩm nêu trên, các tác giả đề cập về quyền
hành pháp, chức năng, vị trí, vai trò, cách tổ chức hoạt động trong cơ cấu tổ chức
quyền lực nhà nước; cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành pháp; cũng
như các cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Mặc dù có rất nhiều
các tác phẩm nghiên cứu có liên quan. Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh của
đề tài. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, cụ thể hơn về các vấn đề của đề
tài vẫn là nhu cầu cấp thiết ở nước ta.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền hành
pháp và cách tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, nhằm đánh giá

2


những ưu điểm, nhược điểm trong các quy định của pháp luật và cách tổ chức
thực hiện quyền này trong thực tế qua các thời kỳ, gắn với các Hiến pháp năm
1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Luận văn nêu ra những yêu cầu đổi
mới trong công cuộc cải cách đất nước hiện nay, đồng thời đưa ra một số
phương hướng, giải pháp hoàn thiện việc tổ chức, thực hiện nhánh quyền lực

này. Để làm nổi bật các vấn đề nêu trên, luận văn cũng đề cập đến quyền hành
pháp và cách tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở một số nước trên thế giới.
Thông qua đó, nhằm góp phần nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn về vị trí, vai
trò của quyền hành pháp đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn có đề cập một cách sơ lược về quyền hành pháp và cách tổ
chức thực hiện quyền hành pháp ở một số nước trên thế giới. Trọng tâm của luận
văn là tập trung nghiên cứu về quyền hành pháp, vị trí, vai trò của nó trong cơ
cấu tổ chức quyền lực nhà nước và cách tổ chức, thực hiện quyền hành pháp

ở Việt Nam theo các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm
1992. Tuy nhiên, đây là một đề tài khó và rộng, khả năng còn hạn chế, do vậy,
chúng tôi chỉ nghiên cứu đề tài theo hướng những vấn đề lý luận cơ bản; phân
tích quy định của pháp luật Việt Nam về quyền hành pháp và khái quát thực
trạng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch
sử. Ở Việt Nam, quyền hành pháp được thực hiện bởi khá nhiều chủ thể, bao
gồm các chủ thể nắm quyền hành pháp ở trung ương và chủ thể nắm quyền
hành pháp ở địa phương, luận văn cũng đề cập và phân tích về các chủ thể
này. Đối với cơ cấu quyền lực nhà nước luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về
quyền hành pháp mà không nghiên cứu sâu sang các thiết chế quyền lực khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng duy vật.
-

Phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, thống kê so sánh, quy

nạp, diễn dịch...

3



6. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
-

Luận văn nghiên cứu cụ thể các quy định của pháp luật về quyền

hành pháp, vị trí, vai trò, ý nghĩa của quyền hành pháp trong cơ cấu tổ chức
quyền lưcc̣ nhà nước, cách tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam qua
các thời kỳ thông qua các bản Hiến pháp.
-

Đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong các quy định của pháp

luật Việt Nam về vị trí, vai trò của quyền hành pháp, cũng như các chủ thể
thực hiện quyền này.
-

Luận văn đưa ra những phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ

chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.
Luận văn có thể đóng góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng, tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt
Nam. Đồng thời góp phần nhận thức đúng đắn hơn về vị trí, vai trò, ý nghĩa
của quyền hành pháp đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước cũng
như của toàn xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang xây
dựng Nhà nước pháp quyền và đẩy mạnh phát triển nền kinh tế theo sự vận
hành của nền kinh tế thị trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền hành pháp và tổ chức
quyền hành pháp ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện
quyền hành pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN HÀNH PHÁP
VÀ TỔ CHỨC QUYỀN HÀNH PHÁP Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM VỀ QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ TỔ CHỨC QUYỀN HÀNH
PHÁP Ở VIỆT NAM

1.1.1. Quyền hành pháp và mô hình tổ chức quyền hành pháp ở
một số nƣớc trên thế giới
1.1.1.1. Quyền hành pháp
Vấn đề quyền lực nhà nước đã được đề cập từ rất xa xưa. Trong cơ cấu
quyền lực nhà nước của các nhà nước hiện nay, mặc dù mỗi quốc gia có
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau, nhưng về cơ bản cơ cấu
quyền lực nhà nước bao gồm ba bộ phận cơ bản là: quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
Quyền lập pháp là quyền ban hành ra pháp luật
Quyền hành pháp là quyền thực hiện pháp luật và chấp hành pháp luật
Quyền tư pháp là quyền xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, các

tranh chấp, xung đột xảy ra trong xã hội.
Quyền hành pháp là quyền thực hiện pháp luật và chấp hành pháp luật
hay chính là quyền thi hành pháp luật. Vậy, nó xuất hiện khi nào và tại sao lại
xuất hiện thứ quyền lực này? "Cần khẳng định rằng hoạt động thi hành pháp
luật chỉ ra đời khi có sự xuất hiện của pháp luật. Vì khi đó quyền hành pháp
mới có đối tượng để thi hành. Điều đó cho thấy quyền hành pháp không xuất
hiện trong mọi chế độ của xã hội loài người mà nó chỉ xuất hiện khi có sự ra
đời của nhà nước và pháp luật. Bởi bất cứ một nhà nước nào muốn tồn tại
cũng cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật và hệ thống những thiết chế

5


đảm bảo cho hệ thống pháp luật đó được thực hiện, pháp luật có được thực
hiện hay không phụ thuộc rất nhiều vào quyền hành pháp có đủ mạnh hay
không" [25]. Tuy ra đời cùng với nhà nước và pháp luật nhưng không phải ở
mọi thời kỳ quyền hành pháp đều được quan niệm giống nhau, mà có sự phát
triển theo thời gian.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, mặc dù không được phân chia rạch ròi
ra quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp nhưng sự tồn tại Viện
nguyên lão, Đại hội nhân dân và các cơ quan chấp chính đã cho thấy giữa các
cơ quan trong bộ máy nhà nước cũng đã có sự phân chia nhiệm vụ. Tuy nhiên,
trong thời kỳ này, quyền lực nhà nước được phân chia một cách mờ nhạt mà
chủ yếu dựa vào sự cưỡng bức của giai cấp chủ nô với tầng lớp nô lệ. Nhưng
đến giai đoạn cuối của nhà nước chủ nô ở Aten, La Mã thật sự có những bước
phát triển mới trong việc tổ chức bộ máy nhà nước. Ở đây, "cơ quan hành
chính (cơ quan quản lý, chấp hành và hành chính nhà nước đã được thành
lập)" [45, tr. 95]. Trong cơ cấu quyền lực nhà nước, quyền hành pháp đã được
nhận thức ngay trong thời kỳ cổ đại ở Hy Lạp, La Mã. Điều này được thể hiện
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong các quan điểm

chính trị của Aristote. Aristote là " nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại"
(C.Mác), là " khối óc toàn diện nhất trong số những nhà triết học Hy Lạp"
(Ph.Ăngghen) và là "vị bá chủ về tư tưởng" (Gomperz). Khi bàn về bộ máy
nhà nước, ông phân tách nó thành ba bộ phận hay ba ngành của chính quyền
là thảo luận hay quyết nghị, áp dụng luật hay hành pháp, và phán xử theo luật
hay xét xử. Ông cho rằng có ba bộ phận trong tất cả các nhà nước. Thứ nhất,
trong những bộ phận đó là Hội nghị nhân dân, thứ hai là các viên chức của
nhà nước, đó là những người phải được giao phó cho một quyền lực nào đó và
phải được bổ nhiệm theo một cách thức nào đó, thứ ba là cơ quan tòa án. Theo
Aristote, bộ phận hành pháp của nhà nước bao gồm nhiều chức vụ có vị trí,
chức năng, thẩm quyền và con đường hình thành khác nhau, những người giữ
chức vụ ấy có quyền lực riêng. Họ có quyền quản lý một

6


lĩnh vực hoạt động nhất định, có quyền theo dõi, kiểm tra, giám sát lẫn nhau.
Thông thường, mỗi một lĩnh vực hoạt động sẽ có các pháp quan riêng cho lĩnh
vực đó. Chẳng hạn, có pháp quan quản lý các công trình xây dựng lớn của cả
cộng đồng lẫn cá nhân. Pháp quan quản lý thị trường để thanh tra các hợp
đồng mua bán và giữ gìn trật tự trong lĩnh vực mua bán, có các pháp quan làm
nhiệm vụ thu thuế…Ông cũng đề cập một cách khái quát đến mối quan hệ
giữa các cơ quan, bộ phận trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Như vậy, trong tư
tưởng của Aristote mầm mống của quan niệm về quyền hành pháp đã xuất
hiện.
Đến thời kỳ thành bang, ở Aten do nhà độc tài Peisistratus cai trị, mọi
quyền hành đều do ông nắm giữ. Sau khi chế độ này bị sụp đổ, nhân dân
giành được quyền tự trị, song quý tộc, thị tộc vẫn là tầng lớp có thế lực nhất
về chính trị và kinh tế. Ở thời kỳ này bộ máy nhà nước được tổ chức thành ba
bộ phận chủ yếu là: Hội đồng quý tộc, quan chấp chính và Hội nghị công dân.

Đến thế kỷ thứ V tr.CN, chính quyền ở Aten về tay những người dân chủ cấp
tiến nhất mà đứng đầu là Ephialtes. Ông là người sống rất gần gũi với dân
chúng, là người bạn của dân nghèo. Dưới thời ông, tất cả quyền lực đều thuộc
về dân chúng, họ được thực hiện quyền lực bằng cách tham gia vào các công
việc công và có quyền đối với các viên chức do họ lập ra. Hội nghị nhân dân
là cơ quan nắm quyền lập pháp, là cơ quan ban hành các đạo luật, các nghị
định và có quyền quyết định lưu đày một số quan chức bị mất tín nhiệm…
Quyền hành pháp thuộc về Hội đồng nhân dân gồm 500 người. Đó là các viên
chức hành chính được tuyển lựa theo một trong hai cách là bầu cử hoặc bốc
thăm. Hội đồng được chia thành mười ủy ban, mỗi ủy ban điều khiển công
việc của Hội đồng trong 1/10 năm, giải quyết những công việc thông thường.
Đối với những công việc quan trọng thì do toàn thể Hội đồng quyết định. Hội
đồng được bầu lại mỗi năm một lần và không ai có quyền tham gia Hội đồng
quá hai năm. Quyền tư pháp thuộc về Tòa án nhân dân gồm 6000 người do tất
cả các bộ lạc bầu ra hàng năm [22].

7


Sang chế độ phong kiến, nhà Vua nắm mọi quyền hành. Vua ban hành
ra pháp luật và tổ chức thi hành chúng cũng như nắm quyền xét xử. Đó là thời
kỳ mà quyền dân chủ của người dân bị hạn chế nhất, thậm chí là người dân
không có quyền hạn gì nhiều. Trong nhà nước phong kiến quyền lực nhà nước
tập trung trong tay một vị quân chủ là nhà Vua. Nhà Vua nắm giữ mọi quyền
lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia do mình quản lý, tổ chức lên một bộ máy
quan lại chuyên trách dưới quyền để đảm nhiệm những chức vụ khác nhau để
giúp nhà Vua thực hiện quyền lực nhà nước. Bộ máy giúp việc đó là cánh tay
đắc lực của nhà Vua. Tuy nhiên họ cũng chỉ là những người đảm nhận những
chức vụ được giao, được ủy quyền lại mà thôi. Trên thực tế toàn bộ quyền lực
nhà nước nằm trong tay nhà Vua, nhà Vua có toàn quyền quyết định tất cả

những vấn đề trong phạm vi lãnh thổ do mình quản lý. Tất cả quyền lực nhà
nước trong đó có quyền hành pháp đều nằm trong tay nhà Vua, giữa quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp không có sự phân biệt về chủ thể thực hiện.

Sự ra đời của nhà nước tư sản cùng với sự phát triển của các học
thuyết của các học giả tư sản, quyền hành pháp đã được nhận thức rõ hơn
trong cơ cấu quyền lực nhà nước, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của quyền
hành pháp. Các học thuyết này đã đánh thức người dân các nước tư bản đứng
lên giành lại quyền tự do dân chủ từ tay giai cấp phong kiến. Đặc biệt phát
triển và nổi bật nhất là học thuyết phân quyền của Montesquieu và thuyết chủ
quyền nhân dân của Rousseau. Đây là hai tác giả tiêu biểu có những đóng góp
to lớn trong việc nhận thức về sự phân chia quyền lực trong cơ cấu quyền lực
nhà nước. Trước Montesquieu, nhà tư tưởng John Locke khi bàn về quyền lực
nhà nước, đã trình bày sơ qua về đặc tính, nội dung của từng loại quyền lực
nhà nước. Ông cho rằng quyền lực tối cao thuộc về Nghị viện, quyền hành
pháp thuộc về nhà Vua và quyền liên minh là quyền giải quyết các vấn đề
chiến tranh, hoà bình, đối ngoại. Như vậy, ông khẳng định quyền lập pháp có
ưu thế hơn so với quyền hành pháp. Quyền hành pháp và quyền tư pháp gắn

8


liền với nhau. Đây là một hạn chế của Locke mà sau này Montesquieu đã
khắc phục được. Sở dĩ quyền hành pháp không có ưu thế so với quyền lập
pháp là do điều kiện lịch sử. Sự thắng thế không triệt để của giai cấp tư sản,
giai cấp phong kiến vẫn còn tồn tại và được trao cho quyền hành pháp. Để
củng cố quyền lực của mình, giai cấp tư sản nắm lấy quyền lập pháp và như
vậy nhà Vua chỉ có nghĩa vụ thi hành mà không được quyền chủ động. Không
giống Locke, Montesquieu đã tách quyền tư pháp ra khỏi quyền hành pháp.
Ông khẳng định, quyền lực nhà nước được phân chia thành ba quyền lập

pháp, hành pháp, và tư pháp và được trao cho các cơ quan khác nhau thực
hiện trên cơ sở " kiềm chế và đối trọng" nhau. Điều này đã đem lại cho quyền
hành pháp một vị trí độc lập và một vai trò hết sức quan trọng trong tổ chức
quyền lực nhà nước. Như vậy, các học thuyết có sự ảnh hưởng nhất định tới
sự phát triển của quyền hành pháp. Tuy nhiên, sự phát triển của quyền hành
pháp còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nhà nước
và nhu cầu quản lý của xã hội. Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, Nghị
viện có vai trò hết sức quan trọng và hoạt động rất hiệu quả vì khi đó nhà
nước chỉ có trách nhiệm bảo vệ trật tự, bảo vệ tư hữu và tự do cạnh tranh còn
ít quan tâm đến hoạt động kinh tế của cá nhân. Nhưng sau này, do sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế cạnh tranh, có sự tham gia của các công ty
xuyên quốc gia. Đồng thời, hàng loạt vấn đề cần giải quyết nhanh chóng và
cần có sự tác động của bộ máy công quyền sau chiến tranh thế giới thứ II đã
đẩy Nghị viện xuống hàng thứ yếu , do cơ chế hoạt động rất lâu, không đáp
ứng được yêu cầu do xã hội đặt ra. Điều đó đã làm cho Chính phủ có điều
kiện phát huy vai trò của mình do cơ chế hoạt động khá nhanh nhạy và linh
hoạt, nắm bắt nhanh chóng và giải quyết có hiệu quả những vấn đề nảy sinh.
Sang giai đoạn nền kinh tế thị trường, quyền hành pháp không can thiệp vào
mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội nữa mà nó chỉ tiến hành điều chỉnh các
quan hệ ở tầm vĩ mô. Ngày nay, quyền hành pháp có ảnh hưởng rất lớn đến xã
hội cũng như trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước.

9


1.1.1.2. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở một số nước trên thế
giới a. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Anh
Những nước có chính thể đại nghị là nơi mà tư tưởng phân quyền
được thể hiện và áp dụng ở mức độ mềm dẻo. Điều đó được thể hiện ở chỗ
hành pháp không hoàn toàn độc lập mà có mối liên hệ mật thiết với các nhánh

còn lại của quyền lực nhà nước. Anh là một trong những nhà nước đầu tiên
trong thế kỷ XVII thể hiện tư tưởng phân quyền trong tổ chức bộ máy. Tổ
chức bộ máy nhà nước Anh là một mô hình đặc sắc của chế độ phân quyền
mềm dẻo, ở chế độ này giữa lập pháp và hành pháp không có sự tách biệt
hoàn toàn mà luôn luôn có sự liên hệ thường xuyên với nhau. Nguyên thủ
quốc gia chỉ là hành pháp tượng trưng vì bộ máy hành pháp trực thuộc Thủ
tướng và chính Thủ tướng mới là người phải chịu trách nhiệm trước lập pháp.
Tư pháp độc lập với hành pháp trong hoạt động song không hoàn toàn độc lập
trong tổ chức hoạt động với lập pháp. Với điều kiện địa lý đặc biệt đã tạo điều
kiện thuận lợi để nước Anh hình thành một Chính phủ tập quyền và phát triển
những quan điểm quốc gia khá độc lập. Nước Anh là một trong số rất ít các
nước trên thế giới hiện nay không có hiến pháp thành văn. Quan hệ của các cơ
quan quyền lực nhà nước chủ yếu dựa trên phong tục truyền thống và một số
ít các văn bản. Vào khoảng thế kỷ thứ XVII và đặc biệt rõ nét là từ sau cách
mạng năm 1688, khi Quốc hội giành được quyền lập pháp. Kể từ đó, quyền
lực nhà nước đã có sự phân định thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong đó, quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, hành pháp thuộc về nhà Vua và
Chính phủ còn tư pháp chủ yếu thuộc về Tòa án và một phần thuộc về Nghị
viện. Trong ba quyền này thì hành pháp và tư pháp tương đối độc lập với
nhau, còn lập pháp và hành pháp thì không hoàn toàn độc lập mà có sự cộng
tác, đan xen, hòa nhập và chịu trách nhiệm lẫn nhau. Lập pháp có thể lật đổ
hành pháp và ngược lại, hành pháp có thể giải tán lập pháp trước thời hạn.
Song phạm vi quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan trên không cố định
mà có sự thay đổi theo xu hướng chuyển dần quyền lực của cơ quan này cho

10


cơ quan kia và ngược lại. Nước Anh đã chuyển biến từ hình thức quân chủ
chuyên chế sang quân chủ đại nghị, từ chỗ Vua nắm thực quyền đến chỗ nhà

Vua phải nhường quyền cho Quốc hội, rồi đến lượt mình, Quốc hội lại
nhường quyền cho Chính phủ. Điều này có nguyên nhân lịch sử của nó và là
kết quả của một sự tiến triển dần dần theo thời gian.
Cho đến những năm thế kỷ thứ XIII, nước Anh vẫn còn là một nước
quân chủ chuyên chế tuyệt đối. Mọi quyền hành đều thuộc về tay nhà Vua.
Nhà Vua vừa là người tổ chức thực hiện pháp luật, lại vừa là vị quan tòa tối
cao, Vua có toàn quyền, không bị ai kiểm soát hoạt động. Vua thường triệu tập
các lãnh chúa đến để bàn bạc các công việc triều chính, chủ yếu là bàn về các
vấn đề liên quan đến việc thu thuế đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà Vua. Năm
1215, với sự ra đời của Hiến chương Magna Charta, quyền lực của Vua bị hạn
chế trong một số lĩnh vực. Vua không thể tự tiện tăng thuế nếu không có sự
thỏa thuận của Đại hội đồng và phải tôn trọng những nguyên tắc pháp lý nhất
định. Nghị viện dần trở thành cơ quan hạn chế và kiểm soát hoạt động của nhà
Vua. Quyền hành và thế lực của Vua bị giảm sút nhiều và chuyển dần sang tay
Nghị viện. Nghị viện nắm trong tay quyền lập pháp, quyền hành pháp thuộc
về nhà Vua. Quyền hành của nhà Vua giảm dần rồi bị hạn chế đến mức tối đa
trong lĩnh vực lập pháp và cả trong lĩnh vực hành pháp. Cuộc cách mạng năm
1688, với thắng lợi của mình, Nghị viện đã dần khẳng định được ưu thế. Vào
khoảng thế kỷ thứ XV- XVI, có nhiều bậc quan lại giúp Vua trị nước được gọi
là các bậc quần thần thượng thư phụ tá. Vua thường triệu tập họ để hỏi ý kiến
về các vấn đề quan trọng. Trên cơ sở các bậc quần thần này, một cơ quan
được thiết lập lấy tên là Viện cơ mật. Cơ quan này rất quan trọng, giúp Vua
trong những việc trọng đại. Đến năm 1714, khi George lên ngôi, vị Vua Anh
mang dòng máu Đức, do không thành thạo tiếng Anh nên vị Vua này thường
lơ là các công việc triều chính và phó thác cho các quan, cho Nội các. Dần
dần công việc cai trị rơi hết vào tay Viện cơ mật. Viện cơ mật phải bầu ra một
vị Thượng thư thứ nhất chủ trì các phiên họp. Sau này các vị

11



Thượng thư được gọi là các Bộ trưởng, hội nghị trên thành Nội các và
Thượng thư thứ nhất điều khiển được gọi là Thủ tướng. Vua George Đệ tam,
vốn sinh trưởng ở Anh, mặc dù thành thạo tiếng Anh, đã tìm mọi cách phục
hồi quyền lực, nhưng đã bị thất bại vào năm 1776 và đành phải chấp nhận tập
quán để mặc cho Thủ tướng và các Bộ trưởng lo việc nước. Từ đó trở đi,
Chính phủ là vũ khí cơ bản để thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại của
nhà nước.
Sang thế kỷ XVIII, cùng với sự phát triển của phong trào dân chủ,
đảng phái cũng phát triển. Quốc hội gồm hai Viện, trong đó Hạ Nghị viện
được nhân dân bầu ra, còn Thượng Nghị viện thì được bầu theo hình thức kế
tục là chủ yếu. Từ năm 1868 trở đi, uy thế của Hạ Nghị viện càng tăng còn
quyền hành và uy tín của Thượng Nghị viện ngày càng giảm vì nó không phải
do dân bầu ra. Nội các và Thủ tướng đã tách hẳn khỏi nhà Vua mà được thành
lập trên thành phần của Hạ Nghị viện. Sự tăng cường quyền lực cho Hạ Nghị
viện không có nghĩa là tăng quyền lực cho Nghị viện mà là cho Chính phủ vì
Nội các chính là ban lãnh đạo của đảng có đa số ghế trong Nghị viện. Đảng
chiếm đa số trong Hạ Nghị viện sẽ nắm giữ chức vụ Thủ tướng và có quyền
quyết định chính sách cũng như lập trường của nhà Vua. Chính phủ thực sự có
quyền kiểm tra, điều hành cả Nghị viện và nhà Vua, có thực quyền trong cả
hai lĩnh vực lập pháp và hành pháp và mới thực sự là trung tâm quyền lực của
cả bộ máy nhà nước.
Khi đề cập đến quyền hành pháp ở Anh không thể không nhắc tới
quyền hành pháp của Nữ hoàng Anh. Nữ hoàng Anh hiện nay là vị quốc
vương Anh quốc, tượng trưng cho chính thể quân chủ ở Anh, giữ một vai trò
như một nguyên thủ quốc gia trong nhà nước cộng hòa. Nữ hoàng tượng trưng
cho sự thống nhất và bền vững của dân tộc, là biểu tượng của quốc gia, thay
mặt cho quốc gia và các đảng phái, là tâm điểm của lòng ái quốc. Khi chế độ
quân chủ Nhị hợp tồn tại, quyền hạn của Vua bị hạn chế trong lĩnh vực lập
pháp nhưng lại được mở rộng đến mức tối đa trong lĩnh vực hành pháp.


12


Vua vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa đứng đầu Chính phủ, các Bộ trưởng do
Vua bổ nhiệm nên được gọi là Bộ trưởng của Vua và phải chịu trách nhiệm
trước Vua. Vua có khá nhiều quyền như: phủ quyết những đạo luật mà các hai
viện đã thông qua, chỉ huy tối cao lục quân và hải quân, tuyên chiến, thành lập
và quy định các đạo quân và chiến hạm, kéo dài khóa họp của Nghị viện và
giải tán Nghị viện. Vua là người đại diện duy nhất và toàn quyền của quốc gia
trong những cuộc bang giao với ngoại quốc, có quyền tùy ý ký kết những hiệp
ước hòa bình, thương mại, liên minh hay về vấn đề khác; bổ nhiệm nhân viên
vào các chức vụ đã lập từ trước, tạo ra các chức vụ mới và phong chức tước.
Nhà Vua mặc dù vô trách nhiệm về chính trị, nhưng ngang hàng với Quốc hội
về thế lực chính trị. Chính phủ trở thành cơ quan liên lạc và thực hiện sự hợp
tác giữa Vua và Quốc hội, là công cụ của cả Quốc hội và Vua. Các Bộ trưởng
vừa chịu trách nhiệm trước nhà Vua, vừa chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Hiện tại, Vua là một chức danh rất quan trọng nhưng hoạt động lại rất
hình thức. Nhà Vua tượng trưng cho quốc gia, đại diện cho xứ sở và các định
chế đáng quý và là trung tâm điểm của lòng ái quốc, Nữ hoàng lãnh đạo nhà
thờ Anh. Danh hiệu Nữ hoàng là "xi măng gắn bó Hiến pháp" [2, tr. 243], là
sợi dây liên lạc giữa Anh và một số nước khác như Canađa và Ôxtrâylia vì về
danh nghĩa, Nữ hoàng Anh cũng chính là Nữ hoàng của các nước này. Về hình
thức, Nữ hoàng Anh có rất nhiều quyền hạn như: phê chuẩn các đạo luật, bổ
nhiệm công chức dân sự, quân sự, ban tước hiệu cho các thần dân, triệu tập
Quốc hội và khai mạc các kỳ họp Quốc hội, ký hiệp ước, ban hành luật, giải
tán Quốc hội, giải tán Nội các…Tuy nhiên, xuất phát từ chính sự trung lập về
chính trị của Nữ hoàng, các quyền trên chỉ mang tính chất hình thức mà thôi.
Quyền quan trọng nhất của Nữ hoàng là bổ nhiệm Thủ tướng và các thành

viên Nội các cũng như các quan chức cấp cao trong Chính phủ. Nhưng Nữ
hoàng không tự quyết định được điều này, mà thực tế chính cuộc bầu cử của
người dân Anh đã giúp họ lựa chọn cho mình đảng cầm quyền và Nữ hoàng

13


không thể làm gì khác là bổ nhiệm thủ lĩnh của đảng giành thắng lợi vào giữ
chức vụ Thủ tướng. Như vậy, qua cuộc bầu cử Hạ viện, nhân dân Anh đã lựa
chọn cho mình người đứng đầu bộ máy hành pháp. Điều này đã giải thích lý
do tại sao Thủ tướng Anh có nhiều quyền năng trên thực tế. Toàn bộ các quyết
định sau này của Nữ hoàng cũng không phải do Bà quyết định mà đều có chữ
ký của các Bộ trưởng. Điều này đã tạo nên chế độ trách nhiệm chính trị liên
đới của các Bộ trưởng trước Nghị viện và nhà Vua. Do vậy: "Trong lúc mà
Nội các tượng trưng cho sự quyền uy thi ̀ hoàng triều tượng trưng cho sự chính
đáng" [1, tr. 279]. Nữ hoàng hoàn toàn vô trách nhiệm với các quyết định của
mình. Theo quan niệm của người dân Anh, Nữ hoàng là biểu tượng của sự
đúng đắn, chuẩn mực và xác thực. Do vậy, Nữ hoàng không bao giờ sai. Hiện
nay hoạt động của Nữ hoàng chỉ nhằm mục đích chính thức hóa về mặt nhà
nước các hoạt động đã rồi của cả Nghị viện và Chính phủ. Đối với những đề
nghị giải tán Nghị viện hay Nội các, Nữ hoàng có thể chấp nhận hoặc không
chấp nhận, nhưng điều này ít khi được Nữ hoàng thực hiện. Thực tế nếu Nữ
hoàng có nhiều thực quyền như vậy rất có thể nước Anh sẽ rơi vào tình trạng
bất ổn. Mọi hoạt động của nhà Vua đều có sự bảo đảm từ phía cơ quan hành
pháp, vì mọi quyền hành của Vua đều trao cho Nội các. Ngoài những đặc ân
như không ai được bắt bớ và truy tố Nữ hoàng trước Tòa án, công quỹ dành
những khoản thù lao lớn cho hoàng gia, Nữ hoàng được nhân dân kính mến.
Nữ hoàng Anh cũng phải chịu một số hạn chế như: Không thể theo đạo Thiên
chúa nếu không bỏ ngôi và cũng không thể kết hôn với người theo đạo Thiên
chúa.

Trên thực tế, quyền hành pháp ở nước Anh nằm trong tay Thủ tướng
Anh và Nội các. Thủ tướng là người đứng đầu đảng giành được đa số ghế
trong Hạ Nghị viện Anh sau mỗi cuộc bầu cử. Thủ tướng là người đứng đầu
Chính phủ và lãnh đạo Nội các, là người có quyền lực rất lớn, mặc dù quyền
đó không được quy định trong Hiến pháp thành văn. Thủ tướng có toàn quyền
bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm mọi thành viên của Chính phủ, xác định

14


nhiệm vụ, trình tự hoạt động, ban hành các văn bản pháp luật của Chính phủ,
thực hiện nhiều chức năng khác của nhà nước, kể cả việc giải tán Nghị viện là
một trong những quyền hạn của Nữ hoàng. Thủ tướng có quyền hạn hết sức
rộng rãi trong lĩnh vực hành pháp.
Thủ tướng có quyền bổ nhiệm các quan chức cấp cao thuộc thành
phần Nội các và các quan chức thuộc Chính phủ. Thủ tướng Anh có quyền đề
cử lên Nữ hoàng danh sách các Bộ trưởng, Thứ trưởng và các chức vụ quan
trọng khác trong Chính phủ. Nữ hoàng sẽ phải bổ nhiệm theo sự đề cử đó mà
không có quyền lựa chọn. Nếu Thủ tướng không đề đạt thì Nữ hoàng cũng
không thể cách chức, miễn nhiệm hay bãi nhiệm đối với các quan chức trong
Chính phủ. Thủ tướng có toàn quyền lựa chọn bộ máy làm việc cho mình. Tuy
nhiên, để đảm bảo cho nền hành chính của quốc gia phát triển thì phải có một
Nội các mạnh mẽ và đoàn kết. Vì vậy, khi lựa chọn các thành viên Nội các
Thủ tướng phải cân đối được sự lựa chọn của mình để có thể hình thành được
bộ máy giúp việc có đầy đủ kinh nghiệm, thành tích về hoạt động Nội các, có
năng lực thuyết phục, bảo vệ các chính sách của Đảng mình trước Quốc hội.
Theo pháp luật thì Thủ tướng nắm được quyền nhờ sự bổ nhiệm của nhà Vua.
Nội các là Chính phủ của hoàng gia. Thủ tướng có quyền yêu cầu giải tán Hạ
viện và tuyên cử một Hạ viện mới, có quyền đệ đơn từ chức vào bất cứ thời
điểm nào và khi Thủ tướng từ chức thì cả Nội các phải từ chức theo. Thủ

tướng chủ trì các hội nghị Nội các, quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước và toàn quyền chỉ huy quân sự. Thủ tướng có quyền cách chức các
thành viên Nội các không tán thành và chống lại đường lối của mình, hoặc
tiếp nhận việc từ chức của họ. Thủ tướng Anh thực sự là trung tâm quyền lực
của nhà nước và được gọi là " quốc vương được bầu cử" [6, tr. 225]. Nhưng
nếu như không có sự giúp đỡ của các thành viên trong Nội các cũng như các
vị Bộ trưởng thì Thủ tướng khó có thể thực hiện được hết nhiệm vụ của mình.
Thủ tướng với sự trợ giúp của Nội các cũng như các thành viên trong Chính
phủ có toàn quyền trong việc đề ra các biện pháp cũng như ban

15


hành các văn bản pháp quy nhằm thực thi các đạo luật cũng như các chính
sách về kinh tế, chính trị, xã hội. Thủ tướng lãnh đạo Chính phủ để thực hiện
các công việc đó. Nội các Anh có thẩm quyền rất lớn trong việc quyết định
tình trạng khẩn cấp cũng như tuyên chiến hoặc quyết định sử dụng quân đội
vào các sứ mệnh quốc tế. Đồng thời là cơ quan tổ chức điều hành và quản lý
đất nước. Bên cạnh quyền hạn trong lĩnh vực đối nội thì Thủ tướng và Nội các
còn có quyền hạn rất lớn trong lĩnh vực đối ngoại. Thủ tướng có quyền tham
gia ký kết các hiệp ước mà không nhất thiết phải có sự đồng ý của Nghị viện.
Thủ tướng còn có thể được đề cử tới Nữ hoàng danh sách các nhà hoạt động
ngoại giao để Nữ hoàng bổ nhiệm họ, cũng như có quyền yêu cầu Nữ hoàng
cách chức những người này. Thủ tướng và Chính phủ của mình có vai trò
quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề chiến tranh hay hòa bình. Chính
Thủ tướng và Nội các đưa ra quyết định mà không cần đến sự đồng ý của
Quốc hội.
Qua phân tích ta thấy quyền hành pháp ở Anh có vị trí vai trò rất quan
trọng trong đời sống chính trị, xã hội và trong sự phát triển của đất nước.
Quyền hành pháp đã lấn át quyền lập pháp, nhất là sau khi Nội các phát triển,

đồng thời với sự tham gia tích cực của các đảng phái chính trị vào trong việc
tổ chức quyền lực nhà nước thì quyền hành pháp dần chiếm được vị trí ưu thế
trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Quyền hành pháp với những ưu thế
của mình đã chiếm lĩnh hầu hết tất các các lĩnh vực của cuộc sống cả kinh tế,
chính trị, đối nội, đối ngoại.
b. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Mỹ
Nguyên tắc phân quyền được áp dụng trong hầu hết các nước tư sản.
Tuy nhiên ở các nước có hình thức chính thể khác nhau thì việc áp dụng
nguyên tắc này là không giống nhau. Trong chính thể cộng hòa Tổng Thống,
tư tưởng phân quyền được áp dụng ở mức độ cứng rắn với đặc trưng là cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau trong hoạt động không

16


có sự chung nhân viên giữa chúng, đồng thời có thể ngăn cản, kiềm chế lẫn
nhau theo nguyên tắc "quyền lực ngăn cản quyền lực", quyền lực nhà nước
được phân chia một cách triệt để. Nếu như ở chính thể đại nghị kể cả cộng
hòa và quân chủ thì thiết chế chính phủ bao gồm Thủ tướng - nhân vật có tầm
quan trọng số một và các thành viên hợp thành có một vị trí quan trọng tạo
nên chế định có ý nghĩa sống còn của chế độ này là Chính phủ được thành lập
từ Nghị viện, gây nên sự lật đổ và giải tán lẫn nhau. Thì ở mô hình tổ chức
nhà nước này lại không có Thủ tướng và các Bộ trưởng, không hình thành
một chế định chính phủ nội các. Đại diện điển hình cho các nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc phân quyền cứng rắn này là Nhà nước Mỹ.
Nước Mỹ được hình thành bằng Hiến pháp năm 1787, bản Hiến pháp
thành văn đầu tiên của thế giới do nhu cầu của cuộc phòng thủ chung của 13
tiểu bang vừa giành được độc lập muốn cùng đứng ra bảo vệ sự độc lập đã có
của mình. Lịch sử lúc đó đòi hỏi các tiểu bang phải có một Chính phủ trung
ương đủ mạnh để thực thi chính sách một cách thống nhất. Quyền tự do cá

nhân được người định cư đề cao và họ tỏ ra rất thận trọng đối với mọi quyền
lực - đặc biệt là quyền lực của chính quyền. Họ không mong muốn một chính
quyền trung ương đầy quyền lực đến mức có thể là mối đe dọa quyền tự do
của họ. Các nhà lập hiến Hoa Kỳ rất cần đến một nhà nước đủ mạnh để bảo vệ
độc lập, phát triển kinh tế, duy trì an ninh cho quốc gia, nhưng sự tập trung
quyền lực có thể trở thành sự chuyên chế của nhà nước là điều làm họ rất e
ngại.
Theo Hiến pháp năm 1787, Mỹ là một nhà nước liên bang có chính thể
cộng hòa Tổng Thống với sự phân quyền khá rõ rệt giữa lập pháp, hành pháp,
tư pháp và sự độc lập tương đối cao của các cơ quan này. Đồng thời còn có sự
phân chia quyền lực giữa chính quyền Liên bang với các Tiểu bang. Vì áp
dụng nguyên tắc phân quyền tuyệt đối, lập pháp và hành pháp không chỉ có sự
khác nhau về chức năng, về nhân viên mà khác nhau cả về nguyên tắc hoạt

17


động. Quốc hội - lập pháp không có quyền giám sát hoạt động của hành pháp
- Tổng thống. Nhưng chế độ này lại có nhiều nét tương tự như chế độ quân
chủ nhị hợp hay Nội các song đầu chế ở Anh thế kỷ XVIII. Điểm khác biệt
nhất giữa chế độ quân chủ hạn chế Anh với chế độ Tổng thống ở Mỹ là Vua
được thay thế bằng Tổng thống. Kể từ khi thành lập đến nay, nước Mỹ - Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ đã chứng tỏ mình là một cường quốc về kinh tế, quân sự,
chính trị…, chiếm một vị trí quan trọng trên trường quốc tế.
Nước Mỹ trước thế kỷ XVII đã từng là thuộc địa của đế quốc Anh và
Pháp. Các nước đế quốc coi đây là một vùng đất thuộc địa với lãnh thổ rộng
lớn có rất nhiều tiềm năng, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, dân cư chủ yếu là
dân nhập cư. Vào thế kỷ XVII, người Anh đã chính thức chiếm được vùng đất
này từ tay người Pháp và thực hiện công cuộc cai trị nơi đây. Đến năm 1775,
dân chúng các thuộc địa đã nổi dậy để bảo vệ quyền tự do mà họ mới giành

được cách đây không lâu. Khi bản tuyên ngôn độc lập được công bố thì dân
chúng cả 13 bang thuộc địa đã đoàn kết một lòng xây dựng Quốc hội Đại Lục
là Chính phủ chung của cả 13 bang. Bản Tuyên ngôn đầu tiên của nước Mỹ ra
đời đã chấm dứt quyền cai trị của nước Anh tại vùng đất này, mở ra một kỷ
nguyên mới cho sự phát triển vững mạnh của đất nước sau này. Tuy nhiên sự
đoàn kết này không kéo dài được bao lâu, bởi sự khác biệt về phong tục tập
quán của mỗi nước. Vì vậy đại diện của các nước đã triệu tập nhau lại, thảo
luận và xây dựng lên một bản Hiến pháp mới cho một quốc gia thống nhất với
một tổ chức quyền hành pháp trung ương vững mạnh, tổ chức hành pháp đó
sẽ đảm nhiệm những trách nhiệm quan trọng nhất của đất nước. Mô hình mà
người Mỹ áp dụng không phải cái gì quá mới lạ mà cũng là sự học hỏi từ
những mô hình khác đã có. Có thể nói rằng mô hình tổ chức quyền lực nhà
nước cộng hòa Mỹ là sự rút kinh nghiệm cách thức tổ chức của nhà nước Anh.
Ở mô hình nhà nước Anh sự hạn chế quyền lực nhà nước không làm cho nhà
nước trở thành vô hạn định, điều đó được thể hiện ở chỗ Chính phủ phải chịu
trách nhiệm trước Nghị viện, sự chịu trách nhiệm của Chính phủ - hành

18


pháp trước cử tri mang tính gián tiếp. Khi luận bàn về ngành hành pháp Mỹ,
Hamilton khẳng định rằng nó cần phải có uy quyền cương quyết nhưng vẫn
phải bảo vệ được tinh thần cộng hòa của chính thể. Các yếu tố làm cho hành
pháp có uy quyền cương quyết là sự đơn nhất, sự lâu dài, những dự liệu thích
hợp để bảo vệ uy quyền và quyền lực thích hợp. Còn những yếu tố bảo vệ tinh
thần cộng hòa của chính thể là sự phụ thuộc của chính quyền đối với nhân dân
và tinh thần trách nhiệm. Ở Mỹ Chính phủ không chịu trách nhiệm trước Nghị
viện mà chịu trách nhiệm trước cử tri, và đó là chịu trách nhiệm trực tiếp.
Nước Mỹ không trải qua chế độ phong kiến và với bản chất của người Mỹ
không cho phép họ áp dụng nguyên mẫu mô hình nhà nước Anh thời bấy giờ

mà đòi hỏi phải có sự sáng tạo trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Và họ
đã giải quyết bằng cách chế tạo ra chức vụ Tổng thống, một chức vụ mà từ
chưa nước nào có. Hamilton cho rằng, uy quyền cương quyết, tính chất quyết
đoán, năng động, bí mật, mau chóng cần thiết cho hành pháp chỉ có thể có
được ở mức độ cao nhất khi quyền lực của nó tập trung ở một người chứ
không phải phân tán cho nhiều người. Vì nếu trao cho nhiều người thì thường
dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, chia bè kéo cánh và có thể dẫn đến nội chiến.
Theo quy định của Hiến pháp Mỹ, quyền hành pháp được giao cho một người
đó là nguyên thủ quốc gia - Tổng thống Mỹ. Hành pháp không phải chịu trách
nhiệm trước lập pháp, Tổng thống về nguyên tắc phải chịu trách nhiệm trước
cử tri. Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp Liên bang quy định: "Quyền hành pháp
thuộc về Tổng thống Hợp chủng quốc". Các nhánh quyền lực không thể loại
trừ, giải tán lẫn nhau. Khác với Tổng thống ở chính thể cộng hòa Nghị viện,
Tổng thống ở chính thể cộng hòa Tổng thống có thể được nhân dân trực tiếp
hoặc gián tiếp bầu ra. Vì vậy, Tổng thống ở chính thể này về nguyên tắc có
nhiều quyền lực hơn. Tổng thống Mỹ do nhân dân bầu ra, là cơ sở cho việc
tập trung quyền lực vào trong tay Tổng thống. Trên thực tế, quyền hành pháp
vẫn phải được giao cho nhiều người khác nhau, nhưng hiến pháp của mô hình
này về nguyên tắc nhấn mạnh chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của Tổng

19


thống. Không có Thủ tướng mọi thành viên của Chính phủ đều do Tổng thống bổ
nhiệm, và chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Tổng thống có toàn quyền trong
việc quyết định nhân sự Chính phủ. Ông tự mình lựa chọn, bổ nhiệm, bãi nhiệm
họ bất cứ lúc nào. Các Bộ trưởng không hợp thành một cơ quan bàn bạc chịu
trách nhiệm tập thể trước Nghị viện, mà chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Các
Bộ trưởng chỉ là người giúp việc cho Tổng thống, thực hiện những đường lối,
chính sách của Tổng thống, không được mâu thuẫn với chính sách, đường lối của

Tổng thống. Tổng thống có quyền lực thi hành được những chính sách quốc gia
và được phép thực hiện rất nhiều quyền hạn trong những lĩnh vực quan trọng của
đất nước, thậm chí đến mức người ta có thể hình dung Tổng thống như một ông
Vua trong nhà nước Cộng hòa. Nhưng để tránh tình trạng độc đoán, các nhà lập
hiến Mỹ đã gắn Tổng thống với trách nhiệm trước quốc dân, định ra nhiệm kỳ
bốn năm cho mỗi Tổng thống. Nhiệm kỳ bốn năm do Hiến pháp quy định cho
Tổng thống là hợp lý vì thời gian đó vừa giúp Tổng thống cương quyết hơn khi
sử dụng quyền lực của mình, đồng thời bảo đảm sự ổn định cần thiết của hệ
thống hành chính và độc lập của hành pháp đối với lập pháp, cũng như giúp cho
dân chúng không phải lo ngại là ông ta sẽ lợi dụng nhiệm kỳ của mình để đàn áp
hoặc xâm hại tới tự do của nhân dân. Các quy định liên quan tới quyền hành
pháp được quy định rải rác ở các điều khoản trong bản Hiến pháp nhưng tập
trung chủ yếu ở các điều: điều 2 khoản 2 điểm 1, điều 2 khoản 2 điểm 2, điều 1
khoản 7 điểm 2-3, điều 2 khoản 3…Trong bộ máy nhà nước có sự phân chia,
tách biệt, độc lập và chuyên môn hóa của các cơ quan công quyền đảm nhiệm
các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp còn trù liệu một cơ chế
trong đó mỗi nhánh quyền lực đều có khả năng kiềm chế để ngăn cản sự xâm
lấn, Hiến pháp Mỹ quy định khá cụ thể về quyền lập pháp, thuộc hai viện. Quyền
lập pháp có tới 10 khoản với những quy định khá cụ thể về quyền hạn của hai
viện, thì quyền hạn của Tổng thống được quy định một cách hết sức tổng quát,
và không rõ ràng. Chính sự mập mờ, không rõ ràng đó trên thực tế đã tạo điều
kiện cho Tổng thống tạo ra

20


×