Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Thủ tục đăng ký và thẩm tra dự án đầu tư theo pháp luật đầu tư ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.41 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HỒNG

THỦ TỤC ĐĂNG KÝ VÀ THẨM TRA DỰ ÁN ĐẦU TƯ
THEO PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HỒNG

THỦ TỤC ĐĂNG KÝ VÀ THẨM TRA DỰ ÁN ĐẦU TƯ
THEO PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang

Hà Nội - 2010



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG HỒNG


Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các bản
MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: LÝ L

KÝ V
1.1.

Đầu tƣ và pháp lu

1.1.1.


Những nhận thức c

1.1.1.1.

Khái niệm về đầu t

1.1.1.2.

Phân loại đầu tư

1.1.1.3.

Các hình thức đầu

1.1.2.

Pháp luật về đầu tư

1.1.2.1

Khái niệm pháp luậ

1.1.2.2

Sơ lược về lịch sử

1.1.2.3.

Những nội dung cơ


1.2.

Khái niệm về đăn

1.2.1.

Đăng ký đầu tư

1.2.1.1.

Khái niệm về đăng

1.2.1.2.

Vai trò ý nghĩa của

1.2.1.3.

Phân loại đăng ký đ

1.2.2.

Thẩm tra đầu tư

1.2.2.1.

Khái niệm thẩm tra

1.2.2.2.


Vai trò ý nghĩa của

1.3.

Qui định về thủ tụ


1.3.1.

Qui định về hoạt độn

1.3.2.

Qui định về hoạt độn

1.3.3.

Qui định về hoạt độn

Chương 2: THỰC TR
THẨM

PHÁP L
2.1.

Đăng ký đầu tƣ

2.1.1.


Chủ thể của Luật đầu

2.1.2.

Trình tự thủ tục dự án
đầu tư nước ngoài

2.1.2.1.

Qui định về điều kiện

dự án có vốn đầu tư n
2.1.2.2.

Qui định về hồ sơ dự

2.1.2.3.

Qui định về trình tự t
ký dự án đầu tư

2.1.3.

Một số qui định riêng
nước ngoài

2.2.

Thủ tục đầu tƣ đối


đối với dự án đầu tƣ
nƣớc ngoài
2.2.1.

Qui định về điều kiện

nước và dự án có vốn
2.2.2.

Qui định về hồ sơ thẩ

2.2.3.

Qui định về trình tự t

2.2.4.

Qui định tiêu chí thẩm

2.2.5.

Qui định về thời hạn

2.3.

Cơ quan cấp giấy ch


2.3.1.


Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

2.3.2.

Ban quản lý khu công nghi

2.3.3.

Các cơ quan khác tham gia
nhận đầu tư

2.4.

Thực trạng thủ tục đăng

nghiệp Việt nam đầu tƣ r
2.5.

Thực trạng việc đăng ký v

địa bàn hà nội và thành p

Chương 3: GIẢI PHÁP TH

KÝ VÀ THẨ
HIỆN NAY
3.1.

Kinh nghiệm hoàn thiện p
Nam


3.1.1.

Thống nhất điều chỉnh các
nước ngoài

3.1.2.

Xây dựng hệ thống các qui
thiện

3.2.

Giải pháp thực hiện việc đ

đầu tƣ theo luật đầu tƣ V
3.2.1.

Qui định về điều kiện đăng

trong nước và dự án có vốn
3.2.2.

Qui định về đầu tư ra nước

3.2.3.

Các giải pháp khác
KẾT LUẬN


DANH MỤC TÀI LIỆU TH


Số bảng
2.1
2.2
2.3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại hiện nay, toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng sâu sắc
mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế
trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của
các quốc gia trên thế giới. Nền kinh tế phát triển ngày càng mạnh, xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế giữa các nước ngày càng mở rộng.
Việt Nam đang thiết lập các quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với nhiều tổ
chức kinh tế quốc tế và hầu hết các quốc gia trên thế giới, là thành viên mới
nhất (thứ 150) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Những qui định của
pháp luật Việt Nam về đầu tư đã phát huy vai trò quan trọng thu hút đầu tư
trong nước và ngoài nước, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật về đầu tư còn chưa nhất quán, thiếu ổn định
và có sự phân biệt giữa các nhà đầu tư, đã làm hạn chế sự thông thoáng của
môi trường đầu tư, cản trở dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Hơn nữa, cuộc
cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới vào khu vực đang diễn
ra ngày càng gay gắt, nhất là khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới. Trong bối cảnh đó, các nước trong khu vực đang cải cách mạnh mẽ
môi trường đầu tư theo hướng tự do hoá chính sách đầu tư, thương mại với
các đối tác kinh tế lớn, nhằm tranh thủ nguồn vốn đầư tư, công nghệ kỹ thuật.
Do vậy, việc ban hành một khung pháp lý chung và thống nhất, minh

bạch, ổn định về vấn đề đăng ký và thẩm tra cho các nhà đầu tư là đáp ứng
đòi hỏi khách quan trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và yêu cầu
hội nhập, nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư của mọi thành phần
kinh tế.

1


Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội khoá 11 tại kỳ họp thứ 8 đã thông qua
Luật đầu tư, đây là thông điệp quan trọng của Việt Nam trong việc cam kết
phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường, xoá bỏ những biệt lệ giữa nhà
đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước, tạo sân chơi bình đẳng cho các
loại hình doanh nghiệp, hạn chế tư duy phân biệt đối sử giữa các thành phần
kinh tế, đồng thời cũng qui định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nhà
đầu tư Việt Nam (Nghị định số 78 ban hành ngày 09 tháng 08 năm 2006 của
Chính Phủ, qui định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài) đã mở ra những cơ hội
mới cho các nhà đầu tư Việt Nam, cải thiện phần nào môi trường đầu tư, phù
hợp với những cam kết của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Để đáp ứng nhu cầu về việc tìm hiểu những qui định về Thủ tục đầu tư
trong Luật đầu tư 2005, góp phần đưa những qui định của Luật đầu tư vào
cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nắm bắt được qui trình
đầu tư cụ thể và rõ ràng hơn. Vì vậy, trong phạm vi đề tài này, em sẽ tập trung
phân tích và làm rõ vấn đề: “ Thủ tục Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư
theo pháp luật đầu tư ở Việt Nam”.
Qua đó, hy vọng giúp chúng ta có được cách nhìn nhận và đánh giá
khách quan về việc Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư ở Việt Nam, cũng như
có giải pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả thực hiện pháp luật về Đăng ký và
Thẩm tra dự án đầu tư trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế.
2. Mục đích của đề tài
1- Làm rõ những qui định của Luật đầu tư Việt Nam liên quan đến vấn

đề Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư.
2 - Đánh giá thực trạng của việc Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư.
3 - Đưa ra một số kiến nghị, nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện
Luật đầu tư liên quan đến thủ tục Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư.

2


3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu:
Các qui định của Luật đầu tư 2005 của Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Những qui định liên quan đến thủ tục Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu
tư trong nước và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài do phải chịu sự điều chỉnh của nước
tiếp nhận đầu tư, nên trong Luận văn này Tôi chỉ giới thiệu khái quát chứ
không đi sâu vào nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích, so sánh, tổng hợp, cũng
được sử dụng ở mức độ phù hợp đề hoàn thành luận văn này.
5.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết cấu và danh mục tham khảo, luận văn được
chia thành 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về thủ tục Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư
Chương 2 . Thực trạng của việc Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Chương 3 . Giải pháp thực hiện việc Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư.
6. Kết quả đạt được của Luận văn



bình diện lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn

thiện lý luận về pháp luật đầu tư nói chung và thủ tục đăng ký và thẩm tra dự

3


án đầu tư đối với các dự án đầu tư trong nước và dự án có vốn đầu tư nước
ngoài nói riêng.
Về thực tiễn, luận văn sẽ là tài liệu có giá trị, có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo, nghiên cứu, đối với các chủ đầu tư và đối với các cơ quan
quản lý Nhà nước về đầu tư đồng thời làm tài liệu tham khảo đối với các cơ
sở đào tạo liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Những đề xuất của luận văn sẽ cung
cấp luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật về thủ tục đăng ký và thẩm tra các dự án đầu tư nói riêng và Luật
đầu tư 2005 nói chung.
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo của trường Đại học Quốc gia Hà Nội, đã giảng dậy và cung cấp nhiều
thông tin bổ ích cho chúng em, đặc biệt là tiến sỹ Vũ Quang, người đã hướng
dẫn em hoàn thành luận văn này.

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ
VÀ THẨM TRA DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới, nhiều quốc gia đã

đạt được những thành tựu to lớn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế
của mình. Những quốc gia này đã có sự đầu tư rất lớn vào sản xuất và khai
thác các dạng tài nguyên thiên nhiên. Khi trình độ phát triển kinh tế đạt đến
mức cao, nhu cầu về vốn ở trạng thái bão hoà, dư thừa, cơ hội đầu tư ít, chi
phí cao, khi đó các quốc gia có nhu cầu đầu tư vào các quốc gia trên thế giới,
nhằm tận dụng những lợi thế về lao động và tài nguyên thiên nhiên, thị trường
của những nước đó. Mặt khác, các quốc gia có những lợi thế đó, lại là những
nước đang phát triển, có nhu cầu về vốn. Do đó vấn đề đầu tư không chỉ diễn
ra ở mỗi quốc gia mà còn có sự hợp tác đầu tư giữa các quốc gia với nhau.
Vậy thế nào là đầu tư và Luật đầu tư là gì? Chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu.
1.1. Đầu tư và pháp luật về đầu tư
1.1.1. Những nhận thức cơ bản về đầu tư
1.1.1.1. Khái niệm về đầu tư
Cho đến nay, đầu tư không phải là một khái niệm mới đối với nhiều người,
nhất là đối với những người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, thuật ngữ này được hiểu rất khác nhau. Có người cho rằng: đầu tư là
phải bỏ một cái gì đó vào một việc nhất định để thu lại một lợi ích trong
tương lai. Nhưng cũng có người quan niệm đầu tư: là các hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Theo cách hiểu phổ thông, thì khái niệm đầu tư được hiểu là việc: “ bỏ nhân
lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế xã
hội”[36]

5


Trong khoa học kinh tế, đầu tư được quan niệm là hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong
tương lai lớn hơn những nguồn lực đã sử dụng để đạt được những kết quả đó.
[37]

Đầu tư là nhân tố không thể thiếu để xây dựng và phát triển kinh tế là
chìa khoá của sự phát triển kinh tế xã hội. Các nguồn lực được sử dụng để đầu
tư có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. Những kết quả
sẽ đạt được đó, có thể là sự tăng thêm các tài sản chính (tiền vốn) tài sản vật
chất (nhà máy, đường xá, bệnh viện, trường học..) là tài sản trí tuệ (trình độ
văn hoá, chuyên môn quản lý khoa học - kỹ thuật..) và nguồn nhân lực có đủ
điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư có thể do những chủ thể khác nhau
tiến hành và ngày càng phong phú và đa dạng cả về tính chất lẫn mục đích.
Tuy vây, mọi hoạt động đầu tư suy cho cùng đều nhằm mang lại lợi ích xác
định, đó chính là sự tăng thêm các nguồn lực tiền vốn tài sản…
Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình
thức và cách thức do pháp luật qui định để thực hiện hoạt động, nhằm mục
đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có
tính chất kinh doanh (thương mại) hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp
lý cũng như thực tiễn xây dựng chính sách pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu
tư chủ yếu được đề cập đến là hoạt động đầu tư với bản chất là “ sự chi phí
của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi
nhuận”


Việt Nam, trước khi ban hành Luật đầu tư 2005, khái niệm đầu tư kinh

doanh chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Luật
khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ngày 20 tháng 05 năm 1998 và Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1996 và 2000 không có định

6



nghĩa về đầu tư nói chung mà thay vào đó là khái niệm đầu tư trong nước và
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật đầu tư 2005 với phạm vi điều chỉnh là hoạt
động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh đã đưa ra định nghĩa: “Đầu tư là việc
nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành
tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư.” Khoản 1 điều 3 Luật đầu tư 2005.
Luật này còn có sự phân biệt về thuật ngữ giữa đầu tư và hoạt động đầu tư,
theo đó hoạt động đầu tư được hiểu: “ là hoạt động của nhà đầu tư trong quá
trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu
tư” Khoản 7 điều 3 Luật đầu tư 2005.
1.1.1.2. Phân loại đầu tư
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân chia đầu tư thành
các loại khác nhau, việc phân loại hoạt động đầu tư là cần thiết, nhằm lựa
chọn các giải pháp kinh tế và pháp lý thích hợp, thúc đẩy và tăng cường hiệu
quả đầu tư cũng như hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư.
Từ phương diện pháp lý có thể phân loại hoạt động đầu tư dựa trên những
yếu tố sau:
-

Căn cứ vào mục đích đầu tư có thể chia đầu tư thành: đầu tư phi lợi

nhuận và đầu tư kinh doanh.
+

Đầu tư phi lợi nhuận: là việc sử dụng các nguồn lực để thực hiện các

hoạt động không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận.
Ví dụ: Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho nhân
dân.
+


Đầu tư kinh doanh: là hoạt động đầu tư sử dụng các nguồn lực để

kinh doanh thu lợi nhuận..
-

Căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư với vốn đầu tư có thể

chia đầu tư thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

7


+

Đầu tư trực tiếp: là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư

trực tiếp tham gia quản lý các hoạt động đầu tư mà không có sự tách bạch
giữa người bỏ vốn và người quản lý. Theo Luật đầu tư 2005, đầu tư trực tiếp
là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động
đầu tư. Đầu tư trực tiếp gồm có: đầu tư trực tiếp trong nước (là việc các cá
nhân tổ chức trong nước bỏ vốn ra để kinh doanh theo hình thức pháp luật qui
định) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (là hoạt động đầu tư do các tổ chức và cá
nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng với tổ chức, cá nhân của nước sở tại bỏ
vốn vào một đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi
trong kinh doanh).
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được tiến hành thông
qua các dự án - gọi là dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, đầu tư trực
tiếp nước ngoài là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài thông qua
việc di chuyển nguồn lực đầu tư trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh
doanh thu lợi nhuận.

+

Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư không trực

tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Như vậy, đầu tư gián tiếp không cần
có sự tham gia quản lý doanh nghiệp, các khoản thu nhập chủ yếu thông qua
các hình thức mua chứng khoán, cho vay, cho thuê…
-

Căn cứ vào nguồn vốn đầu tư, gồm có đầu tư trong nước và đầu tư

ngoài nước.
+ Đầu tư trong nước: là việc bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh tại
Việt
Nam của các tổ chức công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam. Theo Luật đầu tư 2005,
đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài
sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

8


+

Đầu tư nước ngoài (hay còn gọi là đầu tư quốc tế) là sự di chuyển tài

sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý…từ nước này sang nước khác nhằm
mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm vi toàn cầu. Thực tiễn điều chỉnh pháp
luật đối với hoạt động đầu tư nước ngoài còn có sự phân biệt giữa đầu tư từ
nước ngoài vào và đầu tư ra nước ngoài.

Theo Luật đầu tư 2005, đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động
đầu tư, còn đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu
tư, khoản 12,14 Điều 3 Luật đầu tư 2005.
1.1.1.3. Các hình thức đầu tư
Hình thức đầu tư chính là các cách thức mà chủ đầu tư sử dụng để tiến
hành đầu tư theo qui định của pháp luật. Luật đầu tư 2005 chia hình thức đầu
tư thành hai loại là hình thức đầu tư trực tiếp và hình thức đầu tư gián tiếp.
Các hình thức đầu tư trực tiếp:
+

Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư như: thành lập

doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH một thành viên, hộ kinh doanh cá thể.
+

Thành lập góp vốn vào tổ chức kinh tế có sự liên kết giữa nhiều nhà

đầu tư như: thành lập Công ty TNHH hai thành viên trở lên, Công ty cổ phần,
tổ hợp tác, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã.
+

Đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp doanh): là hình

thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa các nhà đầu tư
nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận mà không thành lập pháp nhân.
Các bên hợp doanh thực hiện hoạt động kinh doanh với tư cách pháp lý của
mình thay vì thành lập ra một pháp nhân kinh tế mới.
Ví dụ: Hợp đồng hợp doanh của Tổng công ty than Việt Nam.


9


Hợp đồng hợp tác kinh doanh (2/1999) giữa Tổng công ty than Việt Nam
(VINACOAL) và công ty CAVICO Ltd của Mỹ và Canada khai thác than tại
mỏ than núi Béo (Quảng Ninh). Trị giá hợp đồng khoảng 356 tỷ VND, trong
đó bên Việt Nam đã đầu tư 65 tỷ, phần còn lại là đầu tư mới.
Trách nhiệm:

Bên nước ngoài đảm nhận khoan, nổ mìn, bốc xúc đá.

Bên Việt Nam đảm nhận xúc và sàng tuyển than.
Tỷ lệ ăn chia:

Bên nước ngoài 66,7% tổng lợi nhuận.
Bên Việt Nam 33,3% tổng lợi nhuận.[20]

Trích nguồn: Vụ quản lý dự án Bộ kế hoạch đầu tư 1999.
+

Đầu tư thông qua hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao

(BOT): là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với
nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng, kinh
doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư
chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
Ví dụ: Việt Nam, dự án BOT đầu tiên được cấp giấy phép tháng 3/1995
là hợp đồng triển khai xây dựng nhà máy nước Bình An được ký giữa Uỷ ban
nhân dân TpHồ Chí Minh với tập đoàn Emas Utilities Sadec Malayxia với

công suất 100.000m khối /ngày, sau 25 năm hoạt động, khai thác và bán nước
cho Tp Hồ Chí Minh với giá 0.2 USD/1m khối, toàn bộ nhà máy sẽ được
chuyển giao cho Việt Nam với giá tượng trưng là 1USD.
+ Đầu tư theo hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO):
là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà
đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu
tư sẽ chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính Phủ Việt Nam
sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn
nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.

10


+ Đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT): là hình
thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư sẽ
chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính Phủ Việt Nam sẽ
tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
+

Đầu tư thông qua hình thức phát triển kinh doanh: là việc nhà đầu tư

bỏ vốn để mở rộng qui mô hoặc nâng cao năng lực hoạt động của cơ sở kinh
doanh. Đầu tư phát triển kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc phát huy
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư hiện có, đồng thời bổ sung vốn đầu tư mới, tạo
nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững của cơ sở kinh doanh,
thông qua việc mở rộng qui mô lĩnh vực hoạt động, nâng cao năng suất, năng
lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, giảm ô nhiễm môi trường, đồng thời cũng
góp phần tạo việc làm và nâng cao đời sống của người dân.

+ Đầu tư thông qua việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, chi nhánh
doanh nghiệp: Sáp nhập doanh nghiệp là hình thức đầu tư được thực hiện
thông qua việc chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp bị sáp nhập sang doanh nghiệp nhận sáp nhập, đồng thời chấm
dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập; còn mua lại doanh nghiệp, chi
nhánh doanh nghiệp là việc nhà đầu tư nhận chuyển giao quyền sở hữu doanh
nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp có thanh toán.
Các hình thức đầu tư gián tiếp:
+ Đầu tư thông qua mua chứng khoán (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và
các giấy tờ có giá khác)
+

Đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán.

+

Đầu tư thông qua ngân hàng doanh nghiệp bảo hiểm…

11


Trong các hình thức đầu tư này nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý,
điều hành quá trình thực hiện hoạt động đầu tư và sử dụng các nguồn lực đầu
tư. Nhà đầu tư, đầu tư theo hình thức gián tiếp này về cơ bản chỉ được hưởng
các lợi ích kinh tế từ hoạt động đầu tư.
1.1.2. Pháp luật về đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về đầu tư
Khi tiến hành các hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải hoạt động trong
một không gian và thời gian địa điểm cụ thể, mà ở đó có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động đầu tư, chi phối đến hoạt động đầu tư, trong đó có pháp

luật về đầu tư. Sự tồn tại và phát triển của hoạt động đầu tư, chính là cơ cở
thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của Luật đầu tư.
Trong quá trình xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu, việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài của các quốc gia ngày càng mạnh. Để cạnh tranh thu hút
nguồn vốn đầu tư, các nước đều chú trọng đến việc cải thiện môi trường đầu
tư, trong đó có việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tuy nhiên cho
đến nay khoa học pháp lý Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về
pháp luật đầu tư.
Nhưng căn cứ vào đối tượng điều chỉnh của Luật đầu tư là các quan hệ đầu tư
kinh doanh, hơn nữa các quan hệ đầu tư kinh doanh phát sinh trong quá trình
các nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản khác nhau để tạo lập cơ sở tiến
hành các hoạt động đầu tư (bao gồm chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự
án đầu tư). Vì vậy có thể định nghĩa: “Luật đầu tư là hệ thống các qui phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện và quản lý hoạt động đầu tư
kinh doanh”.

12


1.1.2.2. Sơ lược về lịch sử phát triển của Luật đầu tư Việt Nam.
-

Giai đoạn 1945 đến 1975.

Do điều kiện lịch sử chiến tranh, đã làm cho môi trường pháp luật về
đầu tư kinh doanh phát triển chậm, pháp luật về đầu tư thể hiện tính ổn định
không cao, chưa có văn bản nào do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành, bởi
thực tiễn hoàn cảnh lúc này chúng ta mới giành được chính quyền, chủ trương
của Đảng ta là: “ kháng chiến kiến quốc” với nhiệm vụ là: “ bảo toàn lãnh thổ,

giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”.[23]
Mặc dù tình hình chính trị lúc này hết sức khó khăn, nhưng để đảm
bảo phát triển nền kinh tế, nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư
của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau.
-

Giai đoạn 1975 đến 1986.

Thời kỳ nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể. Do sự chi phối của kế hoạch nhà nước, pháp luật về đầu tư không phải là
phương tiện quan trọng nhất để điều chỉnh nền kinh tế nói chung và điều
chỉnh hoạt động đầu tư nói riêng. Về mặt pháp lý, trong thời kỳ này, hoạt
động đầu tư của kinh tế tư nhân không được thừa nhận.
-

Giai đoạn 1986 đến nay.

Thời kỳ đất nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặt quan
trọng của nền kinh tế. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, được chuyển
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghía. Với quan điểm huy động tối đa các nguồn lực
để phát triển kinh tế, hệ thống pháp luật về đầu tư Việt Nam đã thực sự được
quan tâm, các văn bản về pháp luật đầu tư được xây dựng và hoàn thiện theo

13


hướng ngày càng đảm bảo môi trường pháp lý đầu tư thông thoáng và an toàn

cho các nhà đầu tư muốn bỏ vốn kinh doanh. Đặc điểm nổi bật của hệ thống
pháp luật về đầu tư Việt Nam ở thời kỳ này là có sự phân chia thành hai lĩnh
vực: đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để điều chỉnh. Cụ thể như sau:
Đối với pháp luật về đầu tư trong nước:
Quyết định 217/ Hội Đồng Bộ Trưởng ngày 14/11/1987 là văn bản
pháp luật đầu tiên cụ thể hoá nghị quyết đại hội Đảng khoá VI, về chuyển
hoạt động của các đơn vị cơ sở kinh tế quốc doanh, sang hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam đã qui định nhiều văn bản pháp luật qui
định về vấn đề đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp Nhà nước trong điều
kiện mới như: Nghị định số 50/ HĐBT ban hành điều lệ xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh, nghị định số 27/HĐBT ban hành về Điều lệ liên hiệp xí
nghiệp…
Với cơ chế thị trường, mà giai đoạn đầu là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, một yêu cầu có tính nguyên tắc căn bản là phải đảm bảo quyền tự
do và sự bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, trong đó nhiệm vụ quan trọng đặt
ra là phải mở rộng quyền đầu tư cho các chủ thể thuộc mọi thành kinh tế, vì
vậy Nhà nước đã ban hành và từng bước xây dựng, hoàn thiện các văn bản
mới về đầu tư như: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990
được thay thế bằng Luật doanh nghiệp năm 1999 và sau này là Luật doanh
nghiệp 2005; Lụât khuyến khích đầu tư trong nước 1994 được thay tế bằng
Luật sửa đổi luật khuyến khích đầu tư 1998…
+ Đối với pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Cùng với chủ trương huy động tối đa nguồn lực trong nước, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đồng thời thực hiện chính sách tăng cường hợp tác kinh
tế. Trong việc tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại, việc mở rộng thu hút

14



đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hướng ưu tiên quan trọng. Điều lệ đầu tư
ban hành kèm theo Ngị định 115/CP ngày 18/4/1977 là văn bản pháp lý riêng
biệt đầu tiên được ban hành nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo qui định tại Điều 1 của Điều lệ này, Chính
Phủ Việt Nam “ chấp thuận đầu tư nước ngoài taị Việt Nam trên nguyên tắc
tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam và các bên cùng có lợi”.
Điều lệ đầu tư đã tạo ra một khung pháp lý ban đầu cho hoạt động đầu tư
nước ngoài, làm tiền đề cho những ý tưởng và là cơ sở cho những bước cải
cách sau này. Tuy nhiên, do Điều lệ đầu tư 1977 đã thể chế hoá chính sách
quản lý nền kinh tế bao cấp nên còn thiếu các qui định cụ thể về quản lý ngoại
hối và ngân hàng, đất đai…Do đó chưa tạo ra được cơ sở pháp lý đầy đủ, môi
trường đồng bộ, có hiệu quả cao hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài cũng như
hoạt động đầu tư nói chung. Ngày 29/12/1987 tại kỳ họp thứ hai khoá VII,
Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong thời kỳ
này, Luật đầu tư nước ngoài được coi là biện pháp quan trọng để mở rộng hợp
tác kinh tế với các nước trên thế giới, nhằm mục đích khai thác tài nguyên, lao
động và các tiềm năng khác của đất nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Luật đầu tư
năm 1987 đã có ảnh hưởng mạnh tới việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp
luật điều chỉnh nền kinh tế mới với nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, qua
một thời gian thực hiện, Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã bộc lộ một số
thiếu sót và hạn chế, cụ thể là đối với các đối tác trong nước, Luật mới chỉ áp
dụng cho các tổ chức kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, hạn chế về kinh tế tư
nhân. Để khắc phục nhược điểm trên, ngày 30/6/1990 Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm mục đích khuyến khích và tạo
thêm điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư nước ngoài. Luật không chỉ tạo
điều kiện cho người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam mà còn

15



tạo cơ hội, điều kiện cho các đối tác trong nước để mở rộng hợp tác với nước
ngoài (các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác với tổ chức cá nhân
nước ngoài trong lĩnh vự và điều kiện do HĐBT qui định). Đến năm 1992 sau
hai năm triển khai thực hiện luật, nhiều vấn đề pháp lý phát sinh, phần nào
làm cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài. Vì vậy, ngày 23/12/1992, Quốc hội
đã ban hành Lụât sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, nhằm mở rộng cho mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia hợp
tác với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư. Năm 1996, khi Việt Nam bước vào
giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,
hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài còn bộc lộ nhiều nhược điểm cần
khắc phục. Ngày 12/11/1996 Quốc hội thông qua Luật đầu tư mới nhằm
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và thực hiện chủ trương của Nhà
nước đối với việc cải cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, để thực hiện tốt các
dự án đã được cấp phép đầu tư và thu hút thêm đầu tư mới, tạo điều kiện để
Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, ngày
9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các nội dung sửa đổi bổ sung của Luật đã
đem lại cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sự ổn định và thông
thoáng hơn so với nhiều qui định trước đây. Nhưng trước yêu cầu tăng cường
hội nhập khu vực và quốc tế, mà trực tiếp nhất là việc thực hiện các thoả
thuận trong đầu tư khu vực ASEAN, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, pháp
luật về đầu tư nước ngoài đã bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục. Sự chưa
hoàn thiện và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật đầu tư nói riêng và của hệ
thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nói chung, là trở ngại
lớn nhất đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc tăng cường hợp tác
kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội thách thức cho Việt Nam. Pháp luật về đầu
tư của Việt Nam đứng trước yêu cầu phải vận động theo xu hướng hội

16



nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với pháp luật đầu tư thế giới. Trước yêu cầu đó,
Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu tư, cụ thể là
việc ban hành Luật đầu tư 2005 tạo cơ sở pháp lý bình đẳng thống nhất trong
hoạt động đầu tư.
Luật đầu tư 2005 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 điều chỉnh
cả hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư
chung 2005 gồm có 10 chương và 89 điều qui định về đảm bảo đầu tư, quyền
và nghĩa vụ của nhà đầu tư, hình thức hoạt động đầu tư và các lĩnh vực địa
bàn đầu tư, ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Trong đó, Chương VI, qui định về
Thủ tục đăng ký và thẩm tra đầu tư đối với dự án đầu tư trong nước và dự án
đầu tư nước ngoài, nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính trong quản lý
đầu tư theo hướng mở rộng phân cấp và đơn giản hoá thủ tục, tạo môi trường
đầu tư thông thoáng, thuận tiện cho nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo tính hiệu
quả và thống nhất trong quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư.
Ngoài việc ban hành Luật đầu tư chung 2005, Nhà nước còn ban hành
các văn bản pháp luật liên quan đó là: Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày
21/9/2006 qui định việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi giấy chứng
nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo qui định của
Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư; Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu
tư; Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ban hành ngày 9/8/2006 qui định về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài..[37]
1.1.2.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật đầu tư
Luật đầu tư qui định những vấn đề pháp lý cho các hoạt động chuẩn bị,
thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Với chức năng cơ bản là đảm bảo an toàn
pháp lý cho hoạt động đầu tư vốn vào kinh doanh, luật đầu tư có nội dung chủ
yếu là các qui định về những vấn đề sau:


17


-

Hình thức đầu tư;

-

Lĩnh vực và địa bàn đầu tư;

-

Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư;

-

Quy trình, thủ tục và triển khai dự án đầu tư;

-

Bảo đảm, khuyến khích và ưu đãi đầu tư;

-Quản lý nhà nước về đầu tư.
1.2. Khái niệm về Đăng ký và Thẩm tra dự án đầu tư
1.2.1 Đăng ký đầu tư
1.2.1.1. Khái niệm về đăng ký đầu tư
Theo Đại từ điển tiếng việt của Nhà xuất bản văn hoá thông tin, trang 601
thì thuật ngữ đăng ký được hiểu là việc: “Đứng gia khai báo để được cấp
giấy công nhận về quyền hạn nghĩa vụ nào đó”.[40]

Trong cuốn Từ điển Luật học của Nhà xuất bản tư pháp không có khái
niệm về Đăng ký đầu tư mà chỉ có khái niệm về Đăng ký kinh doanh, theo đó
Đăng ký kinh doanh được hiểu như sau: “ Sự ghi nhận bằng văn bản của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của chủ thể kinh
doanh. Đăng ký kinh doanh được thực hiện theo trình tự thủ tục luật định, áp
dụng thống nhất trong cả nước khi ĐKKD, các thông tin cần thiết về doanh
nghiệp được ghi vào sổ ĐKKD, doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận
ĐKKD có thể bắt đầu hoạt động. Tổ chức, cá nhân được yêu cầu cơ quan
ĐKKD hướng dẫn về thủ tục nội dung ĐKKD, cấp bản sao giấy chứng nhận
ĐKKD, giấy chứng nhận thay đổi ĐKKD…và phải trả phí theo qui định của
pháp luật. Việc ĐKKD tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về
kinh tế, xác nhận sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, cung cấp thông tin
cần thiết về doanh nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia quan
hệ với doanh nghiệp”

18


×