Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Thủ tục thi hành án dân sự theo luật thi hành án 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.36 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TẠ QUANG MINH

THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

THEO LUẬT THI HÀNH ÁN 2008

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TẠ QUANG MINH

THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO LUẬT THI HÀNH ÁN 2008
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình

HÀ NỘI - 2012



2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Quang Minh

3


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết
MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN


ÁN DÂN SỰ

1.1.

Khái niệm, đặc điểm v

1.1.1.

Khái niệm thủ tục thi h

1.1.2.

Đặc điểm của thủ tục t

1.1.3.

Vai trò của thủ tục thi

1.2.

Sơ lược sự phát triển c
về thủ tục thi hành án

1.2.1.

Giai đoạn từ năm 1945

1.2.2.

Giai đoạn từ năm 1950


1.2.3.

Giai đoạn từ năm 1989

1.2.4.

Giai đoạn từ năm 2008

Chương 2: NỘI DUNG C

ÁN DÂN SỰ
DÂN SỰ

2.1.

Thủ tục cấp, chuyển g

2.1.1.

Thủ tục cấp và chuyển

2.1.1.1.

Thủ tục cấp bản án, qu

2.1.1.2.

Thủ tục chuyển giao b


4


2.1.2.

Thủ tục giải thích bả

2.2.

Thủ tục yêu cầu và n

2.2.1.

Thủ tục yêu cầu thi h

2.2.2.

Thủ tục nhận đơn yê

2.3.

Thủ tục ra quyết định
hành án dân sự

2.3.1.

Thủ tục ra quyết định

2.3.2.


Thủ tục ra quyết định

2.4.

Thủ tục tổ chức và th

2.4.1.

Thủ tục thông báo về

2.4.2.

Thủ tục xác minh điề

2.4.3.

Thủ tục ấn định thời

2.4.4.

Thủ tục giao, nhận, x

2.4.4.1.

Giao, nhận vật chứng

2.4.4.2.

Thủ tục xử lý vật chứ


2.4.5.

Thủ tục trả lại đơn y
án dân sự

2.4.5.1.

Thủ tục trả lại đơn y

2.4.5.2.

Kết thúc thi hành án

Chương 3: THỰC TIỄN

LUẬT TH

TỤC THI

3.1.

Thực tiễn thực hiện c
sự về thủ tục thi hành

3.1.1.

Những kết quả đạt đư
của Luật thi hành án

5



3.1.2.

Những hạn chế, vướ
định của Luật thi hàn
hành án dân sự

3.1.2.1.

Về thủ tục yêu cầu th

3.1.2.2.

Về thủ tục thông báo

3.1.2.3.

Về thủ tục xác minh

3.2.

Một số kiến nghị nhằ
hành án dân sự năm

3.2.1.

Một số kiến nghị nhằ
năm 2008 về thủ tục


3.2.1.1.

Sửa đổi, bổ sung kết
quy định về thủ tục t

3.2.1.2.

Sửa đổi, bổ sung quy
dân sự

3.2.1.3.

Sửa đổi, bổ sung quy
dân sự

3.2.1.4.

Sửa đổi, bổ sung quy
dân sự

3.2.2.

Một số kiến nghị nhằ
hành án dân sự năm

3.2.2.1.

Đẩy mạnh công tác t
hành án dân sự


3.2.2.2.

Nâng cao trình độ ch
thi hành án dân sự củ
dân sự
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU T

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao


THADS

: Thi hành án dân sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

7


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công công cuộc
đổi mới mà Đảng ta đã đề ra là từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là một Nhà nước, trong đó vai trò pháp chế được
đề cao, pháp luật được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Ở đây, yêu cầu bức xúc
hàng đầu là phải tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã
hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt yêu cầu pháp chế phải được coi là một nội
dung hết sức quan trọng của nhà nước pháp quyền. Pháp chế đòi hỏi phải chấp
hành nghiêm chỉnh các phán quyết nhân danh Nhà nước của Tòa án nhân dân
(TAND). Điều 36 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Các bản án quyết định của
Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ

chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh" [24, tr. 10].
Phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước sẽ chỉ là những quyết định trên
giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế.
Hoạt động thi hành án kém hiệu quả sẽ gây dư luận xấu, ảnh hưởng trực tiếp
đến lòng tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật.
Xác định đúng vai trò và ý nghĩa của hoạt động thi hành án, trước tình
hình hoạt động thi hành án kém hiệu quả, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX đã
quyết định bàn giao công tác thi hành án dân sự (THADS) từ TAND các cấp sang
các cơ quan của Chính phủ từ tháng 6 năm 1993. Thực tiễn đã chứng minh sự
đúng đắn, kịp thời của chủ trương đó, bước đầu tạo sự chuyển biến đáng khích lệ,
làm thay đổi cục diện thi hành án sau nhiều năm trì trệ, góp phần quan trọng vào
việc thiết lập kỷ cương, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Song bên cạnh
những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động thi hành án cũng đặt ra những vấn đề
mới có tính cấp bách cần được tiếp tục nghiên cứu giải quyết.

8


Các văn bản pháp luật về thi hành án, đặc biệt là Pháp lệnh THADS
năm 2004 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực THADS, được
ban hành trong bối cảnh nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hoà nhập với các
nước trong khu vực và trên thế giới một cách toàn diện. Về cơ bản, pháp lệnh
vẫn giữ nguyên các quy định về trình tự, thủ tục THADS của Pháp lệnh
THADS năm 1993, trong đó có sửa đổi, bổ sung một số nội dung quan trọng về
trình tự, thủ tục thi hành án. Những kết quả đạt được sau hơn bốn năm thực
hiện Pháp lệnh THADS năm 2004 là cơ bản. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực
tiễn và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới thì Pháp lệnh THADS năm
2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước, tính nghiêm minh của pháp luật; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Toà án chưa được bảo đảm,
nhiều việc gây bức xúc trong xã hội. Thực trạng này đã đặt ra yêu cầu phải tiếp
tục hoàn thiện về thể chế thi hành án; đổi mới quy trình, thủ tục THADS; nâng
cao vị thế, vai trò, trách nhiệm của hệ thống tổ chức THADS trong bộ máy nhà
nước để đáp ứng đòi hỏi của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó các quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng
của con người phải được pháp luật bảo đảm và bảo vệ toàn vẹn; mọi vi phạm
pháp luật xâm phạm quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân đều bị
nghiêm trị và bảo đảm thực thi các lợi ích đó trên thực tế thông qua hoạt động
thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng.
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của công tác THADS đối với
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 đã quy định: "Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của
Toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi
phạm bị xử lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành" [12].
Ngoài ra, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ

9


nghĩa hiện nay đòi hỏi hệ thống pháp luật phải ngày càng được hoàn thiện, có
tính pháp điển cao, trong đó thi hành án là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên
quan trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước, đến trật
tự kỷ cương pháp luật và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, do đó, việc phải có một văn bản có hiệu lực pháp lý cao của Quốc
hội về THADS là hết sức cần thiết. Xuất phát từ các yêu cầu đó tại kỳ họp thứ
4, ngày 14 tháng 11 năm 2008 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Khoá XII đã thông qua Luật THADS. Có thể nói, trong trong lĩnh vực
THADS, Luật THADS là văn bản chuyên ngành đầu tiên về THADS có hiệu

lực pháp lý cao nhất. Luật THADS được ban hành đã giải quyết được nhiều
vấn đề bất cập của các văn bản pháp luật trước đó, tạo cơ sở nâng cao hiệu quả
THADS. Tuy vậy, sau một số năm thực hiện Luật này cũng cho thấy vẫn còn
những hạn chế, vướng mắc chưa được giải quyết triệt để làm ảnh hưởng đến
kết quả THADS. Để tìm ra các biện pháp khắc phục các hạn chế, vướng mắc
góp phần giải quyết tình trạng án tồn đọng thì việc tiếp tục nghiên cứu các quy
định của Luật THADS là cần thiết. Vì vậy, học viên đã chọn đề tài "Thủ tục thi
hành án dân sự theo Luật thi hành án 2008" nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu về THADS nhìn chung là bước
đầu đã được đẩy mạnh. Trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách tư pháp,
cũng như xây dựng Luật THADS và sau khi Luật THADS được ban hành các
vấn đề về thủ tục THADS đã được đặt ra và triển khai nghiên cứu ở mức độ
nhất định như đề tài luận án tiến sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thanh Thuỷ bảo vệ tại Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008; đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự 2008" do
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010 v.v… Ngoài ra, còn có các bài nghiên
10


cứu, trao đổi về thi hành án công bố trên các báo, tạp chí chuyên ngành luật
như bài "Những khó khăn trong xác minh thi hành án" của Đinh Duy Bằng
đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về THADS, 3/2011; bài
"Bàn về tính dân chủ trong pháp luật về thi hành án dân sự " của Bùi Thái
Bình, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 03/2012; bài "Thông báo thi
hành án dân sự những vấn đề từ thực tiễn" của Duy Đinh, đăng trên Tạp chí
dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về THADS 5/2010; bài "Những vướng mắc
trong trường hợp người phải thi hành án làm đơn đề nghị thi hành án" của

Nguyễn Thành Nam, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 04/2008; bài
"Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành luật thi hành án dân sự" của Nguyễn
Thị Khanh, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 05/2010; bài "Bàn về
xác minh thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự" của
Phan Tấn Pháp, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 07/2010 v.v...
Những công trình nghiên cứu này bước đầu đã nghiên cứu về một số vấn đề về
thủ tục THADS. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu các công trình nghiên cứu
nêu trên mới dừng lại ở một số khía cạnh riêng lẻ của các vấn đề thủ tục
THADS mà chưa tập trung nghiên cứu tổng thể, toàn diện các vấn đề về thủ
tục THADS theo Luật THADS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận về thủ tục
THADS, đánh giá thực trạng pháp luật thi hành án hiện hành và thực tiễn
THADS. Qua việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm
góp phần hoàn thiện pháp luật về THADS, góp phần giải quyết tình trạng tồn
đọng án, nâng cao hiệu quả hoạt động THADS.
Để thực hiện được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về thủ tục THADS, như khái niệm

THADS, khái niệm thủ tục, vai trò của thủ tục THADS; quá trình hình thành

11


và phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay về thủ
tục THADS;
- Nghiên cứu các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS, từ đó

phát hiện những khiếm khuyết, bất cập trong các quy định của Luật THADS về

thủ tục THADS;
- Khảo sát thực tiễn THADS để phát hiện những hạn chế trong việc

thực hiện các quy định của Luật THADS về thủ tục THADS;
- Tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của

Luật THADS về thủ tục THADS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về THADS, các
quy định của Luật THADS về thủ tục THADS và thực tiễn tổ chức thi hành án
của các cơ quan THADS. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối
với một số các quy định của các văn bản pháp luật khác có quy định về thủ tục
THADS để so sánh, đối chiếu và tham khảo.
THADS không phải chỉ là hoạt động có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ
đơn thuần, mà còn mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Việc nghiên cứu toàn
diện những vấn đề lý luận pháp luật THADS và thực tiễn THADS và các vấn đề
khác có liên quan là một vấn đề rộng lớn, phức tạp không chỉ riêng đối với khoa
học pháp lý, mà còn là nhiệm vụ của các lĩnh vực khoa học khác như xã hội học,
lịch sử, quản lý nhà nước… Tuy vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập
trung làm rõ những vấn đề về thủ tục THADS, các quy định pháp luật hiện hành
về THADS và thực tiễn thực hiện chúng trong những năm gần đây.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và

12



pháp luật, quá trình nghiên cứu đã sử dụng và kết hợp các phương pháp nghiên
cứu khoa học như phương pháp so sánh, thống kê, phương pháp phân tích,
tổng hợp…
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên một cách có hệ thống về thủ tục
THADS theo Luật THADS, luận văn có những điểm mới cơ bản sau đây:
- Làm rõ được một các vấn đề lý luận về thủ tục THADS, như khái

niệm THADS, khái niệm thủ tục, vai trò của thủ tục THADS; quá trình hình
thành và phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay
về thủ tục THADS;
- Phân tích làm rõ được nội dung các quy định của Luật THADS về thủ

tục THADS, nhận diện được những khiếm khuyết, bất cập trong các quy định
của Luật THADS về thủ tục THADS;
- Làm rõ thực tiễn thực hiện các quy định của Luật THADS về thủ tục

THADS và phát hiện được một số hạn chế trong việc thực hiện các quy định
của Luật THADS về thủ tục THADS;
- Đã tìm được một số các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của

Luật THADS về thủ tục THADS và nâng cao hiệu quả thực hiện chúng trên
thực tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục thi hành án dân sự.
Chương 2: Nội dung các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm
2008 về thủ tục thi hành án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thi hành các quy định của Luật Thi hành án dân

sự năm 2008 về thủ tục thi hành án dân sự và kiến nghị.

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA THỦ TỤC THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm thủ tục thi hành án dân sự
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đă chính thức
quyết định" [46, tr. 1559]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện
bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được
hiểu là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa,
giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính. THADS là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, nên chỉ
khi nào việc thi hành án được giải quyết xong thì quyền, lợi ích hợp pháp của
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công dân mới được đảm bảo, phán quyết của
Tòa án mới có hiệu lực thực thi trong thực tiễn đời sống. Nếu như bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành hoặc thi
hành không nghiêm chỉnh thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà
nước bị xem thường. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công
công cuộc đổi mới mà Đảng ta đã đề ra là từng bước xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là một Nhà nước, trong đó vai trò pháp
chế được đề cao, pháp luật được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Ở đây, yêu
cầu bức xúc hàng đầu là phải tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật trong

quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt yêu cầu pháp chế phải được coi là
một nội dung hết sức quan trọng của nhà nước pháp quyền. Pháp chế đòi hỏi
phải chấp hành nghiêm chỉnh các phán quyết nhân danh Nhà nước của TAND.
Chính vì vậy Điều 36 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Các bản án quyết định

14


của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh" [24].
Thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả
với nhau. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ
quan tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp
ngăn chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn thi hành
án, cơ quan thi hành án sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự cất giấu, tẩu tán
tài sản dẫn đến tình trạng án tồn đọng không thể thi hành được. Hoặc nếu một
bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ
ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ dễ dàng,
nhanh chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được
tuyên không khách quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả thi sẽ gây cản
trở cho việc thi hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan
nhà nước. Đồng thời, "việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động
tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng cố, tăng cường uy tín của cơ
quan xét xử" [37, tr. 9].
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân (VKSND) năm 2002 thì VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát
chung như trước đây, có nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm sát đối với
hoạt động hành chính mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Tuy nhiên,
trong Luật tổ chức VKSND hiện hành vẫn có một chương với nhiều điều quy

định về kiểm sát thi hành án. Trong thực tiễn, VKSND các cấp đã ban hành
nhiều kháng nghị đối với các quyết định về thi hành án. Tuy nhiên, tính chất
của kháng nghị trong giai đoạn thi hành án có nhiều điểm không giống với
kháng nghị trong giai đoạn xét xử... Điều này cho thấy rõ mối quan hệ mật
thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan thi hành án, giữa
pháp luật tố tụng tư pháp với pháp luật về thi hành án, giữa quan hệ pháp luật
tố tụng với quan hệ pháp luật về thi hành án.

15


"Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án cũng được
quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì
đều liên quan đến quyền con người, quyền công dân" [37, tr. 10]. Hơn nữa, yêu
cầu đặt ra đối với những người tiến hành các công việc về THADS như Chấp
hành viên cũng không thấp hơn những người tiến hành tố tụng trước đó là phải
độc lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết
định của Tòa án và tiến tới đạt được sự thật trên thực tế. Nếu họ không độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật trong THADS thì giá trị sự thật mà bản án, quyết
định của Tòa án đã xác định sẽ không còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp
các đương sự có sự thỏa thuận tự nguyện khác trong quá trình thi hành án.
Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp
hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau
nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa
án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi
hành án là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án,
quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng
pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động hành
chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động thi

hành án mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó với ý
nghĩa cao nhất là chấp hành các quy định của pháp luật, bản thân pháp luật
được Nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung mà mọi người phải tôn trọng
thực hiện.
Hiện nay, trong sách báo pháp lí cũng như trên thực tiễn, cụm từ ghép
"thi hành án" thường được dùng chung với các từ khác trong các nhóm từ như
công tác thi hành án, hoạt động thi hành án, lĩnh vực thi hành án, giai đoạn thi
hành án... Xét về mặt cấu trúc ngữ pháp, trong các nhóm từ trên, các từ công
tác, hoạt động, lĩnh vực, giai đoạn là danh từ có nghĩa chung nhất của nội hàm

16


xác định; còn "thi hành án" lại đóng vai trò với nghĩa là định ngữ, vì vậy nếu
hiểu các nhóm từ đó như khái niệm "thi hành án" thì chưa đúng. Bởi vì, thứ
nhất, các từ công tác, hoạt động, lĩnh vực, giai đoạn có nghĩa không giống nhau
nên khi ghép với "thi hành án" chúng cũng hàm chứa những nội dung khác
nhau; thứ hai, nếu sử dụng các nhóm từ đó cùng với các từ như bản chất, đặc
điểm, chức năng, hình thức, mô hình... thì sự sai lệch lại tăng thêm. Chẳng hạn,
"khi nói bản chất của công tác thi hành án; đặc điểm của hoạt động thi hành án;
hình thức hoạt động thi hành án (lẽ ra phải là bản chất, đặc điểm, hình thức của
thi hành án)... thì những từ công tác, hoạt động không còn ý nghĩa ban đầu; ở
đây chỉ thấy nổi rõ nghĩa của thi hành án" [37, tr. 11]. Khái niệm thường được
biểu đạt bằng danh từ hay cụm từ, trong đó danh từ hay cụm từ là từ loại còn
tính từ chỉ kết hợp để hình thành khái niệm nhánh trong từ loại đó. Ví dụ, khái
niệm quản lí được hiểu là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí. Từ khái niệm đó, ta có thể phân biệt
"quản lí kinh tế với quản lí văn hoá, xã hội và trong các trường hợp này, quản lí
luôn đóng vai trò danh từ" [37, tr. 12].
Với sự phân tích trên và để bảo đảm tính logic của các khái niệm khoa

học có liên quan đến thi hành án, "thi hành án" cần sử dụng như khái niệm độc
lập. Theo đó, có những khái niệm chỉ loại hình thi hành án như thi hành án
hình sự, THADS, thi hành án kinh tế, thi hành án lao động, thi hành án hành
chính. Cũng từ cách hiểu này, có thể nhìn nhận các vấn đề cơ bản của thi hành
án như bản chất, đặc trưng, chức năng, hình thức, nguyên tắc, phương pháp,
mô hình tổ chức của thi hành án... ở những cấp độ chung và cụ thể theo từng
loại hình và những cụm từ như công tác thi hành án, lĩnh vực thi hành án, hoạt
động thi hành án sẽ được sử dụng theo đúng nghĩa của chúng.
Hiện nay khái niệm THADS vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau
mà chưa có sự thống nhất chung. Cụ thể là:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng THADS là một hoạt động tư pháp - hoạt
động tố tụng dân sự. Theo quan điểm này thì có xét xử sẽ phải có thi
17


hành án, thi hành án củng cố kết quả của công tác xét xử, bảo đảm hiệu lực của
bản án, quyết định dân sự của Toà án nên thi hành án là giai đoạn không thể
thiếu trong quá trình tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Thi
hành án là một giai đoạn tố tụng:
Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung
của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện
trong bản án, quyết định của Tòa án, thì mới dừng lại ở việc làm rõ
đúng hay sai, phải hay trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực
hiện trên thực tế, cần phải chờ ở hiệu quả của công tác thi hành án.
Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử. Ở giai
đoạn này, cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp được pháp luật
quy định để đưa chân lý trở thành hiện thực trong đời sống thực tế
[43, tr. 8].
Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, tiếp theo quá trình
xét xử. Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác về bản chất với các hoạt

động hành chính là tổ chức và quản lý. "Thi hành án là nhằm mục đích thực thi
các phán quyết của Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành
và thi hành có hiệu quả trên thực tế. Hoạt động thi hành án này gắn liền với
quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử" [44, tr. 8]. THADS có
đầy đủ những đặc trưng của hoạt động tố tụng dân sự như là hoạt động bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, mang tính độc lập v.v... Hơn nữa,
"tòa án chỉ là một trong các cơ quan tư pháp chứ không phải là cơ quan tư pháp
duy nhất" [2, tr. 11]. Vì thế, thi hành án cũng là một hoạt động chấp hành
nhưng là chấp hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, thi hành án là một thủ tục hành chính.

Theo đó, quá trình tố tụng chỉ do Tòa án thực hiện.Tố tụng là quá trình tiến
hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật; quá trình này sẽ trải qua
nhiều giai đoạn, song các giai đoạn ấy lại có mối liên quan mật thiết với
18


nhau trong một thể thống nhất chung và xét xử là giai đoạn của cùng quá trình
tố tụng. Vì vậy, "bản án, quyết định chính là kết quả đánh dấu sự kết thúc của
quá trình tố tụng đó" [44, tr. 13]. Hơn nữa "thi hành án là hoạt động mang tính
điều hành và chấp hành là đặc trưng của hoạt động hành chính" [2, tr. 11]. Thi
hành án là dạng hoạt động có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến hành
trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các các bản án và quyết
định của toà án đã có hiệu lực pháp luật..
- Quan điểm thứ ba lại cho rằng, thi hành án là một thủ tục hành chính tư pháp. Trước hết vì thi hành án có mục đích và bản chất khác với mục đích,
bản chất của tố tụng. Mục đích của tố tụng là xác định chứng cứ để lập trạng
thái ban đầu của sự việc. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng được diễn
ra theo một quá trình hết sức chặt chẽ và khi có quyết định giải quyết vụ việc
của Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, thi hành án có mục đích
là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án. Quá trình này do các chủ thể thi

hành án tự giác thi hành hoặc do cơ quan có thẩm quyền buộc phải thi hành.
Về bản chất, thi hành án cũng là một dạng hoạt động tư pháp vì căn cứ để thi
hành án là các bản án, quyết định của Tòa án. Hơn nữa, thi hành án còn được
thực hiện bởi các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng). Không thể đồng nhất hoạt
động thi hành án với hoạt động tố tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính
chất chính trị, pháp lư, xã hội của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành án hiện
nay cần đặt trong vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Về bản chất, hoạt
động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau đây:
+ Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi

hành án;
+ Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án;
+ Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án (đây là một vấn đề

có thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án
có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính - tư

19


pháp. Nhưng cần khẳng định rằng, các quan hệ mang tính hành chính tư pháp
chủ yếu hơn.
Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số
lĩnh vực, một số công việc, Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để
thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm khác so với hoạt động tố tụng,
hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa. Thi hành
án không mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn
mang tính hành chính - tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng
và quá trình thực hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù
mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. "Các thủ tục trong quá trình thi hành

án mang nặng tính hành chính - tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh
tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình
sự đối với loại hình phạt không phải là hình phạt tù...)" [44, tr. 10-12]. Do đó,
thi hành án cần được quan niệm là thủ tục hành chính - tư pháp.
Các quan điểm trên xuất phát từ những lý do khác nhau và đều có tính
hợp lý. Thực ra, khó có thể "xếp" THADS với bất cứ loại tố tụng nào vì những
lẽ sau đây:
Thứ nhất, như đã trình bày ở phần khái niệm thi hành bản án, bản chất
và mục đích tố tụng là sự xác định sự thật khách quan của các vụ việc để trên
cơ sở đó áp dụng đúng đắn quy định của pháp luật vào từng trường hợp cụ thể.
Quá trình này kết thúc khi sự thật đã được khẳng định bằng một phán quyết của
Tòa án. Ở đây chân lý đã được sáng tỏ, nội dung quan hệ pháp luật đã được
Tòa án xác định cụ thể bằng bản án, cơ quan thi hành án chỉ thực thi các nghĩa
vụ đã được xác định mà không có quyền thay đổi chúng. Hiện nay phạm vi áp
dụng thủ tục THADS rất rộng. Nhiều quan hệ pháp luật trước đó đã được giải
quyết theo nhiều thủ tục tố tụng khác nhau như dân sự, hành chính, hình sự,
trọng tài.. Tuy nhiên, các phán quyết về tài sản của Toà án, Trọng tài, Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh đều được đưa ra tổ chức thi hành

20


theo thủ tục THADS, nếu coi THADS là một giai đoạn tố tụng, thì sẽ xác định
nó thuộc thủ tục tố tụng cụ thể nào hay mang tính "tố tụng tổng hợp".
Thứ hai, về cơ chế quản lý và trình tự thủ tục thi hành án đã có sự thay
đổi căn bản. Công tác THADS từ năm 1993 đến nay do Chính phủ thống nhất
quản lý: Theo quy định của Luật THADS, thì Bộ Tư pháp là cơ quan giúp
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thi hành án và chịu trách
nhiệm tổ chức thi hành án trong phạm vi cả nước; Bộ Quốc phòng phối hợp với
Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác THADS trong quân

đội theo quy định của Chính phủ. Hệ thống các cơ quan THADS đã được thành
lập và đi vào hoạt động ổn định với 63 Cục thi hành án; 09 cơ quan thi hành án
cấp quân khu) và 698 Chi cục thi hành án. Việc ra quyết định thi hành án và tổ
chức thi hành án thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành án (cơ
quan hành chính-tư pháp) thay vì Chánh án như trước đây. Như chúng ta đã
biết, THADS là hoạt động kế tiếp của giai đoạn xét xử (giai đoạn cuối cùng của
hoạt động tố tụng) và là giai đoạn rất quan trọng trong quá trình bảo vệ quyền
lợi của đương sự, mục đích của quá trình tố tụng là làm rõ sự thật khách quan
của vụ án. Như vậy, có thể nói, khi kết thúc hoạt động xét xử, thì sự thật khách
quan đó hay nói cách khác công lý đã được làm sáng tỏ, nội dung quan hệ pháp
luật đã được toà án xác định và phán quyết cụ thể. Quá trình tổ chức thi hành
án, cơ quan thi hành án chỉ thực thi các nghĩa vụ đã được Toà án phán quyết mà
không có quyền xác lập quyền, nghĩa vụ khác. Vì vậy, việc tổ chức thi hành án
đơn thuần chỉ là thủ tục hành chính - tư pháp, việc coi THADS là một giai đoạn
tố tụng độc lập là khó có cơ sở.
Thứ ba, xét về mặt truyền thống cũng như pháp luật thực định, thì Tòa
án hoặc cơ quan trọng tài luôn là chủ thể trung tâm của bất cứ hoạt động tố
tụng nào. Trong khi đó chủ thể trung tâm của hoạt động thi hành án không phải
là Tòa án, mà là cơ quan thi hành án thuộc hệ thống hành pháp và chấp hành
viên.

21


Thứ tư, THADS là dạng hoạt động mang tính hành chính - tư pháp, vì cơ
sở của THADS là các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, đồng thời các cơ
quan tham gia vào THADS chủ yếu là các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng).

Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án.
Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến

hành các hoạt động thi hành án. Do đó, có thể khẳng định rằng không có kết
quả của hoạt động xét xử thì không thể có hoạt động thi hành án. Song thi hành
án là một hoạt động hành chính- tư pháp, chứ không phải là hoạt động tố tụng
(hình sự, dân sự), bởi vì xét về mặt bản chất của vấn đề, thì thi hành án hoàn
toàn khác với tố tụng. Bản chất và mục đích của tố tụng là xác định sự thật của
các vụ việc để trên cơ sở đó giải quyết từng trường hợp theo đúng quy định của
pháp luật. Toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo một trình tự hết sức chặt chẽ,
tuân thủ các nguyên tắc bình đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền và lợi
ích của người tham gia tố tụng. Khi có phán quyết của Tòa án, nghĩa là khi sự
thật được khẳng định và việc áp dụng pháp luật đã hoàn thành thì quá trình tố
tụng kết thúc.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể hiểu khái niệm THADS
như sau: THADS là hoạt động hành chính- tư pháp, mang tính quyền lực nhà
nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền Nhà nước tiến hành nhằm buộc cá
nhân, cơ quan, tổ chức phảu thực hiện các nghĩa vụ về tài sản hoặc nghĩa vụ
dân sự khác theo bản án, quyết định của Tòa án để đảm bảo trật tự pháp luật,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và Nhà nước.
Như vậy THADS chủ yếu là thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án.
Tuy phạm vi bản án quyết định dân sự được Luật THADS quy định mở rộng
hơn so với Pháp lệnh THADS năm 2004. Điều này cho thấy pháp luật về
THADS đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hoàn thiện sao cho phù hợp
với hoàn cảnh đất nước, phù hợp với quá trình cải cách tư pháp hiện nay.
Vậy hiểu như thế nào là thủ tục nói chung và thủ tục THADS nói riêng?
Theo Từ điển tiếng Việt, thủ tục là "những việc cụ thể phải làm theo một trật

22


tự quy định, để tiến hành công việc có tính chất chính thức" [23, tr. 927].
THADS bao gồm nhiều công việc phức tạp, để thi hành án hành án có hiệu quả

thì các công việc về thi hành án phải được thực hiện theo một trật tự, cách thức
nhất định do pháp luật quy định căn cứ vào nội dung, tính chất và tác dụng của
công việc đó đối với kết quả THADS. Và cũng Theo Từ điển tiếng Việt thì
trình tự là "sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau" [23, tr. 1001]. Từ đó, có thể rút
ra kết luận: Thủ tục thi hành án dân sự là trình tự thực hiện những việc cụ thể
về thi hành án dân sự do pháp luật thi hành án dân sự quy định.
Theo quy định của Luật THADS thì thủ tục thi hành dân sự bao gồm:
Thủ tục cấp, chuyển giao bản án quyết định, thủ tục ra quyết định THADS, thủ
tục tổ chức và thực hiện THADS v.v… Ngoài ra, cũng theo quy định của Luật
THADS thì các bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục THADS bao
gồm: Bản án, quyết định của Toà án về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
kinh tế; bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản,
truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Toà
án về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án
về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản; quyết định của Trọng tài thương
mại Việt nam; bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục thi hành án dân sự
Sau khi giải quyết các tranh chấp dân sự, Ṭòa án ra bản án, quyết định
công nhận các quan hệ pháp luật, các sự kiện có ý nghĩa pháp luật hoặc buộc
người phải thi hành án có nghĩa vụ phải làm một việc hoặc không được làm
một việc việc vì lợi ích của người được thi hành án. Như vậy, quan hệ pháp
luật về THADS phát sinh ngay tại thời điểm bản án, quyết định dân sự của Tòa
án có hiệu lực pháp luật hoặc những bản án, quyết định dân sự của Tòa án chưa
có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay. Tuy nhiên, mức độ

23



tác động, tính chủ động của cơ quan thi hành án, chấp hành viên đối với từng
loại bản án, quyết định, từng giai đoạn thi hành án có khác nhau. Có loại bản
án, quyết định cơ quan THADS, chấp hành viên phải chủ động ra quyết định
thi hành án, đôn đốc, chịu trách nhiệm đến cùng về kết quả thi hành án như đối
với các trường hợp bản án, quyết định về trả lại tài sản xă hội chủ nghĩa; bản
án, quyết định về phạt tiền; bản án, quyết định về tịch thu tài sản; bản án quyết
định về án phí; bản án quyết định về tiêu hủy tang vật; các quyết định khẩn cấp
tạm thời. Có loại bản án, quyết định, cơ quan thi hành án, chấp hành viên chỉ
tham gia vào quá trình thi hành án khi có yêu cầu của người được thi hành án
sau khi đă thụ lý thi hành án, có lúc chấp hành viên chỉ giữ vai trò "chứng
kiến", giải thích, hướng dẫn các bên (được thi hành án và phải thi hành án) tự
thi hành án. Nhưng khi người phải thi hành án bất chấp kỷ cương, pháp luật,
coi thường lợi ích của người được thi hành án, cố ý không thực hiện nghĩa vụ
của mình, thì cơ quan thi hành án, chấp hành viên phải thực hiện quyền được
Nhà nước giao là huy động lực lượng, trấn áp, bắt buộc người phải thi hành án
phải thực hiện những hành vi mà Ṭòa án nhân danh Nhà nước đă tuyên. Đó là
cưỡng chế thi hành án. Như vậy, cưỡng chế thi hành án là hoạt động đặc thù
của quá trình thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, bản chất của nó là
dùng quyền lực của Nhà nước theo thủ tục do pháp luật qui định buộc người
phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án của họ.
Để bảo đảm hiệu quả của THADS, pháp luật phải quy định cụ thể thủ
tục THADS. So với các thủ tục tố tụng và thủ tục thi hành án khác, thủ tục
THADS có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thủ tục THADS là một thủ tục mang tính chất tư pháp và do
pháp luật quy định.
Thủ tục THADS được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành, chỉ có những quy định về thủ tục THADS được quy

24



định trong văn bản pháp luật mới được có giá trị pháp lý trên thực tế. Hiện nay,
thủ tục THADS được quy định trong Luật THADS có hiệu lực vào 1/7/2009 và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này như Nghị định 58/2009/NĐ-CP.
Ngoài ra, thủ tục THADS còn được quy định cả trong Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS) và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
THADS chỉ phát sinh trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án sau khi
giải quyết các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng, đó là bản án, quyết định về
dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; quyết định về tài sản trong bản
án, quyết định hình sự (phạt tiền, tịch thu tài sản, án phí); quyết định về tài sản
và quyền tài sản trong bản án, quyết định hành chính; bản án, quyết định dân
sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được Tòa án
Việt Nam công nhận và cho thi hành ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu như trong thi
hành án hình sự, thi hành án hành chính, hoạt động thi hành án hình sự, thi
hành án hành chính chỉ phát sinh trên cơ sở bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, thì hoạt động THADS không những được phát sinh trên cơ sở bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật, mà còn được phát sinh trên cơ
sở những bản án, quyết định dân sự của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay, đó là bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về
cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương,
trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời.
Thứ hai, thủ tục THADS là thủ tục độc lập so với thủ tục khởi tố, điều
tra, xét sử vụ án hoặc giải quyết vụ kiện trọng tài. Sở dĩ nó độc lập với các thủ
tục khác trong việc giải quyết vụ án hoặc vụ kiện trọng tài là bởi, sau khi có
bản án, quyết định của Tòa án thì trên cơ sở bản án, quyết định do Tòa án
chuyển giao hoặc đơn yêu cầu thi hành án của đương sự, cơ quan THADS ra
quyết định THA và thụ lý, tổ chức việc thực hiện THA. Song, trong quá trình
THADS thì tùy từng trường hợp cụ thể mà không nên cứng nhắc bởi tính độc


25


×