Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.96 KB, 44 trang )

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng chính sách tỷ giá Việt Nam hiện nay
Tháng 2 năm 1999, với sự ra đời của Quyết định 64/QĐ - NHNN7 ngày
25 /02/1999, cơ chế tỷ giá của Việt Nam có bước cải cách triệt để hơn. Từ tháng
2/1999 về trước, cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam là cơ chế can thiệp trực
tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch có lúc lên đến ±
10%. Nhưng bắt đầu từ tháng 25/2/1999. NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá
chính thức và thay vào đó là việc "thông báo" tỷ giá giao dịch bình quân liên
ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không
được vượt quá + 0,1% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngày giao
dịch trước đó; sau đó, từ ngày 1/7/2002 biên độ này được mở rộng lên ±
0,25%,ngày 2/1/2007 biên độ này lại được mở rộng lên ±0,5%. Xét về mặt lý
thuyết, đây là bước cải cách có ý nghĩa rất lớn vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác
định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang một cơ chế tỷ giá xác định
khách quan hơn trên cơ sở cung cầu của thị trường , đó là cơ chế thả nổi có điều
tiết.
* Yếu tố thả nổi bao gồm:
- Quỹ tiền tệ quốc tế đã công nhận chính thức.
- NHNN đã không chủ quan trực tiếp ấn định, không công bố tỷ giá chính
thức, mà thay vào đó là chỉ "thông báo" tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân
hàng. Mà tỷ giá liên ngân hàng lại do cung cầu trên thị trường liên ngân hàng
quyết định.
- Trên cơ sở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, các NHTM xác định giá
kinh doanh theo quy tắc:
Tỷ giá kinh doanh = TGBQLNH ( 1 ± 0,0025)
Suy ra: Tỷ giá bán ra (max) = TGBQLNH ( 1+ 0,0025)
Tỷ giá mua vào (min) = TGBQLNH (1- 0,0025)
Ở đây, yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh chính là đại lượng
TGBQLNH.
* Yếu tố điều tiết bao gồm:
- TGBQLNH không được tự do biến động theo quan hệ cung cầu trên


Interbank, mà thay vào đó sự biến động cũng chỉ trong giới hạn ± 0,025% so
với TGBQLNH của ngày giao dịch trước đó.
- Tương tự, tỷ giá kinh doanh của các NHTM với khách hàng cũng bị
điều tiết trong biên độ ± 0,025% so với TGBQLNH của ngày giao dịch trước
đó.
- TGBQLNH là cố định trong suốt ngày giao dịch, bất chấp những thay
đổi đột biến trong quan hệ cung cầu ngoại tệ vượt ra ngoài biên độ dao động
cho phép.
- Vì đây là tỷ giá bình quân, nghĩa là NHNN phải tính toán mới ra trong
khi đó NHNN lại là người độc quyền điều hành, độc quyền tính toán, độc quyền
thông báo TGBQLNH, cho nên trong chừng mực nhất định thì mức TGBQLNH
chưa thoát ly khỏi ý chí chủ quan trong điều hành tỷ giá của NHNN.
- Ngoài ra, NHNN còn sử dụng một hệ thống các công cụ (trực tiếp và
gián tiếp) để tác động lên tỷ giá như: trực tiếp mua vào bán ra trên thị trường
ngoại hối, sử dụng biện pháp kết nối, tăng giảm lãi suất …
Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết của Việt Nam
hiện nay vẫn chưa có tính linh hoạt cao do các yếu tố sau:
- Trước hết thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam còn rất sơ khai.
Khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng quá nhỏ bé, ước khoảng
gần 400 triệu USD/tháng, chiếm khoảng 24% tổng doanh số hoạt động trên thị
trường ngoại hối. Với tỷ trọng thấp như vậy, thị trường ngoại hối Việt Nam
khác xa so với thị trường quốc tế, nơi mà thị trường liên ngân hàng chiếm tỷ
trọng tới 85%. Do đó, tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam
chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ cung cầu trên thị trường, thậm chí có
ngày không phát sinh giao dịch nào.
- Thực tế cho thấy, do tình trạng khan hiếm ngoại tệ thường xuyên nên
các NTHM phải áp dụng tỷ giá giao dịch kịch trần cho phép, tức bằng
TGBQLNH cộng ± 0,25% điều này hàm ý, về mặt lý thuyết TGBLNH phải tăng
liên tục với hàm lượng ± 0,25%/ ngày giao dịch. Tuy nhiên, TGBQLNH do
NHNN thông báo có xu hướng tăng, nhưng nhìn chung rất chậm, hơn nữa có

thời kỳ tỷ giá đứng im và đôi khi còn giảm.
-Tỷ giá được công bố có giá trị trong suốt một ngày làm việc, như vậy
nếu trong ngày có sự thay đổi lớn về cung cầu thì các NHTM không có điều
kiện thay đổi tỷ giá cho phù hợp.
- Trong thời gian đầu, NHNN chỉ quy định biên độ dao động một chiều
(tối đa là + 0,1%). Điều này tạo tâm lý cho các thành viên tham gia thị trường là
tỷ giá VND chỉ có thể tăng, nên NHNN không cần quy định chiều giảm. Điều
này có thể tạo ra tâm lý đầu cơ, ưa chuộng ngoại tệ vì nó chỉ có thể tăng giá.
Một thực tế là, các NHTM luôn kinh doanh với tỷ giá kịch trần, do đó, nếu
NHNN có quy định sàn tỷ giá thì cũng không có ý nghĩa thực tế. Tuy nhiên, để
hạn chế yếu tố tâm lý và để tỷ giá được linh hoạt hơn. NHNN đã quy định biên
độ hai chiều, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch lên ± 0,25%.
Bảng 1 : Diễn biến tỷ giá 1999 - 2004 tai thời điểm cuối tháng
Tháng Interbank % Band Ceiling Rate VCB Offer
1/1999 12975 + 0,1% 13883 13883
2/1999 13885 + 0,1% 13899 13899
3/1999 13889 + 0,1% 13903 13903
4/1999 13896 + 0,1% 13910 13910
5/1999 13903 + 0,1% 13917 13917
6/1999 13921 + 0,1% 13935 13935
7/1999 13944 + 0,1% 13958 13958
8/1999 13961 + 0,1% 13975 13975
9/1999 13981 + 0,1% 13995 13995
10/1999 13998 + 0,1% 14012 14012
11/1999 14004 + 0,1% 14018 14018
12/1999 14016 + 0,1% 14030 14030
Tăng giảm 1,02% 1,02% 1,02%
1/2000 14040 + 0,1% 14054 14054
2/2000 14045 + 0,1% 14059 14059
3/2000 14049 + 0,1% 14063 14063

4/2000 14057 + 0,1% 14071 14071
5/2000 14072 + 0,1% 14086 14086
6/2000 14071 + 0,1% 14085 14085
7/2000 14080 + 0,1% 14094 14094
8/2000 14108 + 0,1% 14122 14122
9/2000 14202 + 0,1% 14216 14216
10/2000 14365 + 0,1% 14379 14379
11/2000 14485 + 0,1% 14500 14500
12/2000 14501 + 0,1% 14515 14515
Tăng
/giảm
3,46% 3,46% 3,46%
1/2001 14532 + 0,1% 14547 14547
2/2001 14551 + 0,1% 14566 14566
3/2001 14531 + 0,1% 14546 14546
4/2001 14553 + 0,1% 14568 14568
5/2001 14648 + 0,1% 14663 14663
6/2001 14831 + 0,1% 14846 14846
7/2001 14930 + 0,1% 14945 14945
8/2001 14980 + 0,1% 14995 14995
9/2001 14990 + 0,1% 15005 15005
10/2001 15019 + 0,1% 15034 15034
11/2001 15054 + 0,1% 15069 15069
12/2001 15070 + 0,1% 15085 15085
Tăng/giảm 3,92% 3,92% 3,92%
1/2002 15080
± 0,25
15123 15123
2/2002 15128
± 0,25

15143 15143
3/2002 15180
± 0,25
15195 15195
4/2002 15205
± 0,25
15220 15220
5/2002 15237
± 0,25
15252 15252
6/2002 15260
± 0,25
15275 15275
7/2002 15285
± 0,25
15323 15323
8/2002 15295
± 0,25
15333 15333
9/2002 15310
± 0,25
15348 15348
10/2002 15328
± 0,25
15366 15366
11/2002 15354
± 0,25
15392 15392
12/2002 15368
± 0,25

15406 15406
Tăng/giảm 1,98% 2,13% 2,13%
1/2003 15398
± 0,25
15436 15436
2/2003 15393
± 0,25
15431 15431
3/2003 15418
± 0,25
15457 15457
4/2003 15430
± 0,25
15469 15469
5/2003 15439
± 0,25
15478 15478
6/2003 15463
± 0,25
15502 15502
7/2003 15480
± 0,25
15519 15519
8/2003 15483
± 0,25
15522 15522
9/2003 15520
± 0,25
15559 15559
10/2003 15608

± 0,25
15647 15647
11/2003 15592
± 0,25
15631 15631
12/2003 15608
± 0,25
15647 15647
Tăng/giảm 1,56% 1,56% 1,56%
1/2004 15658
± 0,25
15697 15697
2/2004 15720
± 0,25
15759 15759
3/2004 15686
± 0,25
15725 15725
4/2004 15683
± 0,25
15722 15722
5/2004 15707
± 0,25
15746 15746
6/2004 15685
± 0,25
15724 15724
7/2004 15714
± 0,25
15753 15753

8/2004 15726
± 0,25
15765 15765
8/2004 15717
± 0,25
15756 15756
10/2004 15714
± 0,25
15753 15753
11/2004 15735
± 0,25
15774 15774
12/2004 15736
± 0,25
15775 15775
Tăng/giảm 0,82% 0,82% 0,82%
1/2005 15760
± 0,25
15790 15790
2/2005 15770
± 0,25
15804 15804
3/2005 15795
± 0,25
15824 15824
4/2005 15805
± 0,25
15833 15833
5/2005 15820
± 0,25

15852 15852
6/2005 15830
± 0,25
15856 15856
7/2005 15855
± 0,25
15883 15883
8/2005 15845
± 0,25
15877 15877
9/2005 15865
± 0,25
15894 15894
10/2005 15870
± 0,25
15901 15901
11/2005 15880
± 0,25
15909 15909
12/2005 15885
± 0,25
15915 15915
Tăng/giảm 0,95% 0,88% 0,88%
1/2006 15900
± 0,25
15923 15923
2/2006 15885
± 0,25
15911 15911
3/2006 15895

± 0,25
15930 15930
4/2006 15920
± 0,25
15955 15955
5/2006 15930
± 0,25
15960 15960
6/2006 15970
± 0,25
15997 15997
7/2006 15965
± 0,25
15993 15993
8/2006 15980
± 0,25
16009 16009
9/2006 15980
± 0,25
16009 16009
10/2006 16055
± 0,25
16054 16054
11/2006 16045
± 0,25
16085 16085
12/2006 16051
± 0,25
16051 16051
Tăng/giảm 1,04% 0,85% 0,85%

1/2007 16034
± 0,5
16037 16037
2/2007 15987
± 0,5
15989 15989
3/2007 16020
± 0,5
16025 16025
Ghi chú:
1/ Năm 1999 tỷ lệ "tăng/giảm" chỉ tính từ tháng 2/1999.
2/ Tỷ lệ "tăng/giảm" là sự so sánh giữa tỷ giá tại thời điểm cuối tháng 12
của hai năm.
Từ bảng trên cho thấy:
- Sau 7 năm hoạt động theo chế độ tỷ giá thả nối có điều tiết, tỷ giá LNH
tăng 14,52%, trong bình mỗi năm tăng 2,07%.
- Mức tăng tỷ giá kinh doanh của các NHTM là tương đương với tỷ giá
LNH.
- Tỷ giá kinh doanh của NHTM luôn ở mức kịch trần cho phép, điều này
hàm ý VND đang bị định giá cao so với tỷ giá cân bằng theo quan hệ cung cầu
thị trường.
Năm 2006 có lẽ là năm có nhiều biến động xấu trong lịch sử của đồng
USD. Vào những ngày cuối năm, thị trường tài chính thế giới liên tục xôn xao
về việc đồng USD giảm giá so với hầu hết các đồng tiền khác. So với đồng
Euro, USD đã và đang giảm giá từ hơn 1 tháng trước khi phá vỡ ngưỡng 1,3
USD/EUR vào ngày 24/11/2006, sắp đạt mức giá thấp kỷ lục trong vòng 20
tháng. So với Bảng Anh, đồng USD đã giảm xuống mức giá thấp nhất trong
vòng 14 năm kể từ tháng 9/1992 với mức giá 1,9805 USD/GBP được ghi nhận
vào cuối tháng 11/2006. USD cũng trượt giá mạnh so với đồng Yên Nhật khi
được giao dịch quanh mức 115 JPY/USD trong những tháng cuối năm 2006. So

với đồng NDT - tỷ giá nhạy cảm nhất về vấn đề chính trị trong thời điểm này -
đồng USD vẫn tiếp tục giảm giá một cách cầm chừng (khoảng 3,65% kể từ
ngày 21/7/2005, khi đồng NDT được định giá lại). Đồng USD giảm xuống mức
giá thấp nhất so với đồng NDT của Trung Quốc kể từ khi định giá lại, với mức
7,8240 NDT/USD (ngày 5/12/2006). Đây cũng là lần đầu tiên NDT tăng vượt
ngưỡng 7,83 NDT/USD.
Quyết định vẫn giữ nguyên lãi suất đồng Đôla Mỹ ở mức 5,25% trong
cuộc họp bàn về chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED), diễn ra
ngày 20/09/2006 vừa qua đã làm các nhà đầu cơ trên thị trường thất vọng. Tăng
trưởng kinh tế và sức ép lạm phát lên nền kinh tế Mỹ đang có dấu hiệu giảm là
nguyên nhân chính khiến FED quyết định không tăng lãi suất trong cuộc họp
lần này. Theo công bố trong tuần của Bộ Lao động Mỹ, trong tháng 8, chỉ số giá
sản xuất (PPI) chỉ tăng 0,1%, thấp hơn dự đoán của giới phân tích là tăng 0,2%;
chỉ số giá sản xuất (không bao gồm giá lương thực và năng lượng) đã giảm
0,4%, đây là mức giảm lớn nhất kể từ tháng 4/2003. Thêm vào đó, Bộ Thương
mại Mỹ vừa thông báo thị trường nhà ở vẫn chưa được cải thiện, doanh số bán
nhà mới đã giảm 6% trong tháng 8, mức giảm lớn nhất trong vòng 6 tháng qua.
Tình hình công ăn việc làm ở Mỹ không được khả quan, công bố về số liệu thất
nghiệp trung tuần tháng 9 lên đến 7.000 lao động, vượt xa so với dự đoán của
thị trường. Trước những số liệu kém khả quan về nền kinh tế Mỹ, các nhà phân
tích và giới đầu cơ trên thị trường quan ngại vào khả năng FED sẽ kết thúc chu
kỳ tăng lãi suất đồng Đôla Mỹ trong năm nay và nhiều nhà đầu tư dự đoán rằng
có thể trong năm tới FED sẽ thực hiện chính sắch cắt giảm lãi suất để ổn định
tăng trưởng nền kinh tế Mỹ. Do vậy sự khác biệt về lãi suất giữa đồng Đôla Mỹ
so với các đồng tiền khác như đồng Euro sẽ ngày càng thu hẹp dần làm giảm
sức hấp dẫn của đồng Đôla Mỹ trên thị trường khiến đồng tiền này mất giá.
Trong tháng 1/2007 tỷ giá VND/USD giảm 0,12%, tháng 2 giảm 0,21%,
tính chung 2 tháng giảm 0,33%. Do đó, ngày 2/1/2007, NHNN Việt Nam đã có
quyết định số 2554/QĐ-NHNN để thay thế Quyết định số 679/2003/QĐ-NHNN
ngày 1/7/2003 về việc nới rộng biên độ tỷ giá ngoại tệ. Đây là lần đầu tiên

NHNN thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá sau 3 năm dừng ở mức +/- 0,25%. Với
biên độ này, tỷ giá giữa VND và USD sẽ linh hoạt hơn và theo sát thị trường
hơn. Trong những năm gần đây, với cơ chế tỷ giá thả nổi có đièu tiết, NHNN đã
can thiệp thị trường vừa thận trọng, vừa linh hoạt, nhằm mục tiêu kiểm soát lạm
phát góp phần tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Tỷ giá được điều chỉnh theo
hướng giảm nhẹ VND so với USD nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu. Qua đó, ổn định tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tỷ
giá thị trường tự do. Do vậy, quyết định tăng biên độ của tỷ giá lên +/-0,5% là
quyết định hay, quyết định này là cơ sở tạo điều kiện cho các bên tham gia thị
trường ngoại hối, nhất là đối với các (NHTM) trong việc cạnh tranh nhau (tình
hình cung - cầu ngoại tệ hiện nay về bản chất không phải là thừa. Thực tế ngoại
tệ hiện nay ở Việt Nam cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ chỉ là tình trạng nhất
thời). Việc điều chỉnh biên độ tỷ giá ngoại tệ của quyết định 2554 này là mở
đường cho VND giảm giá thêm so với USD.
Một tuấn sau quyết định nới lỏng biên độ tỷ giá ngoại tệ theo quyết định
2554 của NHNN thì tỷ giá ngoại tệ giảm, VND lên giá so với USD. Từ đó,
chúng ta thấy các doanh nghiệp xuất khẩu đã dùng VND nhập hàng, sau đó xuất
khẩu thu ngoại tệ (USD) và doanh nghiệp xuất khẩu sẽ bán USD cho NHTM để
lấy VND - nếu đồng Việt Nam lên giá, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ giảm lợi
nhuận. Như vậy, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc khuyến khích xuất
khẩu sẽ bị hạn chế. Ngược lại, VND lên giá thì doanh nghiệp nhập khẩu lại có
lợi do bán hàng hoá thu VND, sau đó dùng VND mua USD sẽ rẻ hơn và dùng
USD để trả nợ.
Tóm lại, trong quý I năm 2007 đồng đôla Mỹ giảm giá liên tục. So với rổ
tiền tệ, đôla Mỹ đã giảm đến mức thấp nhất trong vòng 3 tháng qua. Nguyên
nhân chủ yếu khiến đồng đôla giảm giá bắt nguồn từ thị trường cho vay cầm cố
thế chấp nhà đất và bất động sản. Sự yếu kém của thị trường này ngoài việc trực
tiếp gây ảnh hưởng đến sự bất ổn của thị trường chứng khoán, còn được dự
đoán sẽ gây ảnh hưởng đến thị trường lao động của Mỹ do lĩnh vực này đóng
góp rất lớn vào việc tạo ra công ăn việc làm. Từ đó các nhà kinh tế cho rằng có

thể đồng Đôla Mỹ sẽ rơi vào chu kỳ giảm giá khi nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu
suy thoái. Ngoài ra, một vài số liệu khác cũng tác động tiêu cực đến dự báo cho
tương lai nền kinh tế Mỹ và khả năng cắt giảm lãi suất Đôla Mỹ của Cục dự trữ
Liên bang Mỹ trong năm nay.
2.2 Đánh giá chính sách tỷ giá của Việt Nam
2.2.1 Tác động của tỷ giá đến hoạt động XNK
Cán cân thương mại là chênh lệch giữa doanh số xuất khẩu và doanh số
nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Cán cân thương mại thặng dư phản
ánh doanh số xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu; và ngược lại, cán cân thương mại
thâm hụt phản ánh doanh số xuất khẩu nhỏ hơn nhập khẩu. Nhìn chung trạng
thái cán cân thương mại tác động mạnh đến nhiều mặt của nền kinh tế, ví dụ,
nếu thặng dư sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo thêm công ăn việc
làm mới, tăng tích lũy quốc gia dưới dạng dự trữ ngoại hối, tạo uy tín và tiền đề
để đồng nội tệ được tự do chuyển đổi… Trong số các nhân tố tác động lên cán
cân thương mại, thì tỷ giá hối đoái luôn được xem là một trong những nhân tố
chính có ảnh hưởng nhanh, mạnh và trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu.
2.2.1.1 Các loại tỷ giá sử dụng khi phân tích ảnh hưởng lên cán cân TM
* Tỷ giá danh nghĩa song phương
Tỷ giá danh nghĩa song phương là tỷ lệ trao đổi số tuyệt đối giữa hai
đồng tiền, là loại tỷ giá phổ biến được sử dụng hàng ngày trong các giao dịch
trên thị trường ngoại hối. Ví dụ, tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại hối Việt
Nam là 1 USD = 16.051 VND, tại Tokyo là 1 USD = 158 JPY, … Như vậy, tỷ
giá danh nghĩa song phương chính là giá cả của một đồng tiền được biểu thị
thông qua đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa
giữa chúng, do đó khi tỷ giá danh nghĩa thay đổi không nhất thiết phải tác động
đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng, ví dụ tỷ giá
E (VND/USD) tăng, ta mới biết được rằng USD lên giá (danh nghĩa), và VND
giảm giá (danh nghĩa), mà chưa thể biết được là tỷ giá tăng như vậy có tác động
thúc đẩy xuất khẩu hay không? Chính vì điều này khi nghiên cứu ảnh hưởng
của tỷ giá đến xuất nhập khẩu người ta sử dụng khái niệm tỷ giá thực.

*Tỷ giá thực song phương
Tỷ giá thực là tỷ giá được xác định trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đã được
điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước và ở nước ngoài, do đó nó phản ánh
tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ.
Trong thực tế để theo dõi và phân tích sự biến động của tỷ giá thực người
ta sử dụng công thức tỷ giá thực dạng chỉ số như sau:
e
Ri
= e
i
.
Trong đó: e
R
là chỉ số tỷ giá thực (gọi tắt là tỷ giá thực), e là chỉ số tỷ giá
danh nghĩa, CPI
*
là chỉ số giá tiêu dùng ở nước ngoài, CPI là chỉ số giá tiêu
dùng ở trong nước, i là số thứ tự kỳ tính toán.
Tỷ giá thực rất có ý nghĩa, bởi vì với các nhân tố khác không đổi:
* Xét ở trạng thái tĩnh:
- Nếu e
R
> 1, thì nội tệ được coi là định giá quá thấp và ngoại tệ được coi
là định giá thực quá cao. Điều này có nghĩa là: (i) nếu chuyển đổi mỗi đồng nội
tệ ra ngoại tệ ta chỉ mua được ít hàng hóa hơn ở nước ngoài so với ở trong
nước; và (ii) nếu chuyển đổi mỗi đồng ngoại tệ ra nội tệ ta sẽ mua được nhiều
hàng hóa ở trong nước so với ở nước ngoài. Do đó, khi tỷ giá thực lớn hơn 1
đơn vị sẽ giúp cải thiện được cán cân thương mại.
- Nếu e
R

< 1, thì nội tệ được coi là định giá thực quá cao và ngoại tệ được
coi là định giá quá thấp. Khi tỷ giá thực nhỏ hơn 1 đơn vị sẽ tác động làm cho
cán cân thương mại trở nên xấu đi.
- Nếu e
R
= 1, thì sức mua đối nội và sức mua đối ngoại của hai đồng tiền
là như nhau, tức hai đồng tiền là ngang giá sức mua, do đó, tác động làm cho
cán cân thương mại cân bằng.
*Xét ở trạng thái động:
- Nếu tỷ giá thực tăng, có tác dụng kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân vãng lai.
- Nếu tỷ giá thực giảm, có tác dụng kích thích tăng nhập khẩu và hạn chế
xuất khẩu, làm cho cán cân vãng lai trở nên xấu hơn.
- Nếu tỷ giá thực không đổi, không tác động làm thay đổi trạng thái cán
cân vãng lai.
Vì giá cả hàng hóa ít thay đổi trong ngắn hạn, do đó phá giá tiền tệ, tức
chỉ số e tăng, làm cho tỷ giá thực tăng, tỷ giá thực tăng giúp cải thiện cán cân
thương mại. Đây chính là một trong những nội dung quan trọng của chính sách
tỷ giá được nhiều nước áp dụng thành công.
* Tỷ giá danh nghĩa đa phương
Tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ gọi là tỷ giá song phương. Đối với mỗi
sự thay đổi của tỷ giá song phương ta đều biết được chính xác đồng tiền nào lên
giá và đồng tiền nào giảm giá. Vấn đề phức tạp đặt ra là, tại một thời điểm nhất
định, một đồng tiền có thể lên giá với đồng tiền này, nhưng lại giảm giá với
đồng tiền kia, vậy làm thế nào để biết được một đồng tiền là lên giá hay giảm
giá đối với tất cả các đồng tiền còn lại? Để giải quyết vấn đề này, trong thực tế
người ta dùng khái niệm tỷ giá danh nghĩa đa biên (NEER). NEER phản ánh sự
thay đổi giá trị của một đồng tiền đối với tất cả các đồng tiền còn lại (hay một rổ
các đồng tiền đặc trưng) và được biểu diễn dưới dạng chỉ số: do đó, phương
pháp tính NEER cũng tương tự như phương pháp xác định chỉ số giá tiêu dùng

CPI. Hiện nay, có tới hơn 150 đồng tiền khác nhau, nghĩa là mỗi đồng tiền cũng
có tới trên 150 tỷ giá song phương, do đó, nếu ta bao gồm tất cả các tỷ giá song
phương để tính tỷ giá đa biên thì rất phức tạp và không cần thiết.
* Tỷ giá thực đa biên
Vì NEER là số trung bình của các chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương,
cho nên NEER cũng thuộc loại tỷ giá danh nghĩa, tức chưa đề cập đến tương
quan sức mua hàng hóa giữa nội tệ với các đồng tiền còn lại, do đó khi NEER
thay đổi không nhất thiết phải tác động đến cán cân thương mại. Chính vì vậy,
để biết được tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả đồng tiền còn lại ta phải
dùng khái niệm tỷ giá thực đa biên (REER).
REER được xác định trên cơ sở tỷ giá danh nghĩa đa biên đã được điều
chỉnh bởi tỷ giá lạm phát ở trong nước và ở tất cả các nước còn lại, do đó, nó
phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền còn lại.
2.2.1.2 Kiểm chứng mối quan hệ giữa tỷ giá VND và cán cân thương mại
* Tác động của tỷ giá thực song phương lên cán cân TM
Vì tỷ giá thực song phương chỉ ảnh hưởng trực tiếp lên cán cân thương
mại giữa hai quốc gia có đồng tiền liên quan, chính vì vậy, các nước không tính
và cũng không công bố tỷ giá thực song phương, mà thay vào đó là tính và công
bố tỷ giá thực đa biên. Đối với Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa tính và công bố
chính thức bất cứ một loại tỷ giá thực nào. Trong thời gian qua, do tỷ giá VND
luôn được gắn định với USD, đồng thời do tập quán giao dịch, thanh toán quốc
tế và tâm lý ưa chuộng USD, nên tỷ giá VND/USD luôn có ý nghĩa quan trọng
và nó có ảnh hưởng đến hầu hết các hoạt động kinh tế đối ngoại, mà chủ yếu là
hoạt động xuất nhập khẩu. Để kiểm chứng tác động của tỷ giá VND/USD lên
cán cân TM, chúng ta tiến hành một bước như sau:
Tỷ giá thực VND/USD là e
R
(USD) được tính theo công thức:
e
Ri

(USD) = e
i
(USD) x
USD
i
VN
i
CPI
CPI
* Tác động của tỷ giá thực đa biên lên cán cân thương mại:
Để phân tích vị thế tổng hợp trong cạnh tranh thương mại quốc tế của
Việt Nam đối với các nước, chúng ta cần tính và phân tích tỷ giá thực đa biên
(REER).Các bước tiến hành cụ thể như sau:
Bước 1: Chọn thời điểm gốc. Vì tỷ trọng thương mại của Việt Nam với
các nước thay đổi rất nhiều trong những năm gần đây, hơn nữa cán cân thương
mại lại thâm hụt thường xuyên do đó ta chọn năm 1999 làm năm cơ sở, bởi vì
trong năm này cán cân thương mại Việt Nam gần như cân bằng. Do đó, tỷ giá
phản ánh ngang giá sức mua giữa VND với các đồng tiền còn lại, tức tỷ giá thực
đa biên có thể được xem là bằng 1.Đồng thời, năm 1999 cũng là năm đồng tiền
chung EURO ra đời và được chọn đưa vào trong rổ.
Bước 2: Căn cứ tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các nước để chọn
các đồng tiền đưa vào trong rổ. Về mặt nguyên tắc chọn càng nhiều đồng tiền
tham gia trong rổ thì REER sẽ càng chính xác, tuy nhiên trong thực tế, người ta
thường chỉ chọn những đồng tiền của các nước đối tác có tỷ trọng thương mại
lớn. Qua số liệu thống kê, hiện nay có 4 nước: Nhật, Trung Quốc, khối đồng tiền
chung EURO và Mỹ là có tỷ trọng thương mại lớn nhất, phản ánh xu hướng
thương mại của Việt Nam trong thời gian gần đây và dự báo trong các năm tới,
chính vì vậy ta chọn đồng tiền của 4 đối tác này vào trong rổ.
Bước 3: Căn cứ tỷ giá danh nghĩa song phương của các ngoại tệ với
VND, ta tính các chỉ số tỷ giá danh nghĩa như bảng dưới đây:

Năm (i)
E (USD) E (EUR) E (CNY) E (JPY)
Hàng
năm
99=1
e
i
(USD)
Hàng
năm
99=1
e
i
(EUR)
Hàng
năm
99=1
e
i
(CNY)
Hàng
năm
99=1
e
i
(JPY)
1999 14028 14028 14028 1,000 1694,2 1000 137,26 1,000
2000 14514 13439 13439 0,958 1753,5 1,035 126,32 0,920
2001 15084 13232 13232 0,943 1822,4 1,076 114,45 0,834
2002 15403 16214 16214 1,156 1860,9 1,098 128,47 0,936

2003 15608 19392 19329 1,378 1885,7 1,113 147,29 1,073
2004 15736 1,122 21434 1,528 1901,3 1,122 151,13 1,101
Bước 4: Lập bảng tính tỷ giá NEER.Trong bảng, TM là tỷ trọng thương
mại trung bình của các nước. Tỷ giá NEER trong bảng được tính theo công
thức:
NEER
i
= e
i
(USD) x TM
US
+ e
i
(EUR) x TM
EU
+ e
i
(CNY) x TM
CN
+ e
i
(JPY) x TM
JP
.
Năm
(i)
Mỹ EURO Trung Quốc Nhật
NEER
i
e

i
(USD)
TM
US
e
i
(EUR)
TM
EU
e
i
(CNY)
TM
CN
e
i
(JPY)
TM
JP
1999 1,000 0,1196 1,000 0,3289 1,000 0,2102 1,000 0,3413 1,000
2000 1,035 0,1196 0,958 0,3289 1,035 0,2102 0,920 0,3413 0,970
2001 1,076 0,1196 0,943 0,3289 1,076 0,2102 0,834 0,3413 0,950
2002 1,098 0,1196 1,156 0,3289 1,098 0,2102 0,936 0,3413 1,062
2003 1,113 0,2472 1,378 0,2801 1,113 0,2196 1,073 0,2661 1,191
2004 1,122 0,2151 1,528 0,2614 1,122 0,2662 1,103 0,2573 1,223
Bước 5: Lập bảng tính chỉ số giá tiêu dùng của từng nước đối tác:
Năm
(i)
CPI - US CPI - EURO CPI - CN CPI - JP
Năm

sau so
năm
trước
99 = 1
CPI
i
US
Năm
sau so
năm
trước
99 = 1
CPI
i
EU
Năm
sau so
năm
trước
99 = 1
CPI
i
CN
Năm
sau so
năm
trước
99 = 1
CPI
i

JP
1999 1,0219 1,0000 1,0112 1,0000 0,9859 1,0000 0,9966 1,0000
2000 1,0338 1,0338 1,0234 1,0234 1,0026 1,0026 0,9933 0,9933
2001 1,0283 1,0631 1,0211 1,0450 1,0046 1,0072 0,9927 0,9860
2002 1,0159 1,0800 1,0225 1,0685 0,9923 0,9995 0,9908 0,9770
2003 1,0507 1,1348 1,0211 1,0910 1,0120 1,0115 0,9969 0,9740
2004 1,0441 1,1848 1,0216 1,1146 1,0390 1,0509 1,0000 0,9740
Bước 6: Lập bảng tính chỉ số giá tiêu dùng trung bình của tất cả các nước
theo công thức (trong đó GDP trong bảng là tỷ trọng trung bình):
W US EU CN JP
i i US i EU i CN i JP
CPI CPI x GDP CPI x GDP CPI x GDP CPI xGDP
= + + +
Năm
(i)
Mỹ EURO Trung Quốc Nhật CPI
i
w
CPI
i
US
GDP
US
CPI
i
EU
GDP
EU
CPI
i

CN
GDP
CN
CPI
i
JP
GDP
JP
99=1
1999 1,0000 0,454 1,0000 0,294 1,0000 0,052 1,0000 0,200 1,000
2000 1,0338 0,454 1,0234 0,294 1,0026 0,052 0,9933 0,200 1,021
2001 1,0631 0,454 1,0450 0,294 1,0072 0,052 0,9860 0,200 1,039
2002 1,0800 0,454 1,0685 0,294 0,9995 0,052 0,9770 0,200 1,052
2003 1,1348 0,454 1,0910 0,294 1,0115 0,052 0,9740 0,200 1,083
2004 1,1848 0,454 1,1146 0,294 1,0509 0,052 0,9740 0,200 1,115
Bước 7: Lập bảng tính tỷ giá REER theo công thức:
REER
i
= NEER
i
x
W
i
VN
i
CPI
CPI
Năm NEER
i
CPI

i
W
CPI
i
VN
REER
i
X/N
1999 1,000 1,000 1,000 1,000 0,9829
2000 0,970 1,021 0,994 0,9963 0,9267
2001 0,950 1,039 1,002 0,9851 0,9267
2002 1,062 1,052 1,042 1,0722 0,8466
2003 1,191 1,083 1,073 1,2021 0,7998
2004 1,223 1,115 1,175 1,1605 0,8249
2.2.1.3 Một số kiến nghị
Thứ nhất, tỷ giá là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng nhanh
và mạnh đến trạng thái cán cân thương mại, chính vì vậy khi phân tích diễn biến
và xu hướng vận động của cán cân thương mại, không thể không đề cập đến
nhân tố tỷ giá. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào biểu diễn của tỷ giá danh nghĩa (song
phương hay đa biên) để phân tích ảnh hưởng lên cán cân thương mại là không
chuẩn xác, mà phải sử dụng đến tỷ giá thực và chủ yếu là tỷ giá thực đa biên.
Chính vì vậy, cũng như các nước, Việt Nam cũng cần phải tính và công bố
chính thức tỷ giá thực đa biên của VND với các ngoại tệ càng sớm càng tốt.
Thứ hai, để thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng mạnh hơn thì tỷ giá thực
không thể quá thấp như ở Việt Nam trong suốt thời gian qua. Vấn đề điều chỉnh
tỷ giá không phải là ở chỗ điều chỉnh "tăng mấy đồng" mà phải là điều chỉnh tỷ
giá thực đạt mức bao nhiêu là hợp lý. Để điều chỉnh tỷ giá thực đạt được hiệu
quả theo mong muốn, thì công việc khó khăn và quan trọng nhất là việc duy trì
một tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định trong thời gian dài
Thứ ba, trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam phát triển khá ổn

định, lạm phát tuy không thật ổn định, nhưng có tỷ lệ bình quân thấp, đồng thời
trạng thái tỷ giá thực đang ở mức trên 1 đơn vị, đây là thời cơ tốt để Việt Nam

×