Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Nghiên cứu thành phần hóa học từ cặn chiết CH2Cl2 quả cây trâu cổ ficus pumila l

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.72 MB, 61 trang )

1


2

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
 Các phương pháp sắc ký
TLC
Thin Layer Chromatography: Sắc ký lớp mỏng
CC
Column Chromatography: Sắc ký cột
 Các phương pháp phổ
1

H-NMR

13

C-NMR

Proton Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy: Phổ cộng
hưởng từ hạt nhân proton
Carbon-13 Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy: Phổ

DEPT

cộng hưởng từ hạt nhân carbon 13
Distortionless Enhancement by Polarisation Transfer: Phổ

COSY


DEPT
Correlation Spectroscopy: Phổ tương tác 2 chiều đồng hạt nhân
1

HSQC

H-1H
Heteronuclear Single Quantum Correlation: Phổ tương tác hai

HMBC

chiều trực tiếp dị hạt nhân
Heteronuclear Multiple Bond Correlation: Phổ tương tác đa liên

kết hai chiều dị hạt nhân
s: singlet (vạch đơn)
d: doublet (vạch đôi)
dd: double doublet (tách đôi vạch đôi)
 Các chữ viết tắt khác
TMS
Tetramethyl silan
CTPT
Công thức phân tử
 Tên của các hợp chất được viết theo nguyên bản Tiếng Anh

DANH MỤC CÁC BẢNG


3


DANH MỤC CÁC HÌNH


4


5

MỤC LỤC


-6-

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Từ xa xưa, để tồn tại được trong tự nhiên con người đã biết tìm kiếm các
vị thuốc từ những cây cỏ mọc hoang để chữa bệnh. Những hiểu biết về các
cây cỏ có lợi và có hại được truyền miệng, ghi chép, đúc kết thành kinh
nghiệm qua nhiều thế hệ. Ngày nay, qua hàng ngàn năm phát triển nền y học
cổ truyền của Việt Nam đã có các bài thuốc dân gian rất đa dạng và phong
phú. Trong đó có nhiều bài thuốc, vị thuốc có tác dụng tốt trên lâm sàng
nhưng chưa được nghiên cứu về thành phần hóa học, tác dụng dược lý và độc
tính. Chính vì vậy việc nghiên cứu để khai thác, kế thừa, ứng dụng và phát
triển nguồn thực vật làm thuốc là vấn đề có ý nghĩa khoa học, kinh tế và xã
hội rất lớn ở nước ta. Con đường hữu hiệu nhất để phát hiện ra các chất có
hoạt tính tiềm năng, có khả năng phát triển thành thuốc chữa bệnh cho con
người là đi từ những hợp chất nhiên nhiên. Các phương pháp thường sử dụng
là công nghệ tách chiết, đã có rất nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học được
phát hiện và sản xuất, phục vụ cho cuộc sống của con người.
Với hơn 12.000 loài thực vật phong phú và đa dạng, trong đó nhiều loài

đã được sử dụng trong các bài thuốc y học cổ truyền cho thấy giá trị to lớn từ
nguồn dược liệu thiên nhiên của Việt Nam [2].. Nhiều loài dược liệu đã được
dùng làm thuốc như cây Lược vàng có tác dụng điều trị bệnh tiểu đường, cây
Cà gai leo có tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư gan, cây Trinh nữ hoàng cung có
tác dụng điều trị u sơ cổ tử cung, cây Xạ đen có nhiều tác dụng quý giá như
chữa trị một số loại bệnh ung thư, … Do vậy ngày nay các nhà hóa học hữu
cơ vẫn đang tiếp tục nghiên cứu phân lập và xác định cấu trúc các hợp chất
khác nhau từ các loài thực vật trong đó có cây Trâu cổ nhằm làm sáng tỏ
thành phần hóa học của chúng, định hướng khoa học trong việc sử dụng các
loài thực vật này và phát hiện các hoạt chất có tác dụng sinh học.


-7-

Chi Trâu cổ có tên khoa học là Ficus, ở Việt Nam có 99 loài và nhiều
loài đã được sử dụng trong y học cổ truyền điều trị rất hiệu quả một số bệnh
như trị bệnh phong thấp, giảm đau, thanh nhiệt, trị viêm khớp xương, cũng
dùng để trị mụn nhọn, ngứa lở; một số loài còn dùng quả để bồi bổ sức
khỏe, ... góp phần mở ra tiềm năng nghiên cứu hóa thực vật về các loài này
[2].. Dựa trên các tài liệu tham khảo cho thấy cho đến nay vẫn chưa có công
trình khoa học nào công bố về thành phần hóa học về quả cây Trâu cổ trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ. Xuất phát từ các lý do trên, nhằm mục tiêu tìm kiếm các
hợp chất thiên nhiên từ các loài thực vật của Việt Nam, góp phần làm sáng tỏ
thành phần hóa học và tạo cơ sở khoa học cho việc sử dụng các loài thảo
dược, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu thành phần hóa học từ cặn
chiết CH2Cl2 quả cây Trâu cổ (Ficus pumila L.)”.
2. Mục tiêu đề tài
- Điều chế cặn chiết CH2Cl2 quả cây Trâu cổ và phân lập được chất sạch
từ cặn chiết dichloromethane quả cây Trâu cổ.
- Xác định cấu trúc hợp chất phân lập được từ cặn chiết dichloromethane

quả cây Trâu cổ bằng các phương pháp phổ.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả của đề tài góp phần cung cấp thông tin cho
lĩnh vực nghiên cứu hóa thực vật về thành phần hóa học quả cây Trâu cổ
(Ficus pumila L.).
- Ý nghĩa thực tiễn: Nội dung đề tài là tài liệu tham khảo cho cán bộ,
sinh viên nghiên cứu về hóa học các hợp chất thiên nhiên. Kết quả đề tài còn
góp phần cung cấp cơ sở khoa học định hướng cho việc nghiên cứu và sử
dụng quả cây Trâu cổ. Thông qua việc thực hiện đề tài tăng cường khả năng,
kĩ năng chiết tách, phân lập hợp chất thiên nhiên, trang bị hiểu biết về các
phương pháp phổ.


-8-

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Giới thiệu về chi F.pumila L.
Chi Trâu cổ có tên khoa học là Ficus, thuộc họ Dâu tằm (tên khoa học là
Moraceae). Theo tác giả Võ Văn Chi trong cuốn “Từ điển thực vật thông
dụng” cung cấp các thông tin về chi Trâu cổ cho thấy chi này có khoảng 800
loài. Các loài thuộc chi Trâu cổ tập trung ở vùng khí hậu nhiệt đới; phần lớn ở
các vùng Ấn Độ, Mã Lai [1]..
Đặc điểm thực vật chung của các loài Trâu cổ là ở các dạng cây như gỗ
lớn, cây gỗ nhỡ hoặc dạng dây leo. Về đặc điểm lá các loài cây này có kiểu
mọc so le, mọc đối. Các loài này có đặc điểm lá kèm thường rụng sớm. Hoa
của các loài Trâu cổ gọi là “sung” gồm một đến hoa kín chứa nhiều hoa.
Trong đế hóa sung có các hoa đực, hoa cái hoặc hoa trung tính. Hoa đọc ở
phía trên, hoa cái ở phía dưới còn hoa trung tính thì tiêu giảm thành đài hoặc
hoa cái [1].. Ở Việt Nam, chi Trâu cổ có 99 loài, trong đó nhiều loài đã được
sử dụng trong dân gian [1]..

(1) F. abelii Miq – Tên cây theo Tiếng Việt: Sung chè, Rù rì.
Cây rù rì là cây mọc bụi với chiều cao khoảng 1-2m, cành và cuống lá có
lông dày xám. Lá cây rù rì mọc so le có hình trứng ngược thuôn hoặc hình dải
với chiều dài 4-8cm, chiều rộng 1-2cm, phần mặt trên bóng còn mặt dưới đầy
lông xám, gốc nhọn hoặc tù tròn; gân bên có 7-10 đôi; phần cuống lá dài 48mm. Cụm hoa của cây Rù rì có hình trứng ngược tròn hay hình quả lê có
chiều dài 7-18mm và đường kính 5-10mm, có lông mịn, trên cuống dài 620mm và quả khi chín có màu đo đỏ.
Rù rì phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Mianma và Việt Nam.
Ở nước ta cây thường mọc hoang trong rừng, ven sông suối từ Lạng Sơn, Hà
Tây, Thanh Hóa vào Thừa Thiên – Huế. Ở Vân Nam ( Trung Quốc), thân cây
này được dùng làm thuốc chữa thanh nhiệt lợi niệu và chỉ thống.


-9-

Hình 1.1. Cây rù rì
(2) F. altissima Blume – Tên cây theo Tiếng Việt: Đa tía, Đa.
Cây Đa tía ở dạng gỗ lớn, có chiều cao lên đến 25m, không có rễ phụ,
cành ngang. Lá cây Đa tía mọc so le, có hình bầu dục hoặc trái xoan với chiều
dài 8-21cm, chiều rộng 4-12cm, bo tròn ở gốc nhưng tù và có mũi nhọn ở
đầu, phiến lá cây dày, dai và nhẵn bóng ở cả 2 mặt 3-5 gân gốc, gân bên 4-5
đôi. Cây Đa tía có cuống lá dài 2,8-5,5cm, hơi dẹt, khía rãnh. Lá kèm có lông.
Trên thế giới cây Đa tía tập trung phân bố từ Ấn Độ, Trung Quốc, Việt
Nam đến Malaixia, Inđônêxia và Philippin. Ở nước ta cây thường được trồng
rộng rãi ở nhiều nơi như Lạng Sơn, Phú Thọ, Hà Tây... và Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Quảng Trị. Ở Trung Quốc rễ phụ của cây được dùng làm thuốc chữa
các bệnh như: thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, giảm đau.

Hình 1.2. Cây đa tía



-10-

(3) F. carica L. – Tên cây theo Tiếng Việt: Sung ngọt, Vả tây.
Vả tây là cây gỗ nhỏ, thường mọc ở dạng bụi với độ cao trung bình 34m, song thân cây có thể có chu vi tới 1m. Lá cây Vả tây dai, nạc, có lông, dài
và rộng khoảng 10-20cm, chúng có hình chân vịt hoặc dạng tim nhiều hay ít,
rất đa dạng, thường có 5-7 thùy cách nhau bởi những góc lõm sâu; phiến lá
màu xanh sẫm ở trên, xanh nhạt ở dưới và ráp. Quả Vả tây to, hình dạng như
quả lê, hình gụ hay gần hình cầu, màu thay đổi khi chín.
Cây Vả tây thường tập trung ở vùng cận Đông (Xyri, Iran, Á Tiểu Á, Hy
Lạp) nay trở thành cây mọc hoang dại ở vùng Địa Trung Hải. Quả khi chín ăn
rất ngọt nên thường được dùng để ăn tươi hoặc phơi khô như Chà là. Ở Ấn
Độ quả Vả tây thường được dùng làm thức ăn bổ dưỡng, dịch quả xanh được
dùng để hủy các mụn hạt cơm thường.

Hình 1.3. Quả vả tây
(4) F. elastica Roxb. Ex Horn – Tên cây theo Tiếng Việt: Đa búp đỏ.
Cây Đa búp đỏ ở dạng gỗ lớn, chiều cao lên đến 30m có tán xòe rộng, rất
nhiều rễ phụ to ở thân và cành. Cây này có nhiều cành, chắc khỏe và có màu
nâu xám, nhẵn.
Cây Đa búp đỏ có lá mọc so le, phiến lá thuôn dài hoặc hình trái xoan, tù
ở gốc và mũi nhọn ở đầu, có 3-5 gân gốc, mặt trên màu xanh lục bóng. Lá


-11-

kèm bọc lấy các lá non thành một búp đỏ ở đầu cành và rất dài, màu đỏ, mềm
nhưng sớm rụng.
Cây Đa búp đỏ thường phân bố chủ yếu ở Mianma, Malaixia, Ấn Độ,
Neepan, Việt Nam. Ở nước ta cây được nhập vả trồng ở nhiều thành phố lớn,
nay trở thành cây mọc hoang dại vùng đồng bằng và vùng núi cao đến 1000m.

Các bộ phận của cây có rất nhiều tác dụng như lá thường được dùng làm
thuốc giải cảm cho ra mồ hôi; tua rễ lợi tiểu, thường được dùng để chữa phù
nề, sơ gan cổ trướng; mủ dùng để chữa mụn nhọt.

Hình 1.4. Cây đa búp đỏ
(5) F. erecta Thunb. Var. Beecheyana Kinh - Tên cây theo Tiếng Việt:
Sung thiên tiên.
Sung thiên tiên là cây ở dạng gỗ, cây nhỡ, cao 1-8m, cành to 5mm, lóng
ngắn, lúc non lá có lông nằm. Phiến lá hình bầu dục thon, dài 7-18cm, rộng
3,5 – 9cm, đầu nhọn, gốc hẹp hình tim, gân từ gốc chạy đến ½ phiến, gân bên
5 đôi, cuống dài 1,5cm; lá kèm 1cm. Quả sung cô độc, tròn tròn, đường kính
1-1,8cm, trên cuống dài 2,3 cm; bao chung có 3 lá bắc nhỏ; hoa đực rải rác,
có 3 lá bắc, 2-3 nhị; hoa cái có 3 lá đài, vòi nhụy dài; quả bé 1-3mm.


-12-

Cây này phân bố chủ yếu ở Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, và Việt
Nam. Ở nước ta cây thường mọc trong rừng ở Thanh Hóa. Cây. Ở Trung
Quốc, các bộ phận của cây đề được dùng làm thuốc như rễ cây được dùng
chữa phong thấp, đau nhức xương; quả sung dùng để chữa bệnh trĩ.

Hình 1.5. Cây sung thiên tiên
(6) F. hirta Vahl – Tên cây theo Tiếng Việt: Vú bò, Ngái lông.
Cây Vú bò nhỏ, chiều cao khoảng 2-8m, có nhựa mủ; các bộ phận như
cành, lá, cuống lá và hoa đều có lông hoe dày.
Cây Vú bò có lá hình bầu dục, hay xoan ngược, phiến đơn hay chia 3
thùy, chiều dài khoảng 8-25cm, chiều rộng khoảng 4-13cm, thuôn tròn ở gốc,
có mũi nhọn ở đầu, có lông nhám ở trên, lông hoe dài ở mặt dưới, mép có
răng, cuống 2,5-5cm, có lông dày, cứng.

Cây Vú bò phân bố chủ yếu ở Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam. Ở nước ta
cây mọc hoang ở nhiều nơi nhưng thường gặp trong rừng thứ sinh, trên đất
trống khe núi, ở các nguồn nước.
Cây Vú bò ra hoa từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau. Người ta
thường bện dây từ vỏ thân cây. Rễ cây có tác dụng hiệu quả trong việc trị
phong thấp, tổn thương do lao lực, đòn ngã tổn thương, bạch đới, ít sữa.


-13-

Hình 1.6. Cây vú bò
(7) F. sumatrana Miq.var. subsumatrana Corner – Tên cây theo Tiếng
Việt: Đa cừa, Cừa.
Cây đa cừa là cây gỗ, cao 20m, dày 80cm ở gốc, nhánh non khá mảnh,
dây 3-5mm, có mắt xít nhau. Lá cây có hình bầu dục, tù hay tròn ở gốc, hơi
thót lại ở đầu tù. Lá cây dài 5-10cm, rộng 3-5cm, rất nhẵn, dai; mép nguyên;
gân gốc 3, gân phụ 5 đôi, dính nhau với gân mép. Cuống lá dài 15mm, dẹp,
không có rãnh, rộng 2,5mm, kéo dài dưới phiến tới các gân gốc bên chính; Lá
kèm hình ngọn giáo nhọn, dài 15-18mm.
Đa cừa thường phân bố ở Việt Nam, Lào, Campuchia và Indonexia. Ở
nước ta, đa cừa có thể gặp ở ven rừng núi từ Quảng Trị vào tới Lâm Đồng.
Nhựa mủ của cây thường dùng để cầm máu các vết thương.

Hình 1.7. Cây đa cừa


-14-

(8) F. pumila L. – Tên cây theo Tiếng Việt: Trâu cổ, Xộp, Vẩy ốc.
Trâu cổ là cây leo có nhiều dễ bám, thân áp sát vào vách đá, vào cây hay

bờ tường; lúc non có nhựa mủ trắng; nhánh nhiều, ngắn, mềm, mảnh, màu
nâu hồng. Lá cây Trâu cổ có lông ngắn, các nhánh bò mang lá không cuống,
gốc hình tim, các nhánh tự do mang lá lớn hơn, phiến lá hình trái xoan hay
hình bầu dục, nhẵn cả 2 mặt, mép lá nguyên, có 3-5 gân gốc, nổi rõ ở mặt
dưới; cuống lá có lông.
Cây Trâu cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nhật Bản và được trồng ở
nhiều nước. Ở nước ta cây được trồng ở nhiều nơi, đặc biệt là các thành phố
và thị xã. Cây trâu cổ ưa ẩm, khí hậu mát trong điều kiện đủ ánh sáng. Nhiều
bộ phận của cây như: rễ, dây dùng trị phong thấp, sưng độc, ung nhọt và kinh
nguyệt không đều; quả phức được sử dụng làm thuốc trị lị lâu ngày.
Ngoài việc trị viêm khớp xương, nhức mỏi chân tay, đòn ngã tổn thương;
lá trâu cổ cũng dùng để trị mụn nhọn, ngứa lở; nhựa cây còn dùng để bôi ghẻ
lở, hắc lào...

Hình 1.8. Cây vảy ốc


-15-

(9) Ficus squamosa Roxb: Sung vẩy
Loài Trâu cổ mới được các nhà khoa học Việt Nam phát hiện tại Khu bảo
tồn thiên nhiên Chạm Chu-Hàm Yên-Tuyên Quang vào năm 2017 [6]..

Hình 1.9. Cây Sung vẩy
Cây bụi thấp, cao đến 50 cm, mọc đứng, rễ mọc nhiều từ cành và thân.
Cành và cuống lá phủ dày lông cứng, màu nâu. Lá kèm hình mác, dài cỡ 5-10
mm, mặt ngoài với lông cứng, màu nâu ở phía chóp lá. Lá mọc đối, tập trung
ở đỉnh cành; cuống lá dài 0.5-1 cm, với lông cứng dày, màu nâu; phiến lá hình
mác ngược đến thuôn, cỡ 4.5-13 × 1.2-3.2 cm, chất giấy, mặt dưới phủ lông
cứng dày, màu nâu dọc trên gân chính; trên gân phụ lông mịn và thưa, phiến

lá mặt trên màu xanh đậm và có lông tơ cứng rải rác, gốc lá hình nêm hẹp,
mép lá nguyên hoặc ở phía chóp lá có răng; chóp lá nhọn; gân gốc lá ngắn,
gânbên cỡ 6-8 cặp, đầu các gân cong và vấn hợp ở mép lá. Quả dạng quả sung
(figs), quả hình hình bầu dục, hình cầu, mọc ở nách lá hoặc trên cành già rụng
lá, mọc đơn độc; đường kính cỡ 1,5-2 cm, có các khía dọc nổi rõ, mặt ngoài
có lông dày, rậm và các nốt sần trắng nổi rõ; cuống quả ngắn, cỡ 8 mm; lá bắc
tổng bao không bằng nhau. Hoa đực: đài xẻ 3 – 4 thùy; nhị 1; bao phấn hình
trứng đến hình trứng ngược. Hoa cái bất thụ: thùy đài rõ; bầu mịn và nhẵn,


-16-

nằm trong các thùy đài; vòi nhụy lệch bên, ngắn; núm nhụy dạng ống. Hoa
cái: cấu tạo giống hoa cái bất thụ; vòi nhụy mềm và lâu rụng, với lông cứng
dài. Quả (thật) hình thoi-hình trứng, có lông cứng.
1.2 Đặc điểm thực vật cây Trâu cổ
Nhờ có rễ bám, cây Trâu cổ ở dạng cây leo, thân mềm áp sát vào vách
đá, vỏ cây hay bờ tường; lúc non có nhựa mủ trắng; nhánh nhiều, ngắn, mềm,
mảnh và màu nâu hồng, lúc non có lông ngắn; các nhánh bò mang lá không
cuống, gốc hình tim, nhỏ như vẩy ốc; ở dạng trưởng thành, các nhánh tự do
mang lá lớn hơn. Cụm hoa mọc ở nách lá. Quả phức lớn, mọc đơn ở nách lá,
hình chóp ngược. Quả trâu cổ có màu đỏ sẫm khi chín, mềm, nạc thơm. Trâu
cổ là cây ưa ẩm, mát trong điều kiện đủ ánh sáng. Mùa hoa quả từ tháng 3-10
hàng năm [1]., [4]..
Phiến lá trâu cổ hình trái xoan hoặc hình bầu dục, tù cả hai đầu, nhẵn cả
hai mặt, màu lục đậm, dai, mép lá nguyên, có 3-5 gân gốc, nổi rõ ở mặt dưới;
cuống lá có lông.

Hình 1.10. Cây Trâu cổ
1.3 Các nghiên cứu về hóa thực vật chi Ficus

Theo như một số công trình nghiên cứu đã được công bố về thành phần
hóa học các loài Trâu cổ cho thấy chúng chứa các hợp chất phytosterol, tanin


-17-

thuộc loại pyrocatechic, ... Trong cuốn từ điển “Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam” của tác giả Đỗ Tất Lợi đã đề cập đến hoạt chất của vỏ quả cây trâu
cổ có tới 13% chất gôm, khi thủy phân chất này cho glucose, fructose và
arabinose; trong thân và lá có một ít alcaloid [4]..
Năm 1998, tác giả Nhật Bản Junichi KITAJIMA và cộng sự đã phân lập
được hợp chất dẫn xuất của tocopherol mới (1) từ lá cây F.pumila [12]..

Năm 1999, nhóm tác giả Junichi KITAJIMA và cộng sự tiếp tục nghiên
cứu cây F.pumila và đã phân lập và xác định cấu trúc một số hợp chất
dammarane acetylated triterpenoid từ quả loài cây này gồm 3β-acetoxy22,23,24,25,26,27-hexanordammaran-20-one

(2),

3β-acetoxy-

20,21,22,23,24,25,26,27-octanordammaran-17β-ol (3) [13]..

Tiếp theo từ năm 1999 đến 2012 khoảng hơn 50 hợp chất thiên nhiên thứ
cấp khác nhau đã được phân lập từ các loài khác nhau của chi Trâu cổ, trong
đó có các hợp chất flavonoid như quercitin (4), cyanidin-3-O-glucoside (5);
cyanidin (6), rutin (7); các terpenoid lupeol (8), guaiazulene (9), cadalene
(10); ρ-cymene (11), lutein (12); các alkaloid như dopamine (13), adrenaline
(14), serotonin (15), tylophorin (16); các hợp chất coumarin như umbeliferone
(17),


5-O--D-glucopyranosyl-8-hydroxypsoralen

(18),

8-O--D-

glucopyranosyl-5-hydroxypsoralen (19), psoralen (20), marmesin (21) [11]..


-18-

(12)

(16)


-19-

Năm 2014, nhóm tác giả Đài Loan đã phân lập được một số hợp chất
thiên nhiên 4-(2-hydroxyethyl)-2-methoxyphenol (22), meso-2,3-butanediol
(23), (2R,3R)-2,3-butanediol (24), (2S,3S)-2,3-butanediol (25) từ quả xanh
loài Ficus nota [16]..

Năm 2016 nhóm tác giả Malaysia Shukranul Mawa đã phân lập được
hợp chất triterpenoid 28,28,30-trihydroxylupeol (26) từ thân cây Ficus
aurantiaca Griff [15]..

Ở Việt Nam, năm 2017, tác giả Phạm Thị Nhật Trinh và cộng sự đã tách
được hợp chất isoquercitrin (27) cùng nhiều hợp chất khác từ lá cây Ficus

pumila L. Kết quả này đã được nhóm nghiên cứu công bố trên tạp chí Natural
Products Research [17]..


-20-

Cũng trong năm 2017, tác giả Đào Thị Hải Yến trong nhóm nghiên cứu
của Trường Đại học Hùng Vương khi nghiên cứu về cây Trâu cổ đã phân lập
được hợp chất β-Sitosterol (28) từ cặn chiết n-hexane của lá cây Trâu cổ [10]..

Gần đây nhất vào năm 2018, trong nhóm nghiên cứu của Trường Đại học
Hùng Vương về cây Trâu cổ, tác giả Hoàng Hương Ly đã phân lập được hợp
chất Taraxerol (29) từ cặn chiết n-hexane lá cây Trâu cổ. Đây là hợp chất
triterpenoid khung taraxerane lần đầu tiên được phân lập từ chi Ficus [5]..

(29)


-21-

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Thu hái quả cây Trâu cổ vào tháng 7/2018 tại Phường Hùng Vương –
Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ. Tên cây được giám định bởi nhà thực vật học
Đỗ Văn Hài – Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật-Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam. Tiêu bản cây kí hiệu QHT_01 được lưu giữ tại Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam và tại Phòng Nghiên cứu các hợp chất thiên nhiên-Bộ môn Hóa họcKhoa Khoa học Tự nhiên-Trường Đại học Hùng Vương.
Phạm vi nghiên cứu: 2-3 phân đoạn nhỏ dịch chiết CH2Cl2 của quả cây

Trâu cổ.
2.2 Hóa chất và thiết bị nghiên cứu
Để phân lập hợp chất thiên nhiên thường sử dụng các dung môi phổ biến
như: n-hexane, CH2Cl2, EtOAc, MeOH, Acetone đều là hóa chất kỹ thuật của
Hàn Quốc và được chưng cất lại trước khi sử dụng.

Hình 2.1. Các dung môi phổ biến
Máy cất quay chân không IKA®RV 10 của Anh được sử dụng để quay
cất các dung môi dưới áp suất giảm.


-22-

Hình 2.2. Máy cất quay chân không
Các hỗn hợp sản phẩm được tinh chế bằng phương pháp sắc ký cột silica
gel và sắc ký lớp mỏng:
Với sắc ký cột silica gel, tùy vào lượng mẫu chất ta mà sử dụng các cột
sắc ký có kích cỡ khác nhau như: φ1; φ2; φ2,5; φ4; φ10. Chất nhồi cột sắc ký
là silica gel 60 (0,063 – 0,200 mm), (70 – 230 mesh astm) đều của hãng
Merck.
Với sắc ký lớp mỏng, ta sử dụng bình sắc ký lớp mỏng Camag và bản
mỏng sắc ký tráng silicagel 60 F254 trên tấm nhôm 20 × 20 cm của Đức.

Hình 2.3. Bình triển khai sắc kí bản mỏng
Sử dụng bộ chưng cất dung môi để chưng cất phân đoạn các dung môi
trước khi sử dụng.


-23-


Hình 2.4. Bộ chưng cất dung môi
Hệ thống đèn UV CAMAG được sử dụng để hiện màu dưới bước sóng
UV 254; 366 nm.

Hình 2.5. Máy soi UV
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Phương pháp ngâm chiết
Nguyên tắc tổng quát trong chiết tách hợp chất ra khỏi mẫu cây mà
người khảo sát cần dựa vào là lựa chọn dung môi và quy trình phù hợp, điều
này tùy thuộc vào đặc tính của chất thứ cấp có trong cây mà người khảo sát


-24-

mong muốn tách cô lập. Vì cấu trúc hóa học đa dạng của những hợp chất tự
nhiên, với tính chất phân cực khác biệt, nên không thể có một quy trình tổng
quát nào có thể áp dụng chung cho tất cả các nhóm. Chính vì vậy cần phải thu
thập đầy đủ các tài liệu tham khảo liên quan trực tiếp đến cây trước khi tiến
hành thực nghiệm để chọn được quy trình phù hợp. Sau đó lựa chọn các dung
môi phù hợp với độ phân cực tăng dần (n-hexane, CH2Cl2, EtOAc, MeOH,
…) để chiết hợp chất ra khỏi cây cỏ đồng thời sử dụng kỹ thuật chiết tách phù
hợp bằng cách ngâm dầm. Sau khi lấy mẫu cây về đem rửa sạch, để khô nước,
thái nhỏ rồi đem phơi khô. Sau khi mẫu đã khô, đem mẫu ngâm lần lượt với
các dung môi: n-hexane; CH2Cl2, EtOAc, MeOH. Mỗi lần ngâm trong 24h sẽ
thu được dịch chiết, sau đó dung dịch chiết được lọc qua giấy lọc, thu hồi
dung môi sẽ thu được cao chiết. Sử dụng máy cô quay chân không ở nhiệt độ
dưới 50oC để thu hồi dung môi qua lọc và thu được cặn chiết tương ứng.
Không nên chưng cất loại dung môi ở nhiệt độ cao vì các hợp chất thiên nhiên
kém bền nhiệt sẽ bị phân hủy [7]..
2.3.2 Phương pháp sắc ký

2.3.2.1 Phương pháp sắc ký lớp mỏng

A, B: Các vệt
chất được
phân tách
Hình 2.6. Minh hoạt sắc ký lớp mỏng
Sắc ký lớp mỏng hay còn gọi là sắc ký phẳng, chủ yếu dựa vào khả năng
hấp phụ khác nhau của các chất trên silica gel (pha tĩnh) sẽ được dung môi
rửa giải (pha động) khi đi lên theo lực mao quản sẽ phân tách (giải hấp) ở các


-25-

vị trí khác nhau trên đường đi của dung môi. Chất có độ phân cực kém hơn sẽ
đi lên nhanh hơn chất có độ phân cực cao hơn [7]..
Sắc ký lớp mỏng có ưu điểm: Sử dụng ít chất hấp thu, cần rất ít mẫu
phân tích, quá trình triển khai sắc ký nhanh nên trong một thời gian ngắn có
thể biết ngay kết quả mẫu cần phân tích có chứa bao nhiêu chất khác nhau
[7]..
Sắc ký lớp mỏng dùng để khảo sát thành phần và sắc ký lớp mỏng điều
chế đều được thực hiện trên bản mỏng đế nhôm tráng sẵn Silica gel 60 F254
có độ dày 0,25 mm của hãng Merck. Sau đó sử dụng dung môi để triển khai là
1 hoặc hỗn hợp một số dung môi thông dụng như n-hexane, CH2Cl2, EtOAc,
Acetone, MeOH, EtOH. Ceri sulfate là hóa chất được sử dụng làm thuốc thử
hiện màu.
Độ linh động của chất được đánh giá thông qua hệ số Rf.

Rf =

Khoảng cách từ điểm xuất phát đến tâm của vết mẫu thử

Khoảng cách từ điểm xuất phát đến mức dung môi
đo trên cùng đường đi của vật

Nếu Rf(A) ≠ Rf(B) thì hai chất A, B được coi là tách riêng khỏi nhau khi
triển khai sắc ký TLC. Từ hệ dung môi khi khảo sát TLC làm cơ sở để lựa
chọn hệ dung môi cho sắc ký cột silica gel.
2.3.2.2 Phương pháp sắc ký cột


×