Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sở thẩm vụ án hình sự tại tòa án nhân dân thị xã phú thọ, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.1 KB, 98 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng
cá nhân tác giả. Các nội dung, thông tin, kết quả được trình bày trong luận văn
là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn
không trùng lắp với các công trình có liên quan đã được công bố./.
Hà Nội, tháng 4 năm 2020
Tác giả

Hà Thu Hiền


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ này, bên cạnh sự nỗ lực, cố
gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của Quý Thầy Cô, cũng
như sự ủng hộ của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt thời gian học tập,
nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Với tình cảm và sự biết ơn chân thành nhất, tác giả luận văn xin được
gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TSKH Đào Trí Úc, người đã trực tiếp hướng
dẫn tận tình, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tác giả hoàn thành luận
văn này.
Xin chân thành cảm ơn toàn thể Quý Thầy Cô của Học viện Hành chính
Quốc gia đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và cho đến khi thực hiện xong luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo và
các bạn đồng nghiệp Tòa án Nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ - nơi tác
giả công tác đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu./.
Hà Nội, tháng 4 năm 2020
Tác giả



Hà Thu Hiền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA BỊ
CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ....................11

1.1. Khái niệm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.....................................................................................................................11
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người............................11
1.1.2. Khái niệm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự............................................................................................................................. 16
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện quy định về quyền của bị cáo
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.......................................................... 26

1.2. Quy định của pháp luật về quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.......................................................................................... 28
1.2.1. Các quyền chung của các chủ thể trong tố tụng hình sự................................28
1.2.2. Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự....................31

1.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự............................................................................................................. 39
1.3.1. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm........................................................................................................................ 40
1.3.2. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm...........................40
1.3.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ
thẩm........................................................................................................................ 44
1.3.4. Vai trò của bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân................................................................... 44
Tiểu kết Chương 1................................................................................................... 49
Chương 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ
THỌ, TỈNH PHÚ THỌ VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP...........................51


2.1. Thực trạng quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
tại Toà án nhân dân thị xã Phú Thọ.................................................................51
2.1.1. Đặc điểm tình hình Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ..............51
2.1.2. Những kết quả đạt được................................................................................ 53
2.1.3. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng
mắc trong thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự..................................................................................................................... 58

2.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm đảm bảo quyền của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..................................................................66
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định về pháp luật.................................................. 66
2.2.2. Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện 70
2.2.3. Các giải pháp................................................................................................. 75
Tiểu kết Chương 2................................................................................................... 85
KẾT LUẬN............................................................................................................. 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 87


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự


BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HTND:

Hội thẩm nhân dân

KSV:

Kiểm sát viên

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:


Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

HĐXX:

Hội đồng xét xử

CQĐT:

Cơ quan điều tra


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư
luận và có sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội ở tất
cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Các quốc gia đã hiện thực hóa và
phản ánh vào các quy phạm pháp luật của quốc gia mình để tạo cơ chế bảo
đảm quyền con người được thực thi trên thực tế. Ở Việt Nam, việc bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, đã
được ghi nhận trong toàn bộ hệ thống pháp luật, đặc biệt đối với các quy định
pháp luật trong tố tụng hình sự mà mấu chốt thực hiện các quyền này ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay.
Bởi lẽ, xét về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Tòa án nhân dân
cấp huyện xét xử những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, với khung hình phạt cao nhất đến

15 năm tù. Chế tài hình sự áp dụng đối với bị cáo ở Tòa án nhân dân cấp
huyện nghiêm khắc như vậy nên càng không cho phép bất cứ có sự sai sót,
hay “tai nạn công lý” đối với cơ quan, người tiến hành tố tụng. Điều này đặt
ra yêu cầu ngày càng khắt khe hơn trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân cấp huyện là phải bảo vệ quyền cho bị cáo tốt nhất, hạn chế oan, sai trong
hoạt động xét xử sơ thẩm.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc nâng cao
chất lượng xét xử vụ án hình sự nói chung và vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa
án nhân dân cấp huyện nói riêng. Một trong các chủ trương, chính sách đó là
không ngừng nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Kiểm sát viên; kiện toàn tổ chức, hoạt động và phát huy vai trò của đội ngũ
luật sư, cơ quan bổ trợ tư pháp, qua đó bảo đảm các bản án được tuyên đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội.

1


Những nỗ lực trên đây được ghi nhận trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2003, Hiến pháp năm
2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) năm 2014, Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS)
năm 2015... Việc hoàn thiện về tổ chức các cơ quan tư pháp và hệ thống pháp luật
đã có tác động tích cực đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó
có chất lượng hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân. Tỷ
lệ các vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện bị oan, sai, vi phạm tố
tụng xâm phạm đến quyền của bị cáo đã giảm đi rõ rệt.

Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ những năm qua, cùng với sự phát triển
kinh tế - xã hội, việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân cũng được
phát triển. Trong bối cảnh đó, tình hình trấn áp, xử lý tội phạm, bảo vệ an ninh

chính trị xã hội được đề cao, nhiều loại tội phạm phức tạp cũng xuất hiện. Từ
bắt, tạm giữ, điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự là một quá trình dài để
buộc tội, kết án đối với những chủ thể bị buộc tội khác nhau. Việc đảm bảo
quyền của những chủ thể bị buộc tội này là rất cần thiết để hoạt động tố tụng
tiến hành đúng pháp luật, khởi tố, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đảm
bảo việc không để làm trái, làm sai pháp luật, xâm phạm đến quyền của
những người bị buộc tội.
Tuy nhiên, trên thực tế, các quyền của bị cáo ở một số phiên tòa xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện trong cả nước nói chung
và ở Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ nói riêng chưa thật sự được bảo đảm, nhiều
quyền của bị cáo vẫn còn bị hạn chế, vi phạm. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn để có những kiến nghị nhằm bảo đảm quyền
của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
cấp huyện là nhiệm vụ cấp thiết. Đây chính là lý do khích lệ học viên lựa chọn
đề tài:“Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa
án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ” làm luận văn thạc sỹ luật học của

2


mình với mong muốn kết quả nghiên cứu của đề tài không chỉ cần thiết với
Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ mà còn có ý nghĩa đóng góp
thiết thực đối với việc đảm bảo quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự với Tòa án nhân dân cấp huyện trên phạm vi cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo thông tin tra cứu tại Thư viện Quốc gia, Thư viện các cơ sở đào
tạo Luật của Việt Nam, các tạp chí khoa học chuyên ngành luật và các nguồn
thông tin khác, tính đến thời điểm nghiên cứu mà tác giả tiếp cận có một số
công trình nghiên cứu về đề tài này dưới các góc độ khác nhau. Bên cạnh đó,
có thể kể đến những công trình nghiên cứu và một số bài viết liên quan đến đề

tài này như:
Đề cập đến vấn đề quyền con người nói chung có các công trình khoa
học tiêu biểu như: GS.TS Hoàng Văn Hảo và PGS.TS Phạm Khiêm Ích (chủ
biên) (1995), Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin Khoa
học Xã hội, Hà Nội; PGS.TS Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và
luật quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS.TS.
Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS.TS Đinh
Văn Mậu (2003), Quyền lực Nhà nước và quyền con người, NXB Tư pháp,
Hà Nội. Đặc biệt là các công trình: GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS. Vũ
Công Giao, TS. Lã Khánh Tùng (Đồng chủ biên) (2015), Giáo trình lý luận
và pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS.TS
Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), Quyền con người, tiếp cận đa ngành, liên
ngành, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trong các công trình này, các tác giả
đã nghiên cứu khái niệm và các đặc điểm Nhà nước pháp quyền nói chung,
Nhà nước pháp quyền XHCN nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa
quyền con người và quyền công dân; nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền
con người trong Nhà nước pháp quyền.

3


Đề cập đến vấn đề quyền con người trong tố tụng hình sự có các công
trình tiêu biểu như: PGS.TS Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Trần Quang
Tiệp (2004), Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự
Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; TS Võ Thị Kim Oanh (chủ biên)
(2010), Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, NXB Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; GS.TSKH Lê Văn Cảm, PGS.TS Nguyễn
Ngọc Chí, PGS.TS Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì) (2004), Bảo vệ quyền con

người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Đại học quốc
gia Hà Nội; GS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ trì) (2013), Quyền con người trong
lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật,
Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội; TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ
trì) (2011), Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội; PGS. TS Nguyễn
Thái Phúc (2010), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Báo cáo tại Hội thảo
về Quyền con người trong tố tụng hình sự do Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao
và Ủy ban Nhân quyền Australia tổ chức tháng 3/2010.
Các công trình là luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ có liên quan đến đề
tài nghiên cứu như: Hoàng Thị Sơn (2003), Thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà
Nội; Nguyễn Huy Hoàn (2004), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư
pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp
luật; Nguyễn Quang Hiền (2008), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình
sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và pháp luật; Lại Văn
Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật TP. Hồ

4


Chí Minh; Ngô Thị Thanh (2013), Quyền con người trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội; Đoàn Hải Nam (2016), Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ
luật học, Học viện Khoa học xã hội năm 2016.
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đăng trên

các tạp chí chuyên ngành như: GS.TSKH Đào Trí Úc (2009), Hành trình quyền
con người, Tạp chí Khoa học Pháp lý; PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí (2009), Bảo vệ
quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học, chuyên san
Luật học, số 23 (2)/2009; Nguyễn Sơn Hà (2013), Hoàn thiện mô hình tố tụng
hình sự Việt Nam theo hướng bảo đảm quyền của bị can, bị cáo, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 2/2013; GS.TSKH Lê Văn Cảm (2006), Những vấn đề lý
luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự,
Tạp chí Tòa án Nhân dân, số 13/2006; PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng (2007),
Thực hiện dân chủ trong tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước
ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 229 (5/2007); PGS.TS Trần Văn
Độ (2010), Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh, Số 6 (61)/2010; Nguyễn Tiến Đạt (2007), Bảo đảm
quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt
Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 11 (6/2007); GS.TSKH. Đào Trí Úc - Nguyễn
Mạnh Hùng (2011), Bàn về các nguyên tắc của tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật; GS.TSKH Đào Trí Úc (2015), Hiến pháp năm 2013 và
nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, Tạp chí
Khoa học pháp lý.

Một số công trình nghiên cứu ở ngoài nước liên quan đến đảm bảo
quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của toà án
có thể kể đến như:

5


- Human rights and the courts in Canada của tác giả Nancy Holmes đã
phân tích các nội dung pháp luật về quyền con người ở Canada và các cơ chế
thúc đẩy thực hiện quyền con người trong bối cảnh toàn cầu hóa trong số các

cơ chế thúc đẩy phát triển và bảo vệ quyền con người thì cơ chế bảo đảm các
quyền con người bằng Tòa án có vai trò quan trọng nhất vì những phán quyết
của Tòa án về quyền con người có giá trị, buộc các chủ thể khác tôn trọng và
bảo vệ các quyền con người.
- Nội dung hệ thống tranh tụng Nhật Bản của Setsuo Miyazama phân
tích những thay đổi trong mô hình TTHS của Nhật Bản được thay đổi theo
hướng bảo đảm quyền của bị cáo từ mô hình nặng về thẩm vấn và xét hỏi
trước Chiến tranh thế giới thứ II đến mô hình TTHS theo nguyên tắc tranh
tụng ở đó Công tố viên quyết định mọi thủ tục tố tụng trong khi Thẩm phán
thực hiện nhiệm vụ xét xử không thiên vị. Bị cáo có quyền trình bày ý kiến và
quyền tố tụng của họ được bảo vệ ở mức độ cao hơn (so với trước đây) để cân
bằng với quyền lực của Nhà nước tại phiên tòa hình sự.
- Dofendants in the criminal process của A.E. Bottoms, J.D. Công trình
phân tích các bước tham gia của bị cáo trong quá trình tố tụng tội phạm của
toà án hình sự nước Anh nhằm đảm bảo công lý: từ bước đầu tiên khi người
cảnh sát thẩm vấn đầu tiên cho tới khi ra trước toà (trích dẫn nhiều chương,
mục của luật pháp nước Anh). Công trình phân tích những quyền tố tụng mà
bị can, bị cáo được bảo vệ, nêu các nguyên tắc bảo vệ quyền của người bị
buộc tội trong hoạt động xét xử cũng như hệ thống các thiết chế để bảo vệ
quyền con người.
- Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (Tradition on and theory
and implementation of human rights in China and Vietnam) của Tống Tiểu
Trang, Sa Khởi Quang, Hoàng Nam Sâm. Các tác giả tìm hiểu một cách có hệ
thống và khoa học về vấn đề quyền con người, đặc biệt về truyền thống, lý
luận và thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, Trung Quốc. Qua

6


công trình này có thể tìm kiếm, khai thác những giá trị tương đồng trong việc

bảo đảm quyền của bị cáo tại phiên tòa hình sự, nghiên cứu, so sánh những
nội dung và phương thức bảo đảm quyền của bị cáo tại phiên tòa, từ đó rút ra
những nhận xét có thể vận dụng cho Việt Nam.
- Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo Điều 6 Công ước châu Âu
về nhân quyền của tác giả Stephanos Stavros. Công trình đã bình luận nội
dung điều 6 về Công ước châu Âu về nhân quyền. Trong Công ước này một
số quyền của bị cáo phải được Tòa án công nhận là quyền được xét xử công
bằng, kịp thời, công khai bằng một Tòa án độc lập. Nguyên tắc suy đoán vô
tội cũng được coi là quyền của bị cáo. Theo đó, người bị buộc tội chưa bị coi
là có tội. Một số quyền khác của bị cáo được coi trọng là quyền được tiếp cận
với pháp luật, có những điều kiện cần thiết để chuẩn bị đối phó với những cáo
buộc đến từ Viện Công tố.
Mặc dù có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực quyền con
người trong tố tụng hình sự, trong đó có quyền con người của bị cáo, nhưng
nhìn chung, những công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến những
vấn đề lý luận chung về quyền con người và từ góc độ tư pháp hình sự, bao
gồm cả luật hình sự và luật tố tụng hình sự, về việc xây dựng pháp luật về
quyền con người, trong đó có một vài khía cạnh đề cập cụ thể về quyền con
người trong hoạt động tư pháp. Có hai công trình nghiên cứu về quyền con
người đối với bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự dưới hình
thức Luận văn thạc sĩ Luật học nhưng Luận văn “Quyền con người trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự” của tác giả Ngô Thị Thanh nghiên cứu dưới góc
độ pháp luật về quyền con người, còn Luận văn của tác giả Đoàn Hải Nam tuy
nghiên cứu về quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự nhưng xuất phát từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Tuy vậy, các công trình
nghiên cứu nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả
trong quá trình thực hiện Luận văn.

7



Như vậy, qua khảo sát tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài Luận văn, thấy rằng tuy có một số công trình đề cập đến vấn đề quyền con
người trong pháp luật nói chung, quyền con người đối với bị cáo trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng, nhưng nhiều vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ hoặc
đã được đề cập nhưng chưa đầy đủ. Do vậy, vẫn còn nhiều khía cạnh cần được
tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về đề tài quyền của bị cáo trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự, đặc biệt là nghiên cứu từ thực tiễn Tòa án nhân dân
thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Việc tiếp tục nghiên cứu về đề tài này là đòi hỏi
khách quan, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp
luật, bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
tại Tòa án nhân dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận về quyền của bị cáo trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, khảo sát các quy định của pháp luật Việt
Nam và quy định của pháp luật quốc tế, đồng thời liên hệ với thực tiễn áp
dụng tại TAND thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, tác giả làm sáng tỏ những bất
cập, hạn chế để đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật nhằm tăng cường quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tại TAND cấp huyện. Đồng thời, qua đây, tác giả muốn
nhấn mạnh vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền của bị cáo để chúng
ta có cái nhìn đúng đắn hơn về vị trí, vai trò của cơ quan này. Để thực hiện
được mục đích nói trên, tác giả đã đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người và ý nghĩa
của việc đảm bảo quyền con người.
Thứ hai, phân tích các cơ sở lý luận và pháp lý về quyền của bị cáo
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Làm rõ vai trò của Tòa án trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về vấn đề bảo đảm quyền của bị cáo.
Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa
án thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, đánh giá hiệu quả cũng như làm sáng tỏ


8


những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thứ tư, đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động liên quan đến việc bảo đảm quyền
của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại TAND cấp huyện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của pháp luật Việt Nam về
quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn
bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản và thực
tiễn quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tập trung
chủ yếu vào nội dung quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, trong mối liên hệ với các chế định khác của tố tụng hình sự.
Phạm vi nghiên cứu khảo sát các vấn đề thực tiễn: Thực tiễn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, các
năm 2016, 2017, 2018, 2019.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về Nhà nước và pháp luật, về Nhà nước Pháp quyền XHCN, về cải
cách tư pháp. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận về quyền của
bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và bảo đảm thực hiện.
Các vấn đề trong Luận văn được phân tích, lý giải trên cơ sở sử dụng
tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo sát xã hội học, phỏng vấn chuyên gia,

người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Luận văn cũng khai thác

9


thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho
các luận điểm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt khoa học: Đề tài đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về
quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phân tích các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và đánh giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn
quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó tìm ra
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập về quyền
của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đưa ra được một số
giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam
và tăng cường bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
- Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Luận văn là cơ sở thực
tiễn trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật. Đồng thời những giải
pháp và kiến nghị cũng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp
luật trong thực tiễn. Với ý nghĩa như vậy, kết quả nghiên cứu của Luận văn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào
tạo về pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền của bị cáo trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2. Thực trạng quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ và những kiến

nghị, giải pháp.

10


Chƣơng 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA
BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người
Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp:
“Quyền là một khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp
luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá
nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn
chế”. Như vậy, quyền phải có sự thừa nhận về mặt pháp lý và được đảm bảo
thực hiện bởi các quy định của pháp luật. Quyền phải có sự thừa nhận về mặt
xã hội, gắn liền với các chủ thể cá nhân, được thể hiện cụ thể trong thực tế đời
sống thông qua các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân trong một cộng đồng
nhất định.
Khi nghiên cứu vấn đề quyền con người, một khái niệm được đề cập
nhiều và có liên quan trực tiếp với khái niệm này là khái niệm quyền công
dân. Xét về nguồn gốc, quyền công dân xuất hiện muộn hơn, là một trong
những thành tựu của nhân loại trong cuộc cách mạng tư sản đấu tranh chống
lại chế độ phong kiến. Hiện nay, trên diễn đàn khoa học vẫn tồn tại một số
khái niệm khác nhau về quyền công dân:
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền công dân là: “Quyền của người
công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền về kinh
tế - văn hóa xã hội”. Ý kiến khác cho rằng quyền công dân là những bảo đảm
từ phía Nhà nước: "quyền công dân - đó là sự thể chế hóa về mặt nhà nước

bằng pháp luật địa vị con người trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận,
trong chừng mực mà nhà nước chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong

11


nhà nước”. Có tác giả đề xuất cần có sự kết hợp giữa quyền tự nhiên và quyền
xã hội khi đưa ra định nghĩa về quyền công dân, rằng “Quyền công dân là tập
hợp những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước quy định, mà tất cả
những người có chung quốc tịch của nước đó được hưởng một cách bình
đẳng”. Mặc dù tiếp cận và diễn đạt khác nhau nhưng các quan niệm trên đây
đều nhận định quyền công dân là những quyền của cá nhân con người được
ghi nhận bằng pháp luật và Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm thực hiện các
quyền đó cho các cá nhân với tư cách là công dân của một nước.
Quyền con người là khái niệm rộng và có thể tiếp cận ở những góc độ
khác nhau. Dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền con người có thể chia theo
các nhóm tương ứng với các lĩnh vực của đời sống. Đó là:
Nhóm quyền về chính trị: gồm các quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham
gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng nam, nữ; quyền tự do
ngôn luận; tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền tự do tín ngưỡng;
quyền lập hội, quyền hội họp, quyền biểu tình, quyền khiếu nại, tố cáo…
Nhóm các quyền về dân sự: bao gồm các quyền về tự do cá nhân,
quyền tự do cư trú, tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền
được luật pháp bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an toàn và bí mật về thư tín, điện
thoại, điện báo, quyền khiếu nại, tố cáo...
Nhóm các quyền về kinh tế - văn hóa - xã hội: quyền học tập; quyền lao
động; quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và thừa kế; quyền học
tập; quyền nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền được bảo vệ sức khỏe;
quyền được bảo vệ hôn nhân và gia đình...

Quyền con người và quyền công dân có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Quyền con người được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang
sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc
vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ

12


giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Trong khi đó, khái niệm quyền
công dân thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với tư cách là công dân mang
quốc tịch của quốc gia đó với Nhà nước, tức là nhấn mạnh đến khía cạnh pháp
lý của mối quan hệ.
Có thể khẳng định quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công
dân, xuất hiện sớm hơn quyền con người nhưng quyền công dân là nội dung
của quyền con người được hiện thực hóa và bảo đảm thực hiện ở một quốc gia
trong những thời điểm cụ thể.
Quyền con người (human rights) là giá trị cao quý, kết tinh từ văn hóa
của tất cả các dân tộc trên thế giới; là tiếng nói chung, sản phẩm chung, mục
tiêu chung, phương tiện chung của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới để bảo
vệ, thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của con người. Nó không còn là nhận
thức mà được thể hiện bằng quy phạm pháp lý được các quốc gia thừa nhận
chung, phản ánh quy luật và hướng đi tất yếu của xã hội loài người cũng như
hình thành các cơ chế bảo đảm để quyền con người được thực thi trên thực tế.
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa
khác nhau (theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về
quyền con người đã được công bố). Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một
góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa
nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc
vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định

nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được
trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là
những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép và tự do cơ bản của con người.

13


Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích
dẫn, theo đó, quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành viên của
cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã
hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa
này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên (natural rights).

Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và
tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân
loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn
mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm
và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là
một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một
điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng,
bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
Có thể nói, quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến
nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý… Chính vì vậy, hiện nay có rất
nhiều định nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người
theo những góc độ khác nhau. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích
dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những
quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản

vì họ là con người. Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy
Liên hợp quốc thường xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: quyền con
người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.

Ở Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm phân tích về vấn đề quyền con
người. Trong tác phẩm Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người,
các tác giả định nghĩa quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,

14


vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và
các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung
của cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện
chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền
con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người
như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do…; dưới bình diện pháp lý, để trở
thành quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp
luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào
thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ
những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Từ khái niệm chung về quyền con người ở trên, có thể đưa ra khái niệm
quyền con người trong tố tụng hình sự như sau: Quyền con người trong tố
tụng hình sự là những điều mà bất cứ ai (không phân biệt giới tính, độ tuổi,
dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần xã hội…) khi tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự đều được hưởng, được làm và được đòi hỏi.
Bảo đảm quyền con người và quyền công dân là một vấn đề lớn, phức

tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Bảo đảm quyền con người xét cho cùng
chính là việc ghi nhận và thực hiện những cam kết trong pháp luật quốc tế về
các quyền con người vào trong pháp luật mỗi quốc gia. Không thể bảo đảm
quyền con người nếu chỉ dựa vào quyền tự nhiên của con người, bởi tự thân
những quyền tự nhiên không thể tự mình vận hành trong một xã hội rộng lớn
ở phạm vi quốc tế và phạm vi quốc gia. Phải thông qua Nhà nước, thì những
cam kết quốc tế về quyền con người mới hình thành nên những địa vị pháp lý
của con người, đồng thời quyền con người chỉ được bảo đảm khi được quy
định bằng pháp luật và có cơ chế bảo đảm, vận hành bởi pháp luật.
Cơ chế bảo đảm quyền con người là những biện pháp nhằm khôi phục
quyền, lợi ích khi bị vi phạm, tranh chấp. Nhà nước bảo đảm quyền con người

15


bằng việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Pháp luật quy định về
quyền con người được đảm bảo bằng bộ máy, cách thức hoạt động quyền lực
của nhà nước, khi cần thiết thì nhà nước sử dụng các biện pháp cưỡng chế
trên cơ sở tiến hành các biện pháp giáo dục, thuyết phục, đảm bảo cho nội
dung quyền con người, quyền công dân được thực hiện.
Công dân bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình trên nền tảng
pháp lý mà nhà nước xây dựng cho họ. Pháp luật là cơ sở, căn cứ để công dân
đánh giá, kiểm tra, đối chiếu các hành vi từ phía nhà nước và các thành viên
trong xã hội, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chỉ có
pháp luật, bằng những quy phạm pháp luật cụ thể, chặt chẽ mới tạo nên cơ sở
pháp lý vững chắc để mọi người chống lại các hành vi xâm hại, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, việc giải quyết vụ án hình sự không thể
tách rời vấn đề bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị buộc
tội. Bởi lẽ để buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người phải

dựa trên những căn cứ luật định và phải do những người, những cơ quan có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để nhằm mục đích
không để lọt tội phạm đồng thời đảm bảo không làm oan người vô tội.

1.1.2. Khái niệm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được quy định
trong Bộ luật hình sự đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, do yêu
cầu của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm các cơ quan tố tụng áp
dụng các biện pháp ngăn chặn và ban hành các quyết định áp dụng pháp luật
để tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố và xét xử. Trong mỗi giai đoạn tố tụng,
người thực hiện hành vi phạm tội đó có những tư cách nhất định. Từ khi bị
can bị Tòa án ra quyết định xét xử vụ án thì tư cách bị cáo của người đó xuất
hiện. Như vậy có thể hiểu bị cáo là người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm

16


tội. Hành vi đó được quy định trong Bộ luật hình sự, bị VKS truy tố bằng cáo
trạng thông qua quyết định truy tố và bị Tòa án đưa ra xét xử.Với tư cách là
cá nhân, công dân, trên cơ sở nguyên tắc suy đoán vô tội, bị cáo mới chỉ bị coi
là người bị tình nghi đã thực hiện tội phạm. Do vậy bị cáo cũng có các quyền
con người theo quy định trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa
và xã hội. Nhà nước cũng như các chủ thể khác phải tôn trọng và đảm bảo
thực hiện các quyền đó trên thực tế.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về quyền của bị cáo. Chẳng
hạn có ý kiến cho rằng quyền của bị cáo là những bảo đảm pháp lý được ghi
nhận trong pháp luật, cho phép bị cáo sử dụng các quyền đó để thực hiện các
quyền khác hay chống lại sự vi phạm các quyền khác. Tuy nhiên, quan niệm
được nhiều học giả thừa nhận cho rằng quyền của bị cáo là sự cụ thể hóa các

quyền cơ bản của con người, quyền công dân khi một người thực hiện hành vi
phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự, đã bị VKS ra quyết định truy tố
và Tòa án ra quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử". Vì thế, Nhà nước, các
cơ quan nhà nước, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác có trách nhiệm
phải bảo đảm các quyền của bị cáo.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu quyền của bị cáo là những giá
trị, nhu cầu và lợi ích hợp pháp vốn có của bị cáo, phù hợp với chuẩn mực
quốc tế và quốc gia được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm
pháp luật khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS trong giai đoạn xét xử.
Từ khái niệm trên đây, có thể nhận diện một số đặc điểm về quyền của
bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự như sau:
- Về nội dung, khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, pháp luật ghi
nhận các quyền của bị cáo như quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét
xử, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, quyết
định đình chỉ vụ án, bản án, quyết định của Tòa án, các quyết định tố tụng
khác theo quy định của pháp luật; quyền tham gia phiên tòa; quyền được giải

17


thích về quyền và nghĩa vụ; quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch; quyền đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền
tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; quyền trình bày ý kiến, tranh luận
tại phiên toà; quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án; quyền kháng cáo đối
với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; khiếu nại quyết định, hành vi
tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và một số quyền
khác theo quy định của pháp luật.
- Về hình thức biểu hiện, các quyền của bị cáo không chỉ được coi là
các quyền tố tụng được ghi nhận trong Bộ luật TTHS mà còn được thể hiện
xuyên suốt, nhất quán trong các quy định của Hiến pháp đến các đạo luật và

văn bản dưới luật. Đó là các quy định về nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự và Bộ
luật TTHS; các nguyên tắc của TTHS; quy định về việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn; trình tự, thủ tục tố tụng; khiếu nại, tố cáo và xử lý trách nhiệm đối
với các vi phạm pháp luật trong TTHS. Ngoài ra, quyền của bị cáo còn được
thể hiện trong các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng trong các văn bản pháp luật khác Luật Tổ chức
TAND, Luật Tổ chức VKS, Pháp lệnh về Thẩm phán, Luật Luật sư, Luật trợ
giúp pháp lý…
- Về thời điểm xuất hiện các quyền, bị cáo tham gia TTHS kể từ khi có
quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật và bản án đó phải được thực hiện theo đúng trình
tự, thủ tục luật định. Bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội
phạm mà mới chỉ bị tình nghi là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Với tư
cách là cá nhân, công dân, quyền của bị cáo bao gồm những giá trị, những lợi
ích về vật chất và tinh thần được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện phù
hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế và tiến bộ xã hội.
Việt Nam đã gia nhập công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 của Liên Hợp quốc (ICCPR) từ năm 1982. Việt Nam cũng đã

18


gia nhập tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UHDR), Công
ước về quyền trẻ em... Nghiên cứu các văn bản này đưa đến một khẳng định
quyền con người trong tố tụng hình sự chẳng qua là sự cụ thể quyền được
sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đây được coi là tiêu
chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự. Theo đó, quyền con người trong
tố tụng hình sự bao gồm những quyền được “Điều 10, 11 Tuyên ngôn nhân
quyền thế giới và Điều 14, 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị năm 1966” quy định thống nhất như sau:

- Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục tố tụng hình sự;
- Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và
quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế
trách nhiệm hình sự phải trên cơ sở luật định;
- Quyền được suy đoán vô tội;
- Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức
chậm trễ;
- Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự
đặc biệt;
- Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh
chóng minh oan, quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi;
- Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử…
Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội - đối tượng
quan trọng nhất cần bảo vệ trong đó có bị cáo là người bị buộc tội và có thể bị
áp dụng các biện pháp của trách nhiệm hình sự trong giai đoạn xét xử vụ án.
Trong quá trình nội luật hóa Nhà nước ta đã đưa những quy định trong các
văn kiện nói trên về quyền con người, trong đó có quyền của bị cáo trong tố
tụng hình sự, nhất là quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự vào hệ thống pháp luật quốc gia Việt Nam một cách tương đối đầy đủ
và hoàn thiện. Pháp luật tố tụng hình sự nước ta không chỉ quy định các

19


quyền của bị cáo mà còn có những quy định bảo đảm cho các quyền đó được
thực hiện. Bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự thông qua việc thực hiện trong thực tiễn các nghĩa vụ, trách nhiệm của
các chủ thể ở các giai đoạn xét xử. Gắn với hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự có thể phân chia nội dung bảo đảm quyền của bị cáo hai giai đoạn là
trước khi mở phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) và tại phiên tòa xét

xử. Trong pháp luật Việt Nam thì quyền con người, quyền công dân được ghi
nhận trước tiên tại Điều 3 Hiến pháp 2013 “Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ củ tôn trọ ảo đảm quyền con người, quyền công dân”.Quyền
này sau đó được cụ thể hóa trong các Bộ luật và các đạo luật cụ thể trở thành
quyền của các chủ thể của các quan hệ pháp luật khác nhau.Bảo đảm quyền
con người trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Bảo đảm quyền con người
thông qua các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, VKS và
các cơ quan nhà nước khác trong đó Tòa án có vị trí, vai trò quan trọng. Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 102).
Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS), quyền con người,
quyền công dân (cá nhân) được ghi nhận tại Điều 8: “Khi tiến hành tố tụng,
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết
của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện
pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.”
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, bị cáo là người đã bị tòa án
quyết định đưa ra xét xử. Với tư cách là một chủ thể của tố tụng hình sự, bị

20


×