Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của tòa án nhân dân cấp tỉnh ở việt nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.76 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VÕ QUỐC TUẤN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ : 62 38 01 01

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trương Hồ Hải
TS. Trần Thái Dương

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Vào hồi giờ..... 00 ngày .... tháng ..... năm 2017



Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Tòa án nhân dân
(TAND) cấp tỉnh xét xử những vụ án hình đặc biệt nghiêm trọng với khung
hình phạt là trên 15 năm tù, chung thân, tử hình. Chế tài hình sự áp dụng cho bị
cáo đối với những vụ án sơ thẩm hình sự ở TAND cấp tỉnh nghiêm khắc như
vậy nên càng không cho phép bất cứ có sự sai sót, hay “tai nạn công lý” đối với
cơ quan, người tiến hành tố tụng. Điều này đặt ra yêu cầu ngày càng khắt khe
hơn trong hoạt động xét xử của TAND cấp tỉnh so với phiên tòa hình sự ở
TAND cấp huyện là phải bảo vệ quyền cho bị cáo tốt nhất, hạn chế oan, sai
trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách,
các biện pháp nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự nói chung và vụ án sơ
thẩm hình sự của TAND cấp tỉnh nói riêng. Một trong các biện pháp đó là không
ngừng nâng cao năng lực xét xử của thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (HTND),
Kiểm sát viên (KSV); kiện toàn tổ chức, hoạt động và phát huy vai trò của đội
ngũ luật sư, cơ quan bổ trợ tư pháp. Qua đó bảo đảm các bản án được tuyên
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật vừa không làm oan người vô tội.
Những nỗ lực trên đây được ghi nhận trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật TTHS năm 2003, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ
chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm
2014, Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015...

Những chủ trương và biện pháp của Đảng và Nhà nước đã có tác động tích cực
đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có chất lượng hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh. Tỷ lệ các vụ án
hình sự sơ thẩm của TAND cấp tỉnh oan, sai, vi phạm tố tụng xâm phạm đến
quyền của bị cáo đã giảm.
Tuy nhiên, trên thực tế, các quyền của bị cáo ở một số phiên tòa xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở một số địa phương chưa được
bảo đảm. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận để có những
kiến nghị nhằm bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh là nhiệm vụ cấp thiết. Từ những lý do trên
đây, tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện
nay” làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp
luật, mã ngành 62.38.01.01.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của bị cáo
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh, luận án
đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền của bị


2

cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên đây, luận án thực hiện nhiệm vụ sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt

động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam.
- Phân tích và đề xuất những quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở
Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Luận
án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của bị cáo
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh. Từ đó,
luận án luận chứng cơ sở khoa học và đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm
tăng cường bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh được bảo đảm bằng pháp luật và thông
qua việc thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của nhiều chủ thể trong hoạt động tố
tụng. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án tiến sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu bảo
đảm quyền của bị cáo thông qua các hoạt động của thẩm phán, HTND, luật sư,
KSV thực hiện nhiệm vụ tại phiên tòa.
Về phạm vi Toà án, luận án chỉ tập trung nghiên cứu việc bảo đảm quyền
của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh (gồm
tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương) mà không nghiên cứu nội dung này
với Tòa án quân sự (TAQS) cấp quân khu (tuy TAQS quân khu cũng là một
cấp toà án thuộc các toà án nhân dân nói chung ở Việt Nam).
Về thời gian: Luận án nghiên cứu bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh; đặc biệt nghiên cứu,
phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh từ năm 2011 đến năm 2015.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận

Luận án dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) làm cơ sở
phương pháp luận; đặc biệt luận án coi trọng những quan điểm, đường lối của
Đảng về cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
các vụ án hình sự trong Cương lĩnh chính trị, các Văn kiện của Đảng từ Đại hội


3

VI đến đại hội XII .
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng các
phương pháp nghiên cứu, như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp
thống kê - so sánh, phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp kết hợp lý
luận với thực tiễn; phương pháp lịch sử…
5. Những điểm mới của luận án
Luận án có thể được coi là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn
diện và hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam.
Luận án có những điểm mới về mặt khoa học như sau:
- Xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm, nội dung, vai trò cũng như các
yếu tố bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND cấp tỉnh.
- Rút ra những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam về bảo đảm quyền
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp
tỉnh qua việc nghiên cứu kinh nghiệm bảo đảm quyền con người trong hoạt
động xét xử các vụ án hình sự của Tòa án ở một số nước trên thế giới.
- Phân tích, chỉ ra được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực
trạng trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đảm
quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND

cấp tỉnh ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận: kết quả nghiên cứu đề tài luận án góp phần làm phong phú
thêm cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài luận án có thể cung cấp tài liệu
tham khảo có giá trị đối với các nhà hoạch định chính sách, xây dựng và thực
hiện pháp luật bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh; có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các
học viên sau đại học chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu thảm khảo, luận án bao
gồm 4 chương, 13 tiết.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án được
chia thành hai nhóm: 1) Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự; 2) Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân
dân; 3) Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Các công
trình nghiên cứu đã đề cập những vấn đề như quyền con người trong tố tụng

nói chung và TTHS, trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc bảo đảm quyền con người, hoặc nghiên cứu các quyền cụ thể như
quyền bị can, bị cáo, quyền của người bị hại trong tố tụng...Tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu toàn diện về bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh; đặc biệt trong bối
cảnh Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014 đã ghi nhận chức
năng của TAND là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN

Các tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở ngoài nước, ở những
góc độ khác nhau, đã nghiên cứu vấn đề hệ thống tư pháp, tố tụng của một số
nước, quyền con người trong các hoạt động tố tụng, vai trò của Tòa án trong
việc bảo đảm quyền con người, quyền của phạm nhân, của người bị hại, quyền
của bị cáo, quyền của người chưa thành niên trong TTHS…Tuy nhiên, qua
khảo sát các tài liệu ở ngoài nước cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện, hệ thống vấn đề đảm bảo quyền của con người trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án.
1.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án
Các công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận về bảo đảm
quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND


5


cấp tỉnh luận giải những vấn đề sau:
- Xây dựng khái niệm và phân tích nội dung khái niệm quyền con người,
quyền công dân; bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự; liệt kê một số
quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự qua các giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
- Đề cập chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, các cơ
quan, tổ chức và công dân trong phiên tòa xét xử các vụ án hình sự.
- Một số công trình nghiên cứu đề xuất một số quan điểm, giải pháp trong
việc bảo đảm quyền con người (trong đó có quyền của bị cáo) trong hoạt động
tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Một số các công trình nghiên cứu ở ngoài nước đề cập đến mô hình tổ
chức của Tòa án và các nguyên tắc tranh tụng bảo đảm sự độc lập của Tòa án.
Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền con người nói chung, quyền bị cáo tại phiên
tòa hình sự các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đề cập đến trách nhiệm của
các chủ thể trong hoạt động xét xử trong đó nhấn mạnh đến Thẩm phán, Bồi
thẩm đoàn và Luật sư...
1.3.2. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu trong Luận án
Về mặt lý luận: xây dựng, phân tích khái niệm; phân tích nội dung bảo
đảm quyền của bị cáo trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
TAND cấp tỉnh. Đồng thời, luận án phân tích các vai trò của bảo đảm và cũng
như các điều kiện (yếu tố) bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu về
pháp luật và thực trạng bảo đảm quyền con người trong xét xử sơ thẩm hình sự
ở một số nước trên thế giới và chỉ ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm: phân
tích, đánh giá toàn diện thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam từ năm 2011
đến nay 2015 trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa. Đồng thời, luận án phân
tích, tìm ra nguyên nhân của những bất cập trong việc bảo đảm quyền của bị

cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp tiếp tục
bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của TAND cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.


6

Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ
CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

2.1.1. Khái niệm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự
Quyền của bị cáo là những giá trị, nhu cầu và lợi ích hợp pháp vốn có của
bị cáo, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và quốc gia được ghi nhận trong Hiến
pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khi tham gia vào quan hệ pháp luật
TTHS trong giai đoạn xét xử.
2.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân là việc tôn trọng, ghi nhận các
quyền đó bằng pháp luật; đồng thời, các chủ thể (cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, cá nhân) phải thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm, tạo điều kiện cho chủ
thể của quyền sử dụng, thụ hưởng các quyền đó trên thực tế.
Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
TAND cấp tỉnh là việc ghi nhận, tôn trọng bằng pháp luật các quyền của bị

cáo; đồng thời, thông qua thực tiễn hoạt động xét xử tại phiên tòa các chủ thể
thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm và bảo vệ các quyền của bị cáo cũng như tạo
ra các điều kiện cần thiết để bị cáo sử dụng các quyền của họ theo quy định
của pháp luật.
2.1.3. Đặc điểm bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của TAND cấp tỉnh có một số đặc điểm riêng như sau:
- Bị cáo bị áp dụng hình phạt ở mức độ nghiêm khắc nhất so với vụ án
hình sự sơ thẩm ở cấp huyện nên đặt ra yêu cầu cần phải bảo vệ quyền cho bị
cáo tốt nhất, hạn chế oan, sai trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND cấp tỉnh.
- Ở một số vụ án hình sự TAND cấp tỉnh, bị cáo được hưởng một số
quyền nhất định mà theo quy định của pháp luật Tòa án phải đáp ứng như bị
cáo là người chưa thành niên phải có người đại diện hợp pháp tại phiên tòa. Bị
cáo bị truy tố khung hình phạt cao nhất từ 20 năm, chung thân, tử hình bắt cuộc
có người bào chữa. Bị cáo là người dân tộc phải có người phiên dịch…
- Trách nhiệm của TAND cấp tỉnh và các chủ thể khác phải lớn hơn, nặng
nề hơn so với cấp huyện. Cụ thể, so với TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh xét
xử sơ thẩm những vụ án hình sự mà bị cáo đã từng là những người tiến hành tố
tụng, hay những vụ án liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương,
ở địa bàn phức tạp; những vụ án là người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy
tín cao trong dân tộc ít người; những vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài bị cáo


7

ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài.
- Tùy theo tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của
địa phương trong những thời điểm nhất định mà vụ án sơ thẩm hình sự phải

được giải quyết tại TAND cấp tỉnh. Đó là những vụ án mà TAND cấp tỉnh lấy
lên để xét xử khi xét thấy cần thiết. Tuy nhiên khi đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ
thẩm ở TAND cấp tỉnh, ở một số địa phương, bị cáo, người làm chứng, người
đại diện quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo, người giám hộ sống ở vùng sâu,
vùng xa gặp khó khăn khi di chuyển, hay khó khăn trong việc nhận các quyết
định tố tụng… Do vậy, TAND cấp tỉnh và các cơ quan hữu quan phải chuẩn bị
những điều kiện tốt nhất để bảo đảm quyền của bị cáo.
2.1.4. Vai trò của bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà
nước ta trong công cuộc cải cách tư pháp vì quyền con người.
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nhằm hướng tới một nền tư pháp hiện
đại, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người
- Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nhằm hạn chế sự vi phạm trong quá trình
áp dụng các chế tài hình sự đối với bị cáo.
2.2. NỘI DUNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

Nội dung bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh được nghiên cứu trên hai góc độ cơ
bản như sau:
2.2.1. Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bằng các quy định pháp luật
Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của TAND cấp tỉnh bằng các quy định pháp luật là tổng thể các hoạt động
xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý vững
chắc để ghi nhận, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất để cho bị cáo sử dụng các

quyền của mình trong quá trình xét xử. Có thể khẳng định bảo đảm quyền của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh
bằng pháp luật được thể hiện ở các khía cạnh sau như: Số lượng các quyền,
tiêu chuẩn để đánh giá, cũng như cách thức ghi nhận của pháp luật bảo đảm
quyền của bị cáo. Về mục tiêu, pháp luật bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh phải có những quy
định cụ thể, khả thi để cho bị cáo sử dụng quyền của mình tại phiên tòa. Ở mỗi
giai đoạn của tố tụng, bị cáo được pháp luật ghi nhận có những quyền tương
ứng. Các quyền của bị cáo có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Pháp luật về
quyền của bị cáo và bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của TAND cấp tỉnh được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật với


8

các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau.
2.2.2. Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thông qua việc thực hiện nghĩa vụ,
trách nhiệm của các chủ thể ở các giai đoạn xét xử
Gắn với hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh, có
thể phân chia nội dung bảo đảm quyền của bị cáo hai giai đoạn là trước khi mở
phiên tòa và tại phiên tòa.
- Ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa
Để bảo đảm quyền của bị cáo, các chủ thể có trách nhiệm phải thực hiện
các nghĩa vụ sau: gửi các quyết định tố tụng cho bị cáo; tập kế hoạch xét hỏi
sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử; tiến hành các công việc chuẩn bị
mở phiên tòa; giải quyết các yêu cầu của bị cáo ở giai đoạn trước khi mở
phiên tòa sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh.
- Ở giai đoạn tại phiên tòa
Các chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bao gồm Chánh án, Thẩm

phán, Chủ tọa phiên, HTND, Thư ký tòa án, Viện kiểm sát, KSV, Luật sư bào
chữa cho bị cáo và các chủ thể có liên quan. Để bảo đảm quyền của bị cáo, giai
đoạn này các chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật tương ứng với mỗi
giai đoạn tố tụng như:
+ Bảo đảm quyền của bị cáo khi bắt đầu phiên tòa
+ Bảo đảm quyền của bị cáo ở giai đoạn xét hỏi
+ Bảo đảm quyền của bị cáo tại ở giai đoạn tranh luận
+ Bảo đảm quyền của bị cáo ở giai đoạn nghị án và tuyên án
2.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN CẤP TỈNH

2.3.1. Chất lượng của hệ thống pháp luật
Pháp luật về bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh phải quy định đầy đủ, cụ thể rõ ràng về trình
tự, thủ tục giải quyết các vụ án; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng; quyền và
nghĩa vụ của tổ chức bổ trợ tư pháp và các cơ quan tổ chức, cá nhân khác khi
họ tham gia tố tụng.
2.3.2. Chất lượng hoạt động của cơ quan và đội ngũ những người tiến
hành tố tụng
Chất lượng đội ngũ những người tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND được coi là điều kiện đủ, quyết định đến
việc bảo đảm quyền của bị cáo. Do vậy, những người tiến hành tố tụng như
Chủ tọa phiên tòa, thẩm phán, HTND, KSV phải đạt được trình độ chuyên môn
cao, phải có tư chất, đạo đức nghề nghiệp. Như vậy, cần phải đặt ra tiêu chuẩn,
quy trình tuyển dụng hợp lý đáp ứng nhiệm vụ xét xử, bảo đảm quyền của bị
cáo; đồng thời phải thường xuyên nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ
cho thẩm phán, HTND, KSV tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của TAND cấp tỉnh. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng là hoạt



9

động bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý.
2.3.3. Vai trò của luật sư và các cơ quan bổ trợ tư pháp cấp tỉnh
Cần phải xác định rõ tiêu chuẩn, chức danh, quyền và nghĩa vụ của các
thành viên trong cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao. Đặc biệt là không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ Luật sư cấp tỉnh, bào chữa viên
nhân dân, giám định viên để họ tham gia tích cực vào hoạt động bảo đảm
quyền của bị cáo trong TTHS nói chung và trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh nói riêng.
2.3.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động xét xử các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Cần phải cung cấp cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, đầu tư xây dựng,
mua sắm trang thiết bị làm việc cho thẩm phán TAND cấp tỉnh. Tăng cường
công tác quản lý tài chính, đảm bảo chi tiêu hiệu quả, tiết kiệm; chăm lo đời
sống cho cán bộ, công chức; duy trì và đẩy mạnh các phong trào thi đua khen
thưởng để phát huy tính chủ động, tích cực, nâng cao tinh thần trách nhiệm
trong công việc của đội ngũ cán bộ TAND cấp tỉnh.
2.4. BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ
THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG
GIÁ TRỊ CÓ THỂ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

Nghiên cứu bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
ở một số nước: 1) Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của Tòa án ở Mỹ; 2) Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở Pháp; 3) Bảo đảm quyền của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở liên bang Nga; 4) Bảo đảm quyền

của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở Trung Quốc.
Nghiên cứu hoạt động bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của Tòa án một số nước có thể rút ra những giá trị tham khảo cho
Việt Nam như sau:
Thứ nhất, coi trọng quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự.
Thứ hai, nhiều quốc gia đề cao tính độc lập của Tòa án. Coi đây là điều
kiện tiên quyết bảo đảm sự vô tư, không thiên vị, không chịu bất kỳ sự can
thiệt nào từ bên ngoài khi Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử.
Thứ ba, nguyên tắc suy đoán vô tội được quán triệt và vận dụng nhất quán,
xuyên suốt, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tố tụng,
mọi nghi ngờ về chứng cứ đều được giải thích và làm sáng tỏ theo hướng có lợi
cho bị cáo.
Thứ tư, thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự là một trong những biện pháp bảo đảm quyền của bị cáo.
Thứ năm, phân định rạch ròi chức chức năng của Tòa án với cơ quan
Công tố để bảo đảm quyền của bị cáo.


10

Chương 3
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
BẰNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT

3.1.1. Những kết quả đạt được

Tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, pháp luật quy định bị cáo có các
quyền và nghĩa vụ cơ bản, được thể hiện trước hết trong Hiến pháp, Bộ luật
hình sự, Bộ luật THHS, Luật Tổ chức TAND, Luật Tổ chức VKSND, Pháp
lệnh về Thẩm phán và HTND và các văn bản pháp luật khác. Bộ luật TTHS
năm 2015 đã có những sửa đổi so với Bộ luật TTHS năm 2003, không những
quy định cụ thể, rõ ràng hơn mà còn mở rộng quyền của bị cáo, đảm bảo tính
công bằng, công khai trong hoạt động xét xử. Ngoài các quy định pháp luật
trao quyền, để bảo đảm quyền của bị cáo, pháp luật quy định về các nguyên tắc
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát và xét xử. Trong mỗi
hệ thống cơ quan này, pháp luật có những quy định riêng, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của từng cơ quan. Đối với hệ thống cơ quan xét xử có các
nguyên tắc như nguyên tắc xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật; xét xử kịp
thời, công khai, công bằng; suy đoán vô tội; nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm được bảo đảm… Đồng thời, để bảo đảm quyền của bị cáo pháp luật quy
định về trách nhiệm của các chủ thể tiến hành và chủ thể tham gia tố tụng. Đó
là trách nhiệm, nghĩa vụ của điều tra viên, KSV, thẩm phán, HTND, người bảo
chữa, người phiên dịch, người giám định, người làm chứng… Bảo đảm quyền
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp
tỉnh còn thể hiện trong các quy định về chứng cứ và quá trình đánh giá chứng
cứ, chứng minh trong TTHS, các biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Bảo đảm
quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND
cấp tỉnh thể hiện trong các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa.
Bộ luật TTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng xác định rõ thẩm
quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành tố
tụng phù hợp với quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014, Luật tổ chức
VKSND năm 2014; quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu
nại, tố cáo của người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng. Để bảo đảm tốt
hơn quyền của người khiếu nại Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung quyền của họ
được thông qua người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị

hại, đương sự, người đại diện thực hiện quyền khiếu nại.
3.1.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, một số quy định pháp luật
đang tồn tại những bất cập.
- Một số quy định pháp luật về chức năng của Tòa án và VKS chưa rõ
ràng, cụ thể. Mô hình tố theo quy định của pháp luật, VKS thực hiện hai chức
năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều đó cho thấy,


11

ở một số phiên tòa sơ thẩm hình sự, Tòa án có vai “chi phối”, “định hướng” đến
hoạt động tranh luận tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử (HĐXX) chưa thật
sự vô tư, công bằng trong việc tìm kiếm sự thật khách quan của vụ án đang diễn
ra tại phiên tòa.
- Một số quy định trong Bộ luật TTHS năm 2003 về quyền của bị cáo và
quyền của người bào chữa khó thực hiện trên thực tế nếu không muốn nói là
hình thức. Pháp luật chưa coi trọng quyền bào chữa của bị cáo thể hiện qua các
quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm. Thay vì tạo không khí dân chủ,
tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định
“khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó
đến KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự” (Điều 207).
- Nhiều quy định pháp luật chưa phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của
các chủ thể tiến hành tố trụng trong hoạt động tranh luận tại phiên tòa.
- Pháp luật hình sự và thực tiễn thực hiện pháp luật hình sự ở nước ta vẫn
chưa coi trọng vai trò bào chữa của Luật sư nên hoạt động tranh tụng tại nhiều
phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh chưa thực sự
chuyển về chất theo kỳ vọng của những chủ trương cải cách tư pháp gần đây.
- Trong quan hệ tố tụng, nhiều quy định pháp luật vẫn coi trọng địa vị
pháp lý của những người tiến hành tố tụng trong khi vị trí, địa vị của người bào

chữa chưa hoàn toàn được độc lập với các chủ thể khác.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được vận dụng triệt để, bên buộc tội và
bên gỡ tội chưa thực sự bình đẳng trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu hay
viện dẫn các quy định pháp luật để HĐXX làm căn cứ ra phán quyết.
- Pháp luật TTHS chưa quy định cụ thể về thời gian nghị án. Bộ luật
TTHS năm 2015 đã khắc phục bất cập này nhưng trước đó, Bộ luật TTHS năm
2003 không quy định HĐXX phải tiến hành nghị án trong khoảng thời gian bao
lâu. Do vậy, có những vụ án sơ thẩm hình sự của TAND cấp tỉnh, HĐXX cố
tình kéo dài thời gian nghị án.
- Pháp luật chưa quy định và hiện tại cũng chưa có biện pháp giám sát hoạt
động nghị án của HĐXX có nghị án tại phòng nghị án hay không. Biên bản nghị
án có phản ánh đúng trình tự, nội dung thảo luận của nghị án hay không.
- Chưa có cơ chế bảo đảm sự độc lập cho HĐXX nghị án. Một số vụ án,
hoạt động nghị án của HĐXX bị can thiệp, làm trái quy định của của pháp luật,
ảnh hưởng, xâm hại đến quyền, lợi ích của bị cáo và các bên có liên quan.
- Bộ luật TTHS năm 2003 không phân định rõ chức năng xét xử của
Tòa án với chức năng buộc tội của VKS (Điều 221 quy định khi VKS rút
một phần hay toàn bộ quyết định truy tố nhưng Tòa án vẫn tiến hành xét xử
theo thủ tục chung).
- Một số quy định về quyền của người bào chữa, luật sư thiếu tính khả thi,
vướng mắc, khiến cho địa vị pháp lý của người bào chữa không được coi trọng,
mang nặng tính hình thức. Quyền tiếp cận với dịch vụ pháp lý của bị cáo ở một
số phiên tòa sơ thẩm hình sự TAND cấp tỉnh không được đảm bảo.
Những bất cập hạn chế trong các quy định pháp luật về bảo đảm quyền của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND (trong đó có


12

TAND cấp tỉnh) có nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân khách quan và nguyên

nhân chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan:
Thực hiện đường lối đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân vì dân tác
động đến đặt ra nhiệm vụ cần bảo vệ quyền của bị cáo. Trong khi pháp luật về
bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND mặc dù được quan tâm sửa đổi nhưng chưa theo kịp với những biến đổi
nhanh chóng của cuộc sống. Xu hướng hội nhập và hợp tác quốc tế, yêu cầu đấu
tranh bảo vệ quyền con người đang đặt ra trách nhiệm lớn cho các quốc gia. Tuy
nhiên, vấn đề quyền con người, quyền công dân nói chung trong đó có quyền
của bị cáo trong phiên tòa sơ thẩm hình sự phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế, xã hội, văn hóa của quốc gia. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết
và làm sáng tỏ.
Về nguyên nhân chủ quan:
Pháp luật về bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự của TAND chưa được quan tâm đầy đủ, đúng đắn. Những sửa đổi, bổ
sung thời gian qua chưa mang tính tổng thể làm cho pháp luật về bảo đảm quyền
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND thiếu sự ổn
định. Hoạt động nghiên cứu lý luận và tổng kết thực hiện pháp luật về bảo đảm
quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND chưa
được tiến hành thường xuyên, chưa hiệu quả. Hoạt động hợp tác quốc tế, tham
khảo kinh nghiệm các quốc gia khác để nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện pháp
luật bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND chưa được coi là nhiệm vụ thường xuyên.
3.2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO THÔNG QUA VIỆC
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ, TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CHỦ THỂ TRONG HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

3.2.1. Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa

3.2.1.1. Những kết quả đạt được
Các thẩm phán được phân công xét xử đã dành thời gian tìm hiểu về bị
cáo, nắm bắt tâm lý bị cáo; tuân thủ các chuẩn mực văn hóa giao tiếp phù hợp
với đặc điểm văn hóa dân tộc, nâng cao trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp.
Đa số thẩm phán được phân công thực hiện nhiệm vụ xét xử làm tốt công tác
chuẩn bị nghiên cứu hồ sơ vụ án như xây dựng đề cương xét hỏi chi tiết, lập kế
hoạch xét hỏi. Các TAND cấp tỉnh đã cử các HTND tham gia xét xử sau khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi nhận được quyết định cử HTND tham gia
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh, các HTND khi đã chuẩn
bị các kỹ năng tham gia phiên tòa. Khi có quyết định đưa vụ án sơ thẩm hình
sự ra xét xử, TAND cấp tỉnh đã gửi quyết định đến VKS cùng cấp để phân
công KSV tham gia thực hành quyền công tố và kiểm sát tư hoạt động tư pháp
tại phiên tòa.
3.2.1.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, ở giai đoạn trước khi mở phiên
tòa, về phía người tiến hành tố tụng, một số chủ thể chưa làm hết trách nhiệm
của mình để bảo đảm quyền của bị cáo. Có vụ án trước khi ra quyết định đưa
vụ án ra xét xử, thẩm phán được phân công chưa xem xét hết khả năng, điều


13

kiện về thời gian, về chuyên môn nghiệp vụ của HTND cho phù hợp với lịch
xét xử của Tòa án và tính chất của vụ án nên đến trước khi mở phiên tòa, lấy lý
do các HTND trong quyết định đưa vụ án ra xét xử không tham gia được, giải
quyết tình huống này Chủ tọa phiên tòa cử HTND khác tham gia. Một số KSV
được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh cũng chưa nghiên cứu đầy đủ
các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nhất là những chứng cứ gỡ tội cho bị cáo.
Những bất cập trên đây do một số nguyên nhân như sau:

- Chưa có chế tài cụ thể đối với những trường hợp kéo dài thời gian giải
quyết vụ án bằng các quyết định tạm hoãn vì lý do không xác đáng.
- Một số địa phương, mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra (CQĐT), Tòa án
và VKS chưa quy định rõ ràng, cụ thể những nội dung công việc cần được phối
hợp thực hiện trong các giai đoạn thực hiện nhiệm vụ tố tụng nên ảnh hưởng
đến hoạt động bảo đảm quyền của bị cáo.
- Một số vụ án, cán bộ Tòa án không tạo điều kiện cho người bào chữa
tiếp xúc, nghiên cứu tài liệu hồ sơ về vụ án trong giai đoạn trước khi mở phiên
tòa, hoặc người bào chữa cho bị cáo bị gây khó khăn về thủ tục cấp giấy chứng
nhận bào chữa trong vụ án hình sự.
- Một số vụ án việc thực hiện các thủ tục, các giấy tờ liên quan đó là thẻ
luật sư, hay quyết định của cơ sở hành nghề luật sư phân công luật sư với tư
cách là người bào chữa còn mất nhiều thời gian.
- Ý thức trách nhiệm nghề nghiệp của một số Thẩm phán, HTND, VKS
chưa được đề cao trong giai đoạn trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự, năng lực của một bộ Thẩm phán, HTND, VKS thực hành quyền
công tố còn hạn chế.
3.2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa
3.2.2.1. Bảo đảm quyền của bị cáo ở thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thực tiễn tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND
cấp tỉnh cho thấy, các Chủ tọa phiên tòa đều thực hiện thủ tục khai mạc phiên
tòa, sau đó Chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng
trình tự, thủ tục. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu thư ký báo cáo danh sách những
người có mặt theo danh sách đã triệu tập và sau đó Chủ tọa phiên tòa lần lượt
kiểm tra căn cước của các bị cáo và những người tham gia tố tụng theo đúng
trình tự luật định. Khi kiểm tra căn cước của các bị cáo, Chủ tọa phiên tòa chú
ý xác định nhân thân của bị cáo và những điều kiện khác để tiến hành vụ án.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, thực trạng bảo đảm quyền của
bị cáo ở thủ tục bắt đầu phiên tòa tồn tại những bất cập như:

Một số phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa thiếu kinh nghiệm nên không thực
hiện hết những thủ tục ngay khi khai mạc phiên tòa. Có một số vụ án, thẩm
phán sau khi kiểm tra căn cước của bị cáo thấy bị cáo nhận quyết định đưa vụ
án ra xét xử sau 10 ngày nhưng lại không giải thích và trao đổi với với HĐXX
để hoãn mà yêu cầu thư ký thông báo hoãn phiên tòa, cũng không tìm hiểu tâm
tư, ý kiến của bị cáo trước khi quyết định hoãn phiên tòa. Trên thực tế, có một
số vụ án sơ thẩm hình sự TAND cấp tỉnh, Chủ tọa phiên tòa thực hiện những
công việc, trình tự ở thủ tục bắt đầu phiên tòa chưa đầy đủ.
Những bất cập trên đây là do các nguyên nhân sau:
- Một số quy định liên quan đến thủ tục bắt đầu phiên tòa chưa được


14

hướng dẫn thực hiện thống nhất. Một số Chủ tọa phiên tòa thiếu kỹ năng điều
hành phiên tòa, chưa đầu tư thời gian lên kế hoạch xét xử nên ngay khi bắt đầu
phiên tòa đã có sự lúng túng, không quán xuyến hết các công việc ở giai đoạn
này. Một số Chủ tọa phiên tòa chủ quan, cũng như không quan tâm đến nhân
thân của các bị cáo, chưa có ý thức, trách nhiệm cao trong việc bảo đảm các
quyền của bị cáo.
- Có thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa coi nhẹ những thủ tục ở giai đoạn
này với lý do phiên tòa còn có những giai đoạn về sau như xét hỏi, tranh
luận và nghị án nên có thể bổ sung được những thủ tục mà chưa làm khi bắt
đầu phiên tòa..
3.2.2.2. Bảo đảm quyền của bị cáo ở giai đoạn xét hỏi
Trong giai đoạn xét hỏi, phần lớn ở các phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND cấp tỉnh các bị cáo được bảo đảm quyền của mình thông
qua việc trình bày các quan điểm, ý kiến của mình về các tình tiết của vụ án.
Do vậy, tình trạng mớm cung, ép cung, bức cung được hạn chế ở mức thấp
nhất khi bị cáo giữ quyền im lặng không khai báo tại phiên tòa. Văn hóa xét xử

của Thẩm phán, Hội thẩm được cải thiện rõ rệt. Những vụ án lớn, nghiêm trọng
được dư luận xã hội quan tâm đều được đưa ra xét xử kịp thời, đặc biệt là các
vụ án về ma túy, tham nhũng. Việc giải quyết, xét xử bảo đảm thời hạn luật
định, khắc phục tình trạng để án quá thời hạn luật định, hạn chế tối đa số lượng
án chưa được giải quyết.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, thực trạng bảo đảm quyền của
bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh ở giai
đoạn xét hỏi tồn tại những bất cập, hạn chế sau:
Về phía HĐXX: khi xét hỏi một số thành viên HĐXX chưa thực sự chú ý
đến những vấn đề còn mâu thuẫn. Một số phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND cấp tỉnh đã “tuyệt đối hóa” vai trò của HĐXX khi xét hỏi nên không
bảo đảm quyền được thể hiện ý kiến, quan điểm của người bào chữa đối với bị
cáo. Một số Thẩm phán và HTND không chú ý ghi chép lời tranh luận giữa các
bên, thậm chí có đặt những câu hỏi xen ngang ý kiến của luật sư đang phát
biểu, hoặc chưa chú ý đến một số tình tiết quan trọng, những chứng cứ mới,
chưa tạo điều kiện cho luật sư và người bào chữa của họ tranh luận lại những ý
kiến, quan điểm của luật sư với những nội dung, tình tiết chưa thực sự sáng tỏ.
Mặc dù luật quy định khi xét xử thẩm phán và HTND độc lập tuân theo pháp
luật nhưng một số thẩm phán, HTND có tâm lý trông chờ vào vai trò của Chủ
tọa phiên tòa, không tích cực quan sát, lắng nghe việc tranh luận giữa bên buộc
tội và bên gỡ tội.
Tương tự, tại nhiều phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND
cấp tỉnh, một số KSV chưa tích cực, chưa chủ động trong việc xét hỏi mà coi
việc xét hỏi là nhiệm vụ chính của Chủ tọa phiên tòa.
Những bất cập trên đây do các nguyên nhân sau:
- Một số bất cập trong quy định về địa vị pháp lý của người bào chữa và
KSV dẫn đến những khó khăn khi áp dụng pháp luật. Mô hình tố tụng ở nước
ta vẫn nặng về tố tụng thẩm vấn, xét hỏi. KSV vẫn có “ưu thế” hơn trong khi
thực hiện nhiệm vụ xét hỏi bị cáo tại phiên tòa.
- Nhận thức về việc bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử

sơ thẩm các vụ án hình sự của HĐXX chưa thực sự thay đổi, còn sự kỳ thị,
thiếu tôn trọng bị cáo.


15

- Chủ tòa phiên tòa, HĐXX vẫn giữ vai trò chủ đạo, “chỉ huy” các hoạt
động xét hỏi tại phiên tòa.
3.2.2.3. Bảo đảm quyền của bị cáo ở giai đoạn tranh luận
Nghiên cứu hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại TAND cấp
tỉnh cho thấy, ở các phiên tòa Chủ tọa phiên toà đã điều hành tốt quá trình tranh
luận theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. HĐXX xem xét khách
quan, toàn diện toàn bộ các chứng cứ, lập luận qua phần tranh luận công khai
giữa các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự. Phần lớn các vụ án hình sự
được TAND cấp tỉnh thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng, qua đó đảm
bảo các quyền của bị cáo như quyền được bào chữa, quyền được công khai xét
xử, quyền được thể hiện ý kiến, quan điểm về vụ án. Hình phạt mà TAND cấp
tỉnh áp dụng đối với các bị cáo nghiêm minh, kết hợp giữa nghiêm trị với giáo
dục, thuyết phục. Do đó, hằng năm có số lượng lớn các bản án hình sự của các
tòa sơ thẩm cấp tỉnh đã tuyên đều đảm bảo đúng pháp luật, bảo đảm tính khách
quan, công bằng, bảo đảm các quyền của bị cáo.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, bảo đảm quyền của bị cáo
trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm của TAND cấp tỉnh ở giai
đoạn tranh luận tồn tại những hạn chế như:
Tại một số phiên tòa, HĐXX chưa tập trung tạo điều kiện cho bên gỡ tội
thể hiện quan điểm, lý lẽ của mình khi họ bảo vệ quyền lợi cho bị cáo. Nhiều
trường hợp HĐXX ưu tiên hơn cho KSV, hạn chế quyền tranh luận của người
bào chữa bảo vệ cho bị cáo. Một số Chủ tọa chưa chú ý đến việc điều hành quá
trình tranh luận giữa các bên nên ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, không bảo
đảm được các quyền của bị cáo. Quyền bào chữa của bị cáo là phương tiện,

công cụ để bị cáo bảo vệ quyền của mình nhưng trên thực tế vẫn chưa thực sự
được coi trọng. Việc phải tranh luận, phải đối đáp qua lại giữa hai bên buộc tội,
giữa KSV và người bào chữa chưa dân chủ.
Về phía KSV, một số KSV vì chưa chuẩn bị tốt việc tranh luận, không
dự toán được một số tình huống xảy ra nên khi bị cáo và người bào chữa có
những chứng cứ mới thì KSV trở nên bị động và lúng túng, né tránh những
vấn đề mà bên gỡ tội nêu ra trái với quan điểm của KSV, hoặc trả lời không
đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề đang tranh luận. Chính vì vậy, vai trò của
KSV trong hoạt động tranh luận tại một số phiên tòa xét xử các vụ án hình sự
chưa thực sự tích cực.
Về phía luật sư, đa phần, các vụ án có luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi
cho bị cáo thể hiện tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên có những trường hợp luật
sư viện dẫn văn bản pháp luật để bào chữa cho bị cáo chưa đúng, luật sư trả lời
chưa đi thẳng và trực tiếp vào nội dung mà KSV hỏi dấu hiệu đặc trưng của
cấu thành tội phạm. Những phân tích về động cơ, mục đích dẫn đến việc phạm
tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng do phía KSV đưa ra không đúng. Một số
luật sư chưa viện dẫn thêm những tình tiết thuộc về nhân thân, các tình tiết
giảm nhẹ cho bị cáo, chưa lật đi, lật lại xem xét các chứng cứ có sẵn trong hồ
sơ vụ án để tìm ra những bất hợp lý, những mâu thuẫn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những bất cập trên đây:
- Nhận thức về việc bảo đảm quyền của bị cáo ở một số HĐXX chưa thực
sự thay đổi, còn có sự kỳ thị, thiếu tôn trong bị cáo.
- Pháp luật hình sự có nhiều quy định bất cập, chưa hoàn toàn lợi cho bị
cáo, mô hình tố tụng hình sự vẫn nặng về thẩm vấn.


16

- Nguyên tắc tranh tụng mặc dù đã được hiến định nhưng chưa tạo ra sự
chuyển động tích cực, sâu rộng từ trong nhận thức của Thẩm phán, Hội thẩm,

KSV, người bào chữa ở một số phiên tòa xét xử các vụ án hình sự của TAND
cấp tỉnh.
- Ở một số phiên tòa, có trường hợp HĐXX vẫn còn định kiến với bị cáo
là người phạm tội, chưa vận dụng triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội cho bị cáo.
- Ý thức pháp luật của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của TAND cấp tỉnh chưa cao. Nhiều bị cáo chưa có ý thức bảo tự bảo vệ quyền
lợi của mình.
3.2.2.4. Bảo đảm quyền của bị cáo ở giai đoạn nghị án và tuyên án
Phần lớn các TAND cấp tỉnh đã thực hiện đúng các quy định về nghị án
trong quá trình xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Trước khi đưa ra nghị án, từng
nội dung được đưa ra bàn bạc dân chủ. Các thẩm phán đã nắm vững hồ sơ vụ án,
đề xuất những nội dung nghị án. Thẩm phán là Chủ tọa phiên tòa thể hiện vai trò
chính là giải thích và hướng dẫn về đường lối chuyên môn và đường lối cần
được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các thành viên trong
HĐXX đã giải quyết các vấn đề của vụ án bằng biểu quyết đa số từng vấn đề
một theo nguyên tắc HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, bảo đảm quyền của bị cáo ở
giai đoạn nghị án và tuyên án có một số hạn chế như:
Thực tế có vụ án hình sự cấp tỉnh Tòa án đánh giá chưa đầy đủ các chứng
cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án ngay tại tòa (nhất là những chứng cứ gỡ tội) do
đó khi ra bản án HĐXX tuyên phạt bị cáo ở mức hình phạt cao hơn so với cáo
trạng của VKS đã kiến nghị. Một số vụ án, khi nghị án, HĐXX chưa xem xét
khách quan, toàn diện các yếu tố, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt.
Những bất cập, hạn chế trên đây có nhiều nguyên nhân, có thể kể ra một
số nguyên nhân như sau:
- Những bất cập, hạn chế trong quy định về thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ
án. Thời gian cho HTND nghiên cứu hồ sơ vụ án không nhiều, tính từ khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến khi tiến hành phiên tòa. Do vậy, HTND
chứ đủ thời gian nghiên cứu kỹ hồ sơ, củng cố các chứng cứ gỡ tội cho bị cáo.
- Sự chênh lệnh về nghiệp vụ giữa Thẩm phán và HTND ngày càng rõ rệt

cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phụ thuộc của HTND với thẩm
phán trong quá trình xét xử nhất là khi nghị án. Các tiêu chuẩn cho HTND còn
rất chung chung và khác xa so với những tiêu chuẩn đặt ra đối với Thẩm phá.
- Tòa án cấp tỉnh ở một số địa phương chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi
cho HTND thực hiện nhiệm vụ xét xử. Ví dụ có những trường hợp Chánh án Tòa
án nhân dân không trao đổi, tham khảo trực tiếp trước với HTND, cả với lãnh
đạo của nơi HTND công tác để lên lịch xét xử hợp lý.
- Về phía mình, một số HTND chưa chủ động trong việc cập nhật văn bản
pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.


17

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của TAND cấp tỉnh cần phải quán triệt các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo
sau đây:
1) Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn với nhiệm vụ cải cách tư pháp
2) Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nhằm bảo đảm quyền
của bị cáo
3) Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án

hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn với nhiệm vụ xây dựng và hoàn
thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự
4) Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải gắn với nhiệm vụ kiện toàn các cơ quan
điều tra, truy tố, xét xử cùng cấp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
5) Phát huy vai trò của Luật sư, các tổ chức trợ giúp pháp lý và vai trò
giám sát của Mặt trận tổ quốc, cơ quan báo chí trong hoạt động xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh để bảo đảm quyền của bị cáo
6) Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải phù hợp với pháp luật và các điều
ước quốc tế Việt Nam đã ký kết và tham gia
4.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.2.1.Tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa
các quy định về quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
- Để bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử các vụ án hình sự nói chung
và bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của TAND cấp tỉnh nói riêng phải khẩn trương rà soát các quy định pháp luật
liên quan đến bảo đảm quyền của bị cáo ở các văn bản pháp luật khác nhằm
bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ và ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật
cụ thể hóa các quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm theo Điều 61 của Bộ Luật
TTHS năm 2015 như sau:


18

+ Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người

giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
+ Quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố
tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
+ Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
+ Quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời
khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
+ Quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia
phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
+ Quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào
biên bản phiên tòa và các quyền khác theo quy định của pháp luật.
- Đề bảo đảm các quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự cần phải cụ thể hóa những quy định về trách nhiệm của những
người tiến hành tố tụng như quy định rõ trách nhiệm của thẩm phán, HTND,
Chủ tọa phiên tòa, các thành viên HĐXX, KSV thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
4.2.2. Tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa
chế định về bào chữa và quyền của người bào chữa hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
Để bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
cần tiến hành các biện pháp sau đây:
- Sớm nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn và bảo đảm thực hiện quy
định bảo đảm quyền của người bào chữa trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự. Bổ sung quy định về quyền của Luật sư; Bào chữa viên nhân dân;
Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được
trợ giúp pháp lý ở một số văn bản pháp luật liên quan như Luật Luật sư, Luật
Trợ giúp pháp lý.
- Để xác định rõ trách nhiệm của từng có quan có thẩm quyền cấp giấy

chứng nhận bào chữa và tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa nên quy
định rõ cơ quan có thầm quyền cấp trong từng giai đoạn hoặc vấn đề này phải
được quy định trong Nghị định hướng dẫn thi hành khi Bộ luật này có hiệu lực.
- Nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp luật nhằm thực hiện các quy
định về chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi
cung bị can, sao chép, số hóa tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự, giám định tư
pháp và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án .


19

4.2.3. Tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa
chế định về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo đảm quyền của bị cáo
Quán triệt tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Bộ Luật TTHS năm 2015
cần sớm ban hành quy định chi tiết quy định trình tự, thủ tục tố tụng liên quan
đến hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án hình sự trong đó có nhiều
quy định về quyền bị cáo và bảo đảm quyền của bị cáo được sửa đổi, bổ sung.
Để bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của TAND cấp tỉnh, cần phải quán triệt và nhận thức một số vấn đề như sau:
*Trước khi mở phiên tòa:
- Chủ tọa phiên tòa được phân công giải quyết vụ án phải quán triệt những
nội dung mới trong Bộ luật TTHS mới để bảo đảm quyền của bị cáo trong thời
gian trước khi mở phiên tòa.
- Bổ sung quy định khi phát hiện quá trình khởi tố, điều tra, truy tố
không bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thì Tòa án
không mở phiên tòa, trả hồ sơ để VKS khắc phục vi phạm (Điều 280).
- Cần phải có những quy định cụ thể thời gian, hình thức, thủ tục để tòa
án yêu cầu bổ sung chứng cứ, triệu tập người làm chứng và những người tham
gia tố tụng khác đến phiên tòa; đồng thời, có quy định về trách nhiệm của

những người, cơ quan mà Tòa án yêu cầu, đề nghị cung cấp chứng cứ, tài liệu,
triệu tập đến tòa khi những chủ thể này không hợp tác, hoặc trì hoãn thực hiện
yêu cầu của Tòa án dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
- Sớm ban hành các quy chế bảo đảm sự phối hợp giữa Tòa án và VKS
trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ vụ án hình sự để VKS khắc phục vi phạm.
*Về trình tự xét hỏi:
- Cần tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao trình
độ, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng và văn hóa pháp đình cho đội ngũ thẩm
phán, HTND, KSV để họ loại bỏ tư tưởng phân biệt, kỳ thị đối với bị cáo.
- Trước mắt, cần tuyên truyền, giáo dục pháp luật về các nội dung liên
quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của Thẩm phán và HTND cấp tỉnh trong Luật
Tổ chức TAND năm 2014.
- Đối với việc hỏi bị báo: Bộ luật TTHS năm 2015, tại điều 309 quy định về
trình tự, thủ tục hỏi bị cáo. Như vậy, cần nhanh chóng ban hành quy định cụ thể
để hướng dẫn tổ chức thực hiện những quy định về trình tự xét hỏi tại phiên tòa
sơ thẩm hình sự.
*Về hoạt động tranh luận:
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định cụ thể, cần phải nghiên cứu, sớm ban
hành văn bản hướng dẫn thực hiện một số nội dung như sau:
- Quy định cụ thể trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa phải bảo đảm để
quyền của bị cáo và người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền
trình bày ý kiến đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với


20

KSV về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội.
- Cần có quy chế về Phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hình sự để: Chủ toạ
phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho
KSV, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận,

trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ
án và ý kiến lặp lại.
- Cần có quy chế quy định trách nhiệm của HĐXX. Theo đó, HĐXX phải
lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của KSV, bị cáo, người bào chữa, người
tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của
vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên
tòa thì HĐXX phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.
*Về nghị án và tuyên án:
Để thực hiện hiệu quả quy định về nghị án trong Bộ luật TTHS năm 2015 và
để bảo đảm quyền của bị cáo cần có hướng dẫn thực hiện điều luật theo hướng:
- Cần có biện pháp giám sát hoạt động nghị án của HĐXX có đúng trình
tự, thủ tục và được tiến hành đầy đủ tại phòng nghị án của Tòa án.
- Quy định biện pháp, và yêu cầu việc ghi biên bản nghị án. Bảo đảm biên
bản nghị án có phản án đúng trình tự, nội dung thao luận của nghị án hay không.
- Triển khai biện pháp thi hành quy định cấm các cơ quan, chủ thể khác
can thiệp đến hoạt động HĐXX khi tiến hành nghị án.
- Có quy định cụ thể phân định vai trò của Chủ tọa phiên tòa trong việc
cung cấp, giải thích chuyên môn, nghiệp vụ xét xử cho HTND khi nghị án
tránh lợi dụng việc này để gây ảnh hưởng đến quyết định của HTND.
4.2.4. Xây dựng phương án, kế hoạch cụ thể bảo đảm quyền của bị
cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh
* Đối với thẩm phán và Chủ tọa phiên tòa
Ngay khi có quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm,
Chủ tọa phiên tòa phân công thư ký tòa án phải tiến hành gửi các quyết định tố
tụng cho bị cáo. Tòa án tiến hành các biện pháp giúp đỡ bị cáo liên lạc với người
thân để liên hệ với Luật sư, hoặc bào chữa viên nhân dân, trợ giúp pháp lý trước
khi bị cáo tham dự phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh.
Tóm tại, ngay khi bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa phải giải thích cho
bị cáo hiểu các quyền của mình khi tham gia phiên tòa. Tòa án và Viện kiểm

sát phải tạo điều kiện hơn nữa khi cho bị cáo được gặp người bào chữa để trình
bày ý kiến; để cho bị cáo trình bày ý kiến về đồ vật, tài liệu; để cho bị cáo trình
bày ý kiến về chứng cứ. TAND cần tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí
thông tin hoạt động xét xử.
*Đối với KSV
- Trước khi mở phiên tòa, khi nhận được quyết định phân công thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử, KSV thu xếp thời gian gặp gỡ bị


21

cáo, tìm hiểu nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo cũng như tâm tư,
nguyện vọng của bị cáo.
- KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án (bao gồm những chứng cứ buộc tội
và chứng cứ gỡ tội cho bị cáo) trước khi phiên tòa tiến hành.
- KSV cần nắm chắc toàn bộ tiến trình điều tra vụ án và những tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Việc chuẩn bị tốt cho việc tranh tụng tại phiên
tòa có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực hành quyền
công tố của KSV. Khi có đủ các chứng cứ, tài liệu cho thấy bị cáo có yếu tố
giảm nhẹ TNHS thì KSV có quyền quyết định việc rút một phần (hoặc toàn bộ
cáo trạng) hoặc kết luận về một tội khác nhẹ hơn tại phiên tòa.
*Đối với HTND
- Khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử và phân công tham gia
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND, HTND phải thu xếp thời để đánh
giá hết các chứng cứ trong hồ sơ để có quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là
đối với những vụ án sơ thẩm hình sự cấp tỉnh có nhiều tình tiết phức tạp.
- Trong quá trình nghị án và biểu quyết về nội dung của vụ án, để bảo vệ
quyền của bị cáo khi thấy có lý do chính đáng, có chứng cứ và tài liệu, căn cứ
để bị cáo được giảm nhẹ TNHS nhưng ý kiến của HTND không giống như ý
kiến của đa số thành viên HĐXX thì HTND có thể thực hiện quyền bảo lưu ý

kiến của mình, yêu cầu thẩm phán lập biên bản và lưu trong hồ sơ vụ án.
*Đối với người bào chữa
Khi nhận được quyết định chỉ định tham gia bào chữa cho bị cáo hay khi
nhận lời đề nghị bào chữa từ phía bị cáo hoặc gia đình bị cáo, để bảo vệ tốt
quyền của thân chủ của mình, luật sư thu xếp thời gian gặp gỡ bị cáo để tìm
hiểu về yêu cầu, nguyện vọng của bị cáo cũng như hoàn cảnh gia đình, nhân
thân của bị cáo.
- Luật sư xây dựng chi tiết bản thảo đề cương và luận cứ bảo vệ quyền của
bị cáo, tập hợp những giấy tờ về nhân thân giấy tờ chứng nhận bị cáo thuộc
diện chính sách ưu tiên, gia đình có công với cách mạng; các giấy tờ chứng
nhận về sức khoẻ và hoàn cảnh gia đình của bị cáo…
- Để nắm được các tình tiết của vụ án, bảo vệ tốt các quyền của bị cáo,
luật sư phải theo dõi mọi diễn biến tại phiên toà, lắng nghe các câu hỏi của
HĐXX, KSV, Luật sư đồng nghiệp và các câu trả lời của những người bị hỏi.
Kết hợp với việc nghe, Luật sư cần ghi chép những điểm quan trọng có liên
quan đến việc bảo vệ cho bị cáo
- Khi tranh luận, luật sư cần chốt lại những vấn đề quan trọng nhất đã
được phân tích làm rõ kiến nghị để HĐXX xem xét quyết định.
4.2.5. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
* Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán tòa hình sự TAND cấp tỉnh
Đề tiếp tục bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các


22

vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh thời gian tới cần chú ý xây dựng đội ngũ
thẩm phán TAND cấp tỉnh, những người trực tiếp tiến hành hoạt động xét xử,
trên các nhiệm vụ như sau:
- Hoàn thiện quy trình về tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán.

- Xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức,
tài vào làm việc ở trong các TAND cấp tỉnh.
- Cần phải đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của
thẩm phán tòa án hình sự của TAND cấp tỉnh với các biện pháp cụ thể như sau:
Đổi mới công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ,
Thẩm phán và HTND của TAND cấp tỉnh để tạo nguồn nhân lực có chất lượng
với các hình thức như: đào tạo Thẩm phán, đào tạo cán bộ quản lý và đào tạo
cán bộ khác. Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài để tăng số
lượng và nâng cao chất lượng thẩm phán, phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Cần có một quy định bảng lương và mức lương của thẩm phán TAND
các cấp trong đó có chế độ riêng cho các thẩm phán TAND cấp tỉnh – những
người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xét xử, bảo đảm quyền của bị cáo trong
phiên tòa sơ thẩm hình sự.
* Nâng cao chất lượng HTND tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của TAND cấp tỉnh
Để tiếp tục bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh cần tiến hành một số giải pháp sau:
- Ngành TAND và các TAND cấp tỉnh tổ chức các khóa bồi dưỡng về
nghiệp vụ để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng giải quyết vụ án hình sự
sơ thẩm cấp tỉnh bảo đảm phán quyết khách quan, khoa học, đúng người, đúng
pháp luật, bảo đảm quyền của bị cáo.
- Xây dựng tiêu chuẩn về Hội thẩm phù hợp với các cấp Tòa án trong đó
có tiêu chí về Hội thẩm tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND
cấp tỉnh phù hợp với các quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014.
- Tổ chức định kỳ Hội nghị tổng kết công tác xét xử của HTND, qua đó
TAND đánh giá chất lượng công tác của HTND, Đoàn HTND, kịp thời khắc
phục những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện nhiệm vụ của Hội thẩm,
xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa TAND với cơ quan, đơn vị cử HTND
tham gia các phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án nhân dân cấp tỉnh để nâng cao
tinh thần, trách nhiệm của các HTND trong việc bảo đảm các quyền của bị cáo.

* Nâng cao chất lượng đội ngũ KSV thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
TAND cấp tỉnh
Cần triển khai các biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ KSV cấp tỉnh
theo tiêu chuẩn được đề cập trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014. Mở các lớp học, khóa bồi dưỡng nâng cao kỹ năng cho KSV thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm hình sự của


×