Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE

Social Sci., 2013, Vol. 58, No. 6, pp. 169-176

ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
VÀ PHẬT GIÁO TRONG ÂM NHẠC TRỊNH CÔNG SƠN

Nguyễn Thị Toan
Khoa Triết học, Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Trịnh Công Sơn là một trong những nhạc sĩ mở đầu cho dòng tân nhạc
Việt Nam hiện đại. Một trong những yếu tố làm nên nét đặc sắc trong âm nhạc
Trịnh Công Sơn là triết lí nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về chiến tranh, thân phận con
người và tình yêu. Những triết lí đó mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh và
Phật giáo. Bài viết này phân tích ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh với nỗi ám ảnh
về chiến tranh và cái chết, về thân phận con người nhỏ nhoi, đơn độc trong cuộc
đời phi lí, hư vô; ảnh hưởng của Phật giáo với triết lí vô thường vô ngã, kiếp luân
hồi, từ bi hỉ xả tới âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Từ khóa: Âm nhạc Trịnh Công Sơn, chủ nghĩa hiện sinh, Phật giáo, chiến tranh,
thân phận con người, cái chết, hư vô, vô thường, luân hồi, tình yêu.

1. Mở đầu
Trong những biến động dữ dội của Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, Trịnh Công Sơn
xuất hiện như một hiện tượng âm nhạc đặc biệt. Với những bản tình ca đậm chất nhân văn
về tình yêu, cuộc đời, về thân phận con người, về sự sống và cái chết,. . . người nhạc sĩ tài
hoa ấy đã mang lại cơn gió lạ làm dịu đi những ngột ngạt thời cuộc, lay động lòng người,
đánh thức những con tim yêu thương đồng loại. Trong những sáng tác của ông, ẩn chứa
sau ca từ và giai điệu nhẹ nhàng là triết lí nhân sinh sâu sắc mang hơi thở của thời đại và
sự tích hợp tinh hoa văn hóa Đông Tây. Đặc biệt, chủ nghĩa hiện sinh phương Tây và Phật
giáo phương Đông đã in dấu ấn khá đậm nét trong triết lí của ông, góp phần làm nên nét
đặc sắc của âm nhạc Trịnh Công Sơn.


2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong âm nhạc Trịnh Công Sơn
2.1.1. Chủ nghĩa hiện sinh và sự du nhập của nó vào miền Nam Việt Nam

Ngày nhận bài 5/5/2013. Ngày nhận đăng 25/8/2013.
Liên lạc Nguyễn Thị Toan, e-mail:

169


Nguyễn Thị Toan

Chủ nghĩa hiện sinh (existentialism) là một trào lưu triết học nhân bản phi duy lí
phát triển mạnh mẽ vào những năm 60 của thế kỉ XX. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh
phản ánh mâu thuẫn sâu sắc của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nỗi
đớn đau tê dại của con người sau đổ vỡ hoang tàn của hai cuộc chiến tranh thế giới, những
khủng hoảng do mặt trái của khoa học công nghệ mang lại và sự bất lực của con người
trước ý nghĩa của tồn tại người. Đó là tiếng nói của tầng lớp trí thức tư sản, tiểu tư sản khắc
khoải muốn vượt lên chính mình, nhập cuộc, dấn thân vào thế giới bi thảm, vô nghĩa và
phi lí để tìm về nhân vị con người với tất cả sự phong phú, đa dạng của chủ thể tính. Trong
chủ nghĩa hiện sinh, con người là một sinh vật nhỏ nhoi, hữu hạn bị quẳng vào thế giới
tàn khốc, tự do kiến tạo nên mình, tự do lựa chọn bản chất của chính mình trong những
dự phóng không cùng vào tương lai bất định. Xung đột với Thượng đế, với tự nhiên, với
tha nhân và với chính bản thân mình khiến con người cảm thấy cô đơn trong hiện hữu và
chạm trán với hố thẳm hư vô của cuộc đời. Trống rỗng, cô đơn, buồn chán trước thân phận
mong manh và hiện thực bi thảm là tâm trạng chung của con người hiện sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh vào miền Nam Việt Nam từ giữa thế kỷ XX và dần trở thành
trào lưu tư tưởng có sức hấp dẫn lớn đối với đông đảo trí thức, thanh niên. Tới giai đoạn
1961 – 1975, triết học hiện sinh được thể hiện rộng rãi qua các tác phẩm văn học nghệ
thuật nên càng có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ hơn. Sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình

Diệm cùng hệ tư tưởng duy linh nhân vị, không khí ngột ngạt của chiến tranh tàn khốc,
sự bế tắc đến cùng quẫn trong đời sống tinh thần của nhân dân. . . khiến cho triết học hiện
sinh bám rễ sâu và phát triển mạnh mẽ hơn trong xã hội. Văn học nghệ thuật hiện sinh
thời kì này viết nhiều về đời sống nội tâm của con người với nỗi buồn đau trĩu nặng, sự
mong manh của kiếp người, sự xa lạ của thế nhân, sự đổ vỡ của niềm tin và ước vọng,
sự vô định của đời sống, nỗi tuyệt vọng về cái chết... Trịnh Công Sơn đã học triết học tại
trường Lyceè Jacques Rosseau của Pháp tại Sài Gòn. Bởi vậy, chủ nghĩa hiện sinh đã đi
vào trong các sáng tác của ông như một lẽ tự nhiên.
2.1.2. Nhạc Trịnh với nỗi ám ảnh về chiến tranh và cái chết
Sinh ra và lớn lên trong lòng cuộc chiến tàn khốc, hàng ngày phải đối diện với
những bi thảm của chiến tranh, âm nhạc Trịnh Công Sơn chất chứa nỗi ám ảnh về chiến
tranh và cái chết. Trịnh là chứng nhân lịch sử. Trái tim người nghệ sĩ khắc khoải, âu lo,
chết lịm trước đổ vỡ hoang tàn của quê hương. Những trải nghiệm đớn đau về chiến tranh
đã in dấu trong những bản nhạc Đại bác ru đêm, Gia tài của mẹ, Tình ca người mất trí,
Ca khúc da vàng, Kinh Việt Nam. . . Âm nhạc Trịnh Công Sơn là tiếng thở dài của thời
đại lầm than, là nỗi xót thương cho những kiếp người khổ ải mà “cái chết là sự đùa cợt
sau cùng của cuộc sống” [8]. Ông đã nghe, đã thấy, đã thấm và nghẹn ngào, run rẩy trong
từng tế bào về cái chết của những người Việt Nam máu đỏ da vàng: “Một chiếc xe tang,
trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan” (Ngụ ngôn mùa đông). Cái chết đến
với một đứa trẻ thơ ngây trong một buổi sáng mùa xuân “đạp trái mìn nổ chậm, xác không
còn đôi chân” (Một buổi sáng mùa xuân), với người con gái Việt Nam da vàng trong một
đêm đạn lạc, với người sĩ quan quân lực cộng hòa... Trịnh bộc bạch những suy tư, trăn trở
về chiến tranh: “Đã có điều gì không thật suốt 20 năm nay. Một lầm lỡ đã lên đường và
170


Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn

phải đi cho trót con đường máu xương. Như một mũi tên vô tri bỗng lỗi thời trong một
nhiệm kì vô định. Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng

được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế 20 năm.
Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo. Đến lúc
chúng ta phải dừng tay và nhìn lại” (Kinh Việt Nam). Cái nhìn của Trịnh về chiến tranh là
cái nhìn hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh từ chối không nương theo một hệ tư tưởng. Hiện
sinh cũng không thừa nhận con người lí tưởng theo khuôn mẫu phổ quát. Con người hiện
sinh thông qua những kinh nghiệm riêng biệt, độc đáo của bản thân để nhìn nhận về thế
giới và tự tạo nên chính mình trong muôn vàn mạch ngầm của đời sống. Triết lí của Trịnh
về chiến tranh là một triết lí phi tuyến tính, không toan tính chính trị, không tựa vào một
hệ tư tưởng. Với Trịnh, không có chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Chiến
tranh chỉ là mất mát, tang thương với người Việt Nam máu đỏ da vàng. Lấy ý tưởng từ
Huyền thoại Sisyphe của Albe Camus, Trịnh viết Dã tràng ca. Bi kịch của cuộc đời con
người là nỗ lực cho một mục đích, một lý tưởng nào đó nhưng kết quả là vô nghĩa, giống
Sisyphe suốt đời lăn đá lên đỉnh núi cao rồi lại thả cho lăn xuống vực, ngày này qua tháng
khác. Con dã tràng khóc cho thân mình khi suốt đời xe cát biển Đông, để rồi “Trùng
dương đưa sóng vào bờ, đùa trên biển cát hoangvu, xóa từng mảnh công dã tràng” (Dã
tràng ca). Phải chăng, đời sống này là vô nghĩa trong niềm đau của thân phận con người?
Cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam cũng là vô nghĩa trong mất mát cả từ hai phía?
Gắng giữ cho mình “đứng bên lề lịch sử” với đôi bàn tay sạch, Trịnh chênh vênh giữa hai
bờ đối nghịch. Triết lí sẽ chơi vơi khi không có một hệ tư tưởng làm điểm tựa. Cô đơn
trong triết lí chơi vơi ấy, Trịnh quay về tìm điểm tựa tại Tâm. Đây chính là điểm gặp gỡ
giữa chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo trong nhạc Trịnh.
2.1.3. Hình ảnh con người hiện sinh cô đơn giữa cuộc đời hư ảo trong âm nhạc
Trịnh Công Sơn
Bi kịch thời đại và bi kịch cá nhân quy định hình ảnh con người cô đơn giữa cuộc
đời hư ảo trong nhạc Trịnh. Nỗi đau, nỗi cô đơn trong tâm hồn Trịnh đã chưng cất lên
những ca từ buồn bã và đẹp đẽ, có sức hấp dẫn lòng người đến ma mị. Bởi vậy, “khi nào
buồn, khi nào cô đơn đến tuyệt vọng mà không biết bấu víu vào đâu nữa, người ta tìm về
với Trịnh” (Frank Gerke) [8]. Con người hiện sinh là con người cô đơn giữa dòng đời vô
định, trong xung đột giữa hữu hạn và vô hạn, duy lí và phi lí, hiện hữu và hư vô. Trịnh
cũng chênh vênh giữa hai bờ hư thực, tự nhận mình là “kẻ lưu đày” trong thế giới này,

“là tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc
mơ đời hư ảo” [8]. Trịnh xót xa cho thân phận nô lệ da vàng chấp nhận kiếp lưu đày, thỏa
hiệp với tha nhân, đánh mất nhân vị của mình. Trịnh khắc khoải trước phận người nhỏ
nhoi, mong manh giữa lằn ranh của sự sống và cái chết, nỗi buồn và sự cô đơn. Đó là ki
kịch của cái chết chồi lên trong sự sống, đến mắt lá cũng mù và nhịp đập của con tim để
nuôi dưỡng sự sống cũng là nhịp đập hoang phế trong thân gầy tàn tạ: “Trên đời người trổ
nhánh hoang vu. Trên ngày đi mọc cành lá mù. Những tim đời đập lời hoang phế. Dưới
mặt trời ngồi hát hôn mê. Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ. Dưới chân ngày cỏ xót xa
đưa” (Cỏ xót xa đưa). Hành trình của đời là hành trình loanh quanh, vô định trong mệt
171


Nguyễn Thị Toan

mỏi và đơn côi: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi xuống trăm năm một cõi đi về” (Một cõi đi về).
Một mình đi trong trời cao đất rộng, trong đời vô tận, rồi trở về đối diện với chính mình
với lòng mình, đơn độc, hoang mang: “Trời cao đất rộng. Một mình tôi đi. Một mình tôi
đi. Đời như vô tận. Một mình tôi về. Một mình tôi về. . . với tôi” (Lặng lẽ nơi này). Nỗi
buồn thấm trong tiếng hát, trong buổi chiều mưa chủ nhật khi người nghệ sĩ đơn côi “nằm
trên căn gác đìu hiu” (Lời buồn thánh). Trịnh tự thấy mình lạc loài giữa cõi đời, cõi người,
thấy thân phận con người nhỏ bé như “Hạt cát ngu ngơ nằm chìm dưới chân đi. Bờ bến vu
vơ nằm chìm dưới hư vô” (Chìm dưới cơn mưa). Đi tới tận cùng nỗi cô đơn, chỉ còn mình
với chính mình và hư vô, tâm hồn Trịnh trở thành tiếng vọng của nhân sinh, đau đớn, xót
xa: “Tôi đã lắng nghe im lặng thở dài. Sau cơn bão qua. Im lặng mặt người. Nghe bao
nỗi đau trên một bàn tay” (Tôi đã lắng nghe). Trăm năm – hư vô – cái chết là điệp khúc
quen thuộc trong nhạc Trịnh. Hình ảnh người lăn đá với nỗi niềm vô vọng cũng xuất hiện
nhiều lần: “Người chợt nhớ mình như đá, đá lăn vết lăn buồn. . . Như trùng dương đêm
mãi thân còn nghe ngóng, đá lăn vết lăn trầm” (Vết lăn trầm). Phải chăng kiếp người cũng
vô nghĩa, phù du như Sisyphe lăn đá? Trịnh mượn vết lăn trầm của đá để nói về kếp người

lận đận, trầm luân và tự nhận: “Tôi như đá nặng nề, trong giây phút tình cờ rớt xuống mịt
mù” (Ngày nay không còn bé). . . Mang nặng nỗi buồn về sự vô nghĩa của cuộc đời, sự thê
thiết phận người, Trịnh xót xa cảm nhận: “Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng, rơi rất gần
rơi xuống trong tôi” (Gần như niềm tuyệt vọng). Nhưng chỉ là gần như. Vậy điều gì đã giữ
cho Trịnh mặc dù đi đến tận cùng nỗi cô đơn nhưng lại không chìm đắm trong tận cùng
của niềm tuyệt vọng?

2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn
2.2.1. Trịnh Công Sơn với Phật giáo
Nếu chỉ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh, âm nhạc Trịnh Công Sơn sẽ chỉ có
nỗi buồn đau tuyệt vọng. Thế nhưng đó không phải là tâm thức chủ đạo trong âm nhạc của
ông. Nhạc Trịnh lấy buồn đau làm dòng tâm thức chủ đạo nhưng đó là nỗi buồn của tâm
từ, của tình yêu thương da diết với thế nhân. Điều gì khiến Trịnh trong cuộc đi mỏi mệt
của kiếp người, qua những mong manh ảo ảnh phù du của đời sống tìm lại được những
yêu thương và niềm vui sống nhẹ nhàng, thanh thản? Đó chính là tinh thần thiền của Phật
giáo. Có thể nói, sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo đã làm nên nét đặc sắc
trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Theo tâm sự của Trịnh Công Sơn, ông đã là Phật tử trong một gia đình có tôn
giáo chính là Phật giáo. Những ngày còn trẻ, Trịnh đã đọc và thuộc nhiều kinh Phật. Trịnh
cũng hay đến chùa và thích sự yên tĩnh trong chùa. Đặc biệt, những ngày tháng trên giường
bệnh, ông thường được nghe tiếng kinh cầu an để đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu
kinh ấy. Bởi vậy, Trịnh thừa nhận rằng, bên cạnh việc học được những di sản văn hóa
Đông Tây, Phật giáo đã thấm vào ông từ trong vô thức. Ông nhận thấy rằng Phật giáo là
một tôn giáo mang nhiều tính chất hiện sinh nhất. Bởi thế Trịnh mong muốn Phật giáo là
“một thứ triết học siêu thoát mà ai cũng cần phải học, ngay cả những người theo tôn giáo
172


Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn


khác. Mỗi người phải nỗ lực xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng
mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một tượng đài vững chắc. Nó sẽ
giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc sống khác đi” [8]. Đây chính là lý do giải thích
tại sao dù buồn đau tuyệt vọng, dù chịu ám ảnh định mệnh bởi cái chết nhưng âm nhạc
Trịnh Công Sơn không đưa con người tới đáy sâu của niềm tuyệt vọng và cái chết. Có thể
nói, nếu như chủ nghĩa hiện sinh ảnh hưởng mạnh mẽ tới âm nhạc Trịnh Công Sơn thời
trẻ, trong những ám ảnh định mệnh về chiến tranh và cái chết thì đến giai đoạn sau này,
ảnh hưởng Phật giáo lại chiếm ưu thế. Tuy nhiên, việc phân chia ranh giới ảnh hưởng này
chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì giữa chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo có những điểm
tương đồng. Trịnh cũng thừa nhận: “Bậc thượng thừa của chủ nghĩa hiện sinh chính là ông
Phật” [8].
2.2.2. Vô thường và nét đẹp nhân sinh trong nhạc Trịnh
Tính vỡ đã nằm trong chiếc cốc, đó chính là tinh thần vô thường độc đáo của Phật
giáo. Theo Phật giáo, mọi cái đều trôi đi, đều chảy đi trong quỹ đạo vô thường của cuộc
sống. Hợp rồi tan, tử biệt sinh li là quy luật của đời. Ảnh hưởng bởi tinh thần Phật giáo,
người nghệ sĩ lãng du trong cõi vô thường đã rất tinh tế nhận thấy những sự biến đổi của
thiên nhiên, của năm tháng thời gian, của tình yêu. . . trong từng satna sự sống.
Vô thường trong thiên nhiên là gió đổi mùa, nắng thủy tinh, đóa hoa vàng mỏng
manh cuối trời, chiếc lá thu phai, mưa bay trên tầng tháp cổ . . . “Bốn mùa thay lá, bốn
mùa như mây. Những dòng sông nối tay với biển khơi. Đêm chờ ánh sáng mưa đòi cơn
nắng. Mặt trời lấp lánh trên cao vừa xa vừa gần” (Bốn mùa thay lá).
Vô thường của thời gian là “mùa thu tàn tạ”, “mùa đông nhạt nhòa”, là cái chết của
tháng ngày và cái chết của đời trong vàng úa mùa thu: “Nhìn những mùa thu đi, em nghe
sầu lên trong nắng, và lá rụng ngoài song, nghe tên mình vào quên lãng, nghe tháng ngày
chết trong thu vàng” (Nhìn những lần thu đi).
Vô thường trong tình yêu là cái đẹp mong manh, gầy guộc, xanh xao với hình ảnh
người tình “vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xăm” (Như cánh vạc bay).
Những mối tình đi qua đời Trịnh cũng là “những mối tình lãng đãng khói sương, hoàn
toàn không có gì cụ thể” [2]. Bởi vì trong những mối tình ấy, mầm mống của chia li đã
dấy lên ngay từ phút giây hội ngộ: “Đã có nghìn trùng trên môi người tình. Đã giấu nụ

tàn bên trong nụ hồng. Có chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn. Có thoáng gập ghềnh trên
con đường mòn” (Như một vết thương), “Ngày nào vừa đến đã xa muôn trùng” (Rồi như
đá ngây ngô), “Từ lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng” (Như cánh vạc bay), “Có chút lệ
nhòa trong phút hôn nhau” (Bay đi lặng thầm). . . Đó những cuộc chia ly mà người nghệ sĩ
mang thân phận của kẻ ngoái nhìn “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”,
để “Ngày ra đi với gió. Ta nghe tình đổi mùa. Rừng đông rơi chiếc lá. Ta cười với âm u”
(Những con mắt trần gian); “Lòng tôi có đôi lần khép cửa. Rồi bên vết thương tôi quỳ. Vì
em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia” (Đêm thấy ta là thác đổ ).
Vô thường của kiếp người là quan niệm “ở trọ cõi trần gian”: “Con chim ở đậu cành
tre. Con cá ở trọ trong khe nước nguồn. Tôi nay ở trọ trần gian. Trăm năm về chốn xa xăm
173


Nguyễn Thị Toan

cuối trời” (Ở trọ). Đó cũng là tư tưởng “sống gửi thác về” của nhà Phật. Đời người trong
cõi trăm năm chỉ như một giấc mộng, như bóng nước, phù du, ảo ảnh. Chết mới là về với
cõi vĩnh hằng. Trịnh thấy thiên thu là một đường không bến bờ: “Những con đường trăng
tròn là những con đường trăng khuyết. . . Tôi phiêu lạc bao nhiêu năm rồi trên một dòng
đời không bờ bến. Có khi tưởng bờ là bến. Có khi tưởng bến là bờ. Cái tạm và cái thường
hằng lắm khi là một. Thế mà cứ lại là khác nhau. Cái bờ mỏng manh khoảnh khắc ra đi.
Cái bến nhiều khi bền bền ở lại. Bờ mở ra những bến. Có dâu bể cho bờ. . . ” [8].
Hiểu thấu lẽ vô thường là để quý hơn những gì đang có, để yêu đời hơn chứ không
chối bỏ cuộc đời. Lẽ vô thường cũng giúp con người không quá nuối tiếc, xót xa trước
những gì tất yếu phải trôi qua cuộc đời mình. Bởi vậy, Trịnh không oán giận những người
tình đã rời bỏ mình. Trái lại, ông yêu họ bằng tình yêu của tâm từ nhà Phật: “Yêu em
yêu thêm tình phụ. Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ” (Ru em). Nếu nhà hiện sinh nhìn tha
nhân như người xa lạ, như kẻ phản bội mang đầy hiểm họa thì trái lại, tha nhân là người
Việt Nam máu đỏ da vàng, là nhân loại khổ đau và Trịnh yêu tha nhân bằng tình yêu da
diết. Trịnh trân trọng, nâng niu tình nhân, coi mỗi cuộc tình đi qua cuộc đời là một phần

máu thịt của mình. Âm nhạc Trịnh đã thăng hoa vô thường thành nét đẹp vĩnh hằng trong
cõi tạm của đời. “Nơi em về ngày vui không em, nơi em về trời xanh không em. Ta nghe
nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh”. Nỗi đau, bi kịch của đời giúp nghệ
thuật thăng hoa thành cái đẹp, cứu rỗi tâm hồn người nghệ sĩ cô đơn. Trong cuộc đời, mặc
dù “đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng”, mặc dù phải trải qua bao đắng cay, bi kịch
do sự hẹp hòi, đố kị gây ra nhưng Trịnh cũng không hề oán giận: “Có những ngày tuyệt
vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau. . . Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng
để tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa. . . Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời
bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng” (Tin vào niềm tuyệt vọng). Với tâm từ nhà Phật, ông nhẹ
nhàng hóa giải nỗi đau và thù hận: “Cái Tôi đáng ghét (Le moi est haisable) nhưng cái Tôi
cũng có lúc đáng yêu vì cái Tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu cuộc đời và cuộc
đời cũng đã yêu tôi. Đó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống nàỵ. Vì thế trong lòng tôi không
có một giây phút nào nuôi lòng oán hận đối với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi
mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời lớn rộng quá và mỗi chúng ta chỉ là hạt
bụi nhỏ trong trần gian mà thôi. Giận hờn trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xóa hết
những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những
điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn. Ai cũng biết cuộc đời là quý
vì vậy ai cũng muốn ôm lấy mãi cuộc đời. Như đôi tình nhân. Nhưng mà nợ trần không
dễ, không dài. Rồi sẽ có phút chia lìa” [8].
2.2.3. Vòng quay luân hồi và thái độ an nhiên trực diện cùng cái chết
Nỗi ám ảnh lớn nhất trong cuộc đời Trịnh không phải là tình phụ mà là cái chết.
Đó cũng là điểm gặp gỡ giữa chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo khi nói về nỗi khổ của đời.
Trịnh thừa nhận: “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau này
vẫn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và cái chết trở thành vấn đề lớn trong đời sống
tinh thần của tôi. Có lẽ suy cho cùng từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cuộc
sống, sợ mất nó” [4;523]. Tuy nhiên, ám ảnh này không dẫn Trịnh tới cảm giác buồn nôn
174


Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn


vào thực tại phi lí như chủ nghĩa hiện sinh của J.P.Sartre. Điều gì đã khiến Trịnh vượt qua
được nỗi ám ảnh về cái chết – nỗi sợ hãi lớn nhất của con người? Theo Rene’ Muller: “Chỉ
khi tôi tự do đối mặt với cái chết của tôi, tôi mới có tự do để sống trọn vẹn cuộc đời mình.
Khi tôi có thể buông lỏng thời gian thì tôi mới có thể đón nhận thời gian. Khi tôi cảm
nhận được sự không. . . thì cái nền của sự có sẽ hiện ra dưới chân tôi” [8]. Điều giúp Trịnh
tự do đối mặt với cái chết một phần là từ thuyết luân hồi nhà Phật. Gánh nặng nghiệp báo
luân hồi nhắc nhở con người sống thiện ở kiếp này để hạnh phúc ở kiếp sau. Đó là chiếc
phanh cho con người trước ranh giới mong manh của thiện ác, chính tà. Thuyết luân hồi
đã hóa giải nỗi đau khổ của sinh lão bệnh tử bằng việc mở ra cánh cửa sự sống đằng sau
cái chết. Luân hồi để trả nợ kiếp trước nhưng cũng là để tiếp nối sự sống ở kiếp sau. Vô
thường của đời nằm trong vòng quay bất tận của kiếp luân hồi. Đó là vòng quay của hạt
bụi người nhỏ bé: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi. Ôi cát
bụi mệt nhoài. Tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi” (Cát bụi). Trăm năm sống chết cũng
chỉ là một cõi đi về, ra đi đồng nghĩa với trở về trong một kiếp sống khác (Một cõi đi về).
Cái chết là sự ra đi cuối cùng trong hành trình dằng dặc kiếp người nhưng cũng là sự trở
về, như giấc ngủ cuối cùng trong cõi tạm của đời. Vòng tròn luân hồi vô thủy vô chung
trong thời gian phi tuyến tính. Với niềm tin rằng chết chỉ là thay một bộ y phục thể xác,
con người sẽ an nhiên trực diện cùng cái chết, thấy cái chết không quá đáng sợ nữa. Với
Trịnh, “cái mất chưa hẳn đã mất, cái còn thì vẫn mãi còn” [9]. Cái mất cũng chỉ là tạm
thời, cái đã mất ấy có thể quay trở về với hình hài khác. Bởi vậy, Trịnh xác định: “Cuối
cùng không có gì khác hơn ngoài sống và chết. Sống làm thế nào cho tràn ngập sự có mặt
và chết cho ngập tràn cõi hư không. Phải đi đến tận cùng hai cõi sống chết để làm tan biến
những mộng đời không thực” [8]. Trịnh cũng đã chuẩn bị chia tay cuộc đời một cách nhẹ
nhàng, thanh thản: “Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây. . . Đóa hoa
vàng mỏng manh cuối trời, như một lời chia tay” (Như một lời chia tay).
“Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng” (Phật giáo). Tinh thần thiền Đại thừa
đã giúp Trịnh vượt qua nỗi tuyệt vọng, vượt lên sự đối lập nhị nguyên sống – chết, khai
mở tâm từ, giao hòa với đời bằng những yêu thương vô bờ bến: “Sống giữa đời này chỉ có
thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách

nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời”
[8]. Với công án thiền “lắng nghe tiếng vỗ của một bàn tay”, Trịnh đã lắng nghe trong im
lặng của đời, im lặng của người, đánh thức những con tim tình yêu cuộc sống, xóa đi mọi
cách ngăn, hóa giải mọi niềm đau và thù hận, đạt tới cái Không bát ngát của thiền. Siêu
việt từ đáy sâu của khổ đau tuyệt vọng, âm nhạc của Trịnh đã đơm hoa kết trái bằng vẻ
đẹp vĩnh hằng của niềm tin yêu trong trẻo, thanh khiết, trở thành “những bản kinh cầu bên
vực thẳm về thân phận và tình yêu” [7], trở thành “cuộc rong chơi ngậm ngùi của cái hữu
hạn muốn chộp bắt cái vô hạn làm món quà thế chấp cho đời mình” [8]. Đó chính là giá
trị vĩnh hằng, là quà tặng vô giá cho cuộc đời của âm nhạc Trịnh Công Sơn.

175


Nguyễn Thị Toan

3. Kết luận
Âm nhạc Trịnh Công Sơn là những bản tình ca đi cùng năm tháng, chuyển tải những
thông điệp nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về chiến tranh, cuộc đời, thân phận con người và tình
yêu. Những triết lý trong nhạc Trịnh mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh và Phật
giáo. Có thể nói, sự gặp gỡ giữa chủ nghĩa hiện sinh và Phật giáo đã làm nên nét đặc
sắc trong âm nhạc Trịnh Công Sơn. Đó là cái nhìn hiện sinh về thân phận con người nhỏ
bé, mong manh trong chiến tranh tàn khốc, về cuộc hành trình quẩn quanh của kiếp sống
trong đời phù du, phi lý, hư vô. Khắc khoải, chông chênh trong thực tại bi thiết, Trịnh tìm
đến với Phật giáo. Tôn giáo – triết học đó đã cứu rỗi tâm hồn và âm nhạc Trịnh bằng triết
li vô thường vô ngã, thuyết luân hồi và đạo đức từ bi hi xả. Thấu hiểu lẽ vô thường của
đời, Trịnh đã vượt qua nỗi đau đời và vượt lên những đối lập nhị nguyên, tìm điểm tựa tại
tâm để tĩnh tâm mà trải lòng mình trong tình yêu thương vô bờ bến với tha nhân và cuộc
đời. Nhạc Trịnh là nghệ thuật chống lại định mệnh, đi thẳng từ trái tim đến những trái tim,
cứu rỗi con người bằng thông điệp về hòa bình và lòng nhân ái. Đó chính là yếu tố căn
bản làm nên sức sống mãnh liệt của âm nhạc Trịnh Công Sơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng, 2003. Lược khảo triết học phương Tây hiện đại.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Ban Mai, 2008. Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng. Nxb Lao động, Trung tâm văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây
[3] Nhiều tác giả, 2003. Trịnh Công Sơn người hát rong qua nhiều thế hệ. Nxb Trẻ.
[4] Nhiều tác giả, 2004. Một cõi Trịnh Công Sơn. Nxb Thuận Hóa, Trung tâm văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây.
[5] Trịnh Công Sơn, 1995. Tuyển tập những bài ca không năm tháng. Nxb Âm nhạc.
[6] Cao Huy Thuần, 2003. Nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn.
.
[7] Hoàng Phủ Ngọc Tường, 2005. Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé. Nxb
Trẻ.
[8] .
[9] vi.wikipedia.org/wiki.TrịnhCôngSơn.
ABSTRACT
Effect of existenlialism and Buddhism to Trinh Cong Son’s music
Trinh Cong Son is one of the first musicians of Vietnam modern music. One of
the factors which creates the unique character in Trinh Cong Son’s music is the gentle and
deeply philosophy about war, human life and love. That philosophy has intensive marks of
existentialism and Buddhism. This article analyses the influence of existentialism in the
obsession about war and death, the exiguous human in infinite life; the influence of Buddhist in the philosophy of impermanence and selflessness, reincarnations, compassion,
happiness and release to Trinh Cong Son music.
176



×