Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiêu luận kinh tế toàn cầu Tổ chức thương mại thế giới WTO và liên hệ đến Việt Nam sau gần 10 năm gia nhập tổ chức này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.32 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài................................................................
3. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................
6. Kết cấu của tiểu luận...........................................................................................
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................
Chương 1: TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)..............................
1.1. Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới....................................................
1.1.1. Hiệp định GATT tiền thân của WTO.............................................................
1.2.2. Sự ra đời của WTO........................................................................................
1.2. Mục tiêu, chức năng của Tổ chức Thương Mại Thế giới.................................
1.2.1. Mục tiêu.........................................................................................................
1.2.2. Chức năng......................................................................................................
Chương 2: KINH TẾ VIỆT NAM SAU GẦN MƯỜI NĂM GIA NHẬP WTO
2.1. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam...........................................................
Trang 1


2.2. Những kết quả đạt được sau gần 10 năm gia nhập WTO.................................
2.2.1. Tăng trưởng kinh tế.......................................................................................
2.2.2. Sản xuất công, nông nghiệp và dịch vụ.........................................................
2.2.3. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài......................................................................
2.2.4. Xuất, nhập khẩu.............................................................................................
Chương 3: MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA....................
3.1. Một số hạn chế.................................................................................................
3.2. Những vấn đề đặt ra.........................................................................................
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................


TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trang 2


Toàn cầu hoá, khu vực hoá là một xu thế lớn trong mối quan hệ quốc tế hiện
tại. Việt Nam với công cuộc đổi mới toàn diện cùng đường lối phát triển kinh tế - xã
hội mới ngày càng thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế, và “hoà mình vào dòng chảy
sôi động của sự phát triển”.Cùng với vị trí địa lý thuận lợi (nằm trong khu vực kinh
tế năng động và phát triển...) là điều kiện thuận lợi giúp nước ta “đi tắt đón đầu”
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dưới sức ép
của toàn cầu hoá, các tổ chức lớn ra đời trong đó WTO là tổ chức thương mại thế
giới có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến nền kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Việt
Nam gia nhập WTO là một sự kiện lớn, cho phép nước ta tranh thủ được các nguồn
lực bên ngoài, phát huy nguồn lực bên trong. WTO tạo cơ hội, thách thức cho nền
kinh tế, đặt ra cho nước ta hai con đường vừa hợp tác vừa đấu tranh. WTO tác động
mạnh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hoá, trong đó nước ta đang chú
trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn nên ảnh hưởng của
WTO đến chúng là không nhỏ.
Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện để Việt Nam cải cách chính sách, thể chế luật
pháp vì phải cam kết xây dựng hệ thống chính sách minh bạch hơn, ổn định và dễ dự
đoán, tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, nhằm
bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, tạo điều kiện để Việt
Nam không bị đối xử như một nền kinh tế phi thị trường. Đặc biệt, hàng hoá và dịch
vụ của Việt cũng sẽ được đối xử bình đẳng hơn trên thị trường quốc tế, qua đó mở
rộng thị trường, tăng xuất khẩu.
Để hiểu rõ hơn về tác động của tổ chức này đến kinh tế Việt Nam, tôi đã lựa
chọn đề tài: “WTO và liên hệ đến Việt Nam sau gần mười năm gia nhập tổ chức

này”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Trang 3


Nghiên cứu về WTO và tiến trình hội nhập WTO của Việt Nam cho tới nay đã
có không ít nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, đề cập tới và lần lượt công bố, đăng
tải trên các công trình chuyên khảo, trên các sách báo, tạp chí. Đặc biệt là các công
trình nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, Bộ Tài Chính, Bộ Công Thương… và nhiều
nhà nghiên cứu khác. Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng tổng hợp kết quả của
những nhà nghiên cứu đi trước một cách chọn lọc nhất.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan về WTO. Phân tích tình hình kinh tế của Việt Nam sau
khi gia nhập WTO, những thành tựu đạt được và những mặt hạn chế của nền kinh tế
Việt nam hiện nay, từ đó đưa ra một số vấn đề tập trung cần giải quyết.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đọc – thu thập – phân loại – xử lý thông tin, lược thuật, tổng thuật, nghiên cứu
tài liệu, phân tích tổng hợp…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: WTO và sự tác động của WTO đến nền kinh tế Việt
Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Kinh tế Việt Nam sau gần mười năm gia nhập WTO.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, mục lục và phần kết luận, tiểu luận gồm có: 3 chương và 6
tiết. Mỗi chương gồm 2 tiết.
- Chương 1: Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
- Chương 2: Kinh tế Việt Nam sau gần mười năm gia nhập WTO

- Chương 3: Một số hạn chế và những vấn đề đặt ra

PHẦN NỘI DUNG
Trang 4


Chương 1: TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1.1. SỰ RA ĐỜI CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
1.1.1 Hiệp định GATT tiền thân của WTO
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, hơn 50 nước trên thế giới đã tham gia vào
các cuộc đàm phán với mục tiêu tạo lập một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp
tác kinh tế quốc tế. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc
tế (ITO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc.
Ngày 30-10-1947, 23 nước đã ký Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời
Hiệp định GATT, nhân nhượng thuế quan có hiệu lực từ 30-6-1948.
1.1.2. Sự ra đời của WTO
Đến cuối những năm 80, đầu 90, trước những biến chuyển của khoa học-kỹ
thuật, GATT bắt đầu tỏ ra có những bất cập, không theo kịp tình hình.
Thứ nhất, trong việc giảm và ràng buộc thuế quan ở mức thấp cộng với một
loạt các cuộc suy thoái kinh tế trong những năm 70 và 80 đã thúc đẩy các nước tạo
ra các loại hình bảo hộ phi quan thuế khác nhau để đối phó với hàng nhập khẩu hoặc
ký kết các thoả thuận song phương dàn xếp thị trường, đồng thời làm nảy sinh nhiều
hình thức hỗ trợ và trợ cấp mới. Những biến đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi
những giá trị mà việc giảm thuế quan mang lại cho thương mại quốc tế. Trong khi
đó, phạm vi của GATT không cho phép đề cập một cách cụ thể và sâu rộng đến các
vấn đề này.
Thứ hai, đến những năm 80, GATT đã không còn thích ứng với thực tiễn
thương mại thế giới. Khi GATT được thành lập năm 1948, Hiệp định này chủ yếu
điều tiết thương mại hàng hoá hữu hình. Từ đó tới nay, thương mại quốc tế đã phát
triển nhanh chóng, mở rộng sang cả các lĩnh vực thương mại dịch vụ như ngân hàng,

bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, xây dựng, tư vấn... Các loại hình
thương mại dịch vụ này, cùng với các vấn đề trong đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ liên quan đến thương mại đã phát triển nhanh chóng và trở thành một bộ phận
quan trọng của thương mại quốc tế.
Trang 5


Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá, GATT còn có những
lỗ hổng cần phải được cải thiện. Ví dụ, trong nông nghiệp và hàng dệt may, các cố
gắng tự do hoá thương mại đã không đạt được thành công lớn. Kết quả là còn rất
nhiều ngoại lệ với các quy tắc chung trong hai lĩnh vực thương mại này.
Thứ tư, về mặt cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng tỏ
ra không thích ứng với tình hình thế giới. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia
mang tính chất tuỳ ý. Thương mại quốc tế ở những năm 80 và 90 đòi hỏi phải có
một tổ chức thường trực, có nền tảng pháp lý vững chắc để đảm bảo thực thi các
hiệp định, quy định chung của thương mại quốc tế. Về hệ thống giải quyết tranh
chấp, GATT chưa có một cơ chế điều tiết thủ tục tố tụng chặt chẽ, không đưa ra một
thời gian biểu nhất định, do đó, các vụ việc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ bị bế
tắc. Để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế một cách hiệu quả, rõ ràng hệ thống
này cần phải được đổi mới.
Vòng đàm phán Uruguay thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh
thương mại dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Một trong
những thành công lớn nhất của vòng đàm phán lần này là cuối vòng đàm phán, các
nước đã cho ra Tuyên bố Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. WTO
bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
1.2. MỤC TIÊU, CHỨC NĂNG CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
1.2.1. Mục tiêu.
WTO thừa nhận các quan hệ giữa các thành viên trong thương mại và kinh tế
sẽ được tiến hành nhằm: Nâng cao mức sống, bảo đảm tạo đầy đủ việc làm, tăng thu
nhập và nhu cầu thực tế một cách bền vững, phát triển việc sử dụng các nguồn lực

của thế giới, mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá.
1.2.2. Chức năng.
WTO có năm chức năng cơ bản như sau:
Tạo thuận lợi cho việc thực thi, quản lý, vận hành và thúc đẩy mục tiêu của
các Hiệp định của WTO. Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các thành viên về quan hệ
Trang 6


thương mại giữa các nước này về các vấn đề được đề cập đến trong các Hiệp định
WTO cũng như các vấn đề mới thuộc thẩm quyền của mình, và tạo khuôn khổ để
thực thi kết quả của các cuộc đàm phán đó.
Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên trên cơ sở Quy định và Thủ tục
Giải quyết Tranh chấp. Thực hiện rà soát chính sách thương mại thông qua Cơ chế
Rà soát Chính sách Thương mại.
Chương 2: KINH TẾ VIỆT NAM SAU GẦN MƯỜI NĂM GIA NHẬP WTO
2.1. TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM
Các mối quan hệ của Việt Nam với WTO được bắt đầu vào năm 1995 với việc
nộp yêu cầu gia nhập chính thức. Vào tháng 1 năm 1995, Đại Hội đồng của WTO đã
thành lập Ban công tác để xem xét đơn xin gia nhập của Việt Nam. Ban công tác đã tiến
hành 14 cuộc họp trong giai đoạn gần 12 năm – một quá trình đàm phán gia nhập khá
dài. Các thành viên của Ban công tác bao gồm Áchentina, Úc, Braxin, Brunây, Bungari,
Campuchia, Canađa, Chilê, Trung Quốc, Côlômbia, Croatia, Cuba, Cộng Hòa Đôminíc,
Ai cập, En Sanvađo, Liên minh châu âu và các thành viên của mình, Honđuras, Hồng
Kông, Ixơlen, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hòa Kyrgyzxtanxtan,
Malaysia, Mêhicô, Marốc, Myanma, Niu Dilân, Na Uy, Pakistan, Panama, Paraguay,
Philíppin, Rumani, Singapo, Sri Lanka, Thụy sĩ, Đài Loan, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa
Kỳ, và Uruguay. Việt Nam đã chuẩn bị bản Bị vong lục về chế độ ngoại thương của
mình vào năm 1996 nhưng phải tới tận năm 1998 thì kế hoạch cho các cuộc định kỳ của
Ban công tác mới được đưa ra. Các cuộc đàm phán diễn ra chậm chạp do các lo ngại về
chính trị, nhu cầu cần có những thay đổi hệ thống quan trọng trong nền kinh tế Việt

Nam và các Thành viên WTO đặt ra yêu cầu Việt Nam phải đưa ra các nhượng bộ lớn.
Các mốc lớn trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam:
 1994, Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và thiết lập quan hệ
ngoại giao bình thường vào năm 1995. Điều này đã thúc đẩy việc mở cửa nền kinh
tế Việt Nam.

Trang 7


 1995, Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO vào tháng 1 năm 1995.
 1996, Bắt đầu cuộc gặp thường kỳ của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập
WTO.
 1998, Các cơ quan quản lý Việt Nam quyết định đẩy nhanh tiến trình gia nhập
WTO.
 2001, Phiên đàm phán đa phương lần thứ 9 của WTO/GATT – vòng đàm phán Đôha
vì sự phát triển – được khởi động vào tháng 11 năm 2001.
 2002, Việt Nam đưa ra bản chào đầu tiên đối với hàng hóa và dịch vụ.
 2004, Việt Nam đưa ra bản chào sửa đổi tham vọng hơn về tiếp cận thị trường vào
tháng 6 năm 2004 tại phiên họp lần thứ 8 của Ban công tác, bản chào này thể hiện
một bước đột phá trong đàm phán gia nhập WTO.
 2004, Bắt đầu các cuộc đàm phán song phương với các Thành viên WTO. Một thỏa
thuận đột phá được ký kết với Liên minh châu Âu.
 2005, Ký thỏa thuận với Trung Quốc về việc Việt Nam gia nhập WTO.
 2006, Hoa kỳ và Việt Nam ký Hiệp định song phương về các cam kết gia nhập
WTO của Việt Nam, đây là Hiệp định song phương cuối cùng và dường như là khó
khăn nhất trong số 28 Hiệp định song phương với các Thành viên WTO.
 2002 – 2006, Các cơ quan quản lý Việt Nam đã rà soát sâu rộng hầu hết luật và quy
định của Việt Nam trong các lĩnh vực liên quan tới WTO cũng như các lĩnh vực
khác và đã đưa kế hoạch hành động liên quan tới WTO vào kế hoạch phát triển lăm
năm 2006 – 2010 (SRV, 2006).

 2007, Việt Nam trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
vào ngày 11 tháng 1 năm 2007.
 2007, Việt Nam đưa ra các chương trình hành động thực thi các cam kết gia nhập
WTO.
Quyết tâm trở thành Thành viên WTO của Việt Nam có thể đã được thúc đẩy bởi
kinh nghiệm thành công của các nền kinh tế hướng về xuất khẩu tại Đông Á, những
Trang 8


thay đổi hệ thống tại các nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ và sự quan tâm của Trung
Quốc đối với tổ chức này. Có thể một động lực nữa là quyết tâm của đảng cộng sản Việt
Nam trong việc tạo ra việc làm cho hơn một triệu lao động mới gia nhập thị trường lao
động.
2.2. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU GẦN 10 NĂM GIA NHẬP WTO
Kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã đạt
được nhiều kết quả tích cực và quan trọng, thể hiện qua tăng trưởng kinh tế, thu hút
đầu tư nước ngoài, kim ngạch xuất, nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế…
2.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản để đánh
giá thành tựu phát triển của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Nền kinh tế
Việt Nam sau 10 năm gia nhập WTO (2007 – 2016) mặc dù bị ảnh hưởng do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, khủng hoảng nợ công nhưng vẫn duy
trì được chuỗi tăng trưởng kinh tế. Trong 10 năm, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân là 6,29%. Là thành tựu hết sức quan trọng, nếu xét trong điều kiện rất khó
khăn thiên tai, dịch bệnh, sự biến động giá cả thế giới và khủng hoảng kinh tế toàn
cầu… như hiện nay.
Cụ thể, nếu như năm 1995, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 289
USD thì đến năm 2015 con số này đã là 2.228 USD, dự kiến năm 2016 là 2.445
USD, cao gấp gần 8,5 lần so với năm 1995. Sau 10 năm gia nhập WTO, GDP bình
quân đầu người đạt ở mức khả quan, bình quân là 1.600 USD đầu người, mức sống

của người dân đã được cải thiện. Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chuyển dịch theo
hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Tỷ lệ giữa kim ngạch xuất
khẩu so với GDP của Việt Nam trong 10 năm qua tuy có suy giảm trong năm 2009
nhưng vẫn đạt ở mức khá cao, năm 2016 là 80,5%, thuộc loại cao so với tỷ lệ chung
của thế giới, đứng thứ hạng khá cao so với các nước trong khu vực ASEAN.
2.2.2. Sản xuất công, nông nghiệp và dịch vụ

Trang 9


Sản xuất nông nghiệp 10 năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiên tai, dịch
bệnh và đảm bảo sản xuất ổn định. Năm 2015, sản lượng lúa đã đạt ở mức cao,
khoảng 44,75 triệu tấn, năm 2016 dự kiến đạt 44,5 triệu tấn. Sản lượng lương thực
có hạt cả năm đạt 50,1 triệu tấn, năm 2016 dự kiến đạt 50 triệu tấn, tăng gần 10 triệu
tấn so với năm 2007. Mức lương thực bình quân đầu người năm 2015 đạt 546,4 kg
và xuất khẩu các sản phẩm từ khu vực nông nghiệp đạt mức cao trên 20,6 tỷ USD.
Khu vực sản xuất công nghiệp thường có tốc độ tăng trưởng cao nhất nhưng
từ giai đoạn năm 2007-2011 chịu ảnh hưởng lớn của tăng giá đầu vào, lạm phát, suy
thoái kinh tế thế giới, khủng hoảng nợ công… làm cho tăng trưởng chậm lại và hiệu
quả đầu tư kinh doanh thấp. Giai đoạn 2011-2015 sản xuất công nghiệp từng bước
phục hồi; chỉ số phát triển công nghiệp 2015 tăng khoảng 10%; tỷ trọng công nghiệp
chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng mạnh. Cơ cấu trong nội bộ ngành
Công nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực. Công nghiệp khai khoáng
giảm từ 37,1% năm 2011 xuống khoảng 33,1% năm 2015; công nghiệp chế biến,
chế tạo tăng từ 50,1% năm 2011 lên 51,5% năm 2015.
Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá ổn định, trong 10 năm qua mặc dù
hai năm 2008, 2009 còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính toàn cầu nhưng vẫn đạt mức bình quân là 6,75%, cao hơn so với mức tăng
trưởng bình quân chung của nền kinh tế. Năm 2015, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch
vụ đạt khoảng 6,27%. Doanh thu du lịch đạt mức cao khoảng 240 nghìn tỷ đồng

năm 2015, dự kiến đạt 260 nghìn tỷ đồng năm 2016.
Du lịch quốc tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, số lượng khách quốc tế đến
Việt Nam năm 2015 đạt 9 triệu lượt so với 4,2 triệu năm 2007, khách nội địa dự kiến
đạt 42 triệu năm 2016. Các sản phẩm dịch vụ ngày càng phát triển đa dạng với chất
lượng được cải thiện hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và có sức
cạnh tranh trên thị trường. Tuy vậy, trong lĩnh vực dịch vụ, cơ sở hạ tầng yếu kém,
nhất là cơ sở hạ tầng logitisc, chất lượng dịch vụ còn thấp vẫn là những khó khăn
tồn tại lớn hiện nay.
Trang 10


2.2.3. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Sau khi Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, gia tăng mạnh
mẽ cả về vốn thực hiện và vốn đăng ký.
Giai đoạn 2007 - 2009 được coi là giai đoạn bùng nổ đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Năm 2007, vốn đăng ký có bước tiến vượt bậc với 21,3 tỷ USD, tăng 77,8% so
với năm 2006. Năm 2008 là năm thu hút đỉnh cao của đầu tư nước ngoài với vốn
đăng ký đạt trên 71,7 tỷ USD, tăng hơn 3 lần so với năm 2007, đây là năm có số vốn
FDI đăng ký cao nhất trong lịch sử thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Trong năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn tới điều
chỉnh chính sách đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia, dòng vốn đầu tư toàn cầu suy
giảm, cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài càng trở nên gay gắt, đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam đã suy giảm đáng kể, đạt 23,1 tỷ USD, tuy chỉ bằng 30% so với cùng
kỳ năm 2008 nhưng cũng là một mức cam kết khá cao trong bối cảnh suy thoái kinh
tế toàn cầu. Như vậy, chỉ tính từ năm 2007 đến năm 2009, Việt Nam đã thu hút được
3.993 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký đã đạt 116,4 tỷ USD, cao hơn gần 2,1
lần so với mục tiêu đề ra (55 tỷ USD) cho cả giai đoạn 5 năm 2006 - 2010.
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nên đầu tư nước ngoài trong giai
đoạn từ năm 2010 – 2012 có giảm nhẹ. Năm 2010 Việt Nam thu hút được 19,88 tỷ

USD, năm 2011 là 15,6 tỷ USD, và năm 2012 là 16,34 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư.
Như vậy, tính chung cả giai đoạn 2010 đến 2012, Việt Nam đã thu hút được 3715 dự
án đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký đạt 51,8 tỷ USD, bằng 72% so với vốn đăng ký
của riêng năm 2008.
Trong 2 năm trở lại đây, vốn đầu tư nước ngoài đã có sự khởi sắc trở lại. Năm
2013, Việt Nam đã thu hút được 1.530 dự án với vốn đăng ký đặt 22,3 tỷ USD, tăng
36% so với năm 2012. Trong 9 tháng năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng
ký đầu tư vào Việt Nam 11,18 tỷ USD.

Trang 11


Trong 8 năm vừa qua, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài cũng có sự
tăng trưởng đáng kể so với giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO và đã duy trì
đều ở mức ổn định. Năm 2007 vốn FDI thực hiện đạt trên 8 tỷ USD, tăng 96% so với
năm 2006. Năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43% so với năm 2007. Năm 2009, vốn
giải ngân đạt 10 tỷ USD, bằng 87% so với cùng kỳ năm 2008. Như vậy, tính chung
giai đoạn 2007 - 2009, vốn thực hiện của khu vực kinh tế có vốn nước ngoài đã đạt
khoảng 29,5 tỷ USD, vượt mục tiêu đề ra (25 tỷ USD) cho cả giai đoạn 5 năm 20062010.
Năm 2010 và năm 2011, vốn thực hiện tăng nhẹ, đạt mức 11 tỷ USD. Năm 2012
đạt 10,46 tỷ USD và năm 2013 đạt 11,5 tỷ USD. Dự kiến trong năm 2014, vốn thực
hiện ước đạt 12 tỷ USD.
Có thể thấy, đầu tư nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho phát triển
kinh tế thời kỳ hội nhập. Nếu trong giai đoạn trước hội nhập (giai đoạn 2001-2006),
đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 16% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, giai
đoạn 2007-2014, với sự gia tăng đáng kể về vốn giải ngân, khu vực đầu tư nước ngoài
đóng góp đáng kể vào vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, năm 2007 là 24,8%, năm
2008 là 30,9%, năm 2009 là 25,7%, năm 2010 là 25,8%, năm 2011 là 24,5, năm 2012
là 21,6% và năm 2013 là 22% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Trong 6 tháng
đầu năm 2014, tỷ trọng này tăng lên là 25,1%.

Giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này
cũng gia tăng đáng kể, chiếm khoảng 47,8% (nếu không kể dầu thô) tổng xuất khẩu cả
nước, nếu tính cả giá trị xuất khẩu dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 58,2%.
Đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP cũng gia tăng mạnh mẽ
trong giai đoạn này, cùng với sự tăng trưởng xuất khẩu. Tỷ trọng khu vực đầu tư nước
ngoài trong GDP năm 2007 tăng lên 17,66% (so với 17,02% năm 2006), năm 2008 đã
tăng lên 18,68% GDP và năm 2009 đạt 18,33% GDP, năm 2010 đạt 18,72% GDP,
năm 2011 đạt 18,97% GDP, năm 2012 đạt 18.09% GDP.
2.2.4. Xuất, nhập khẩu
Trang 12


Sau gần 10 năm gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), nhìn lại
chặng đường đã qua, có thể khái quát toàn cảnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
như sau:
Kim ngạch xuất khẩu năm 2012 vượt xa so với kỷ lục đạt được năm 2011,
cao gấp nhiều lần mức bình quân trong các thời kỳ trước, đạt 114,6 tỷ USD, so với
năm 2011 tăng 18,3 % (mục tiêu 13%). Kết quả xuất khẩu của 2012 tạo nên nhiều ấn
tượng, lần đầu tiên xuất khẩu vượt mốc 100 tỷ USD. Việt Nam đã chuyển từ vị thế
nhập siêu lớn trong các năm trước, lần đầu tiên sau 20 năm trở lại vị thế xuất siêu.
Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu đạt 132,17 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm
2012, tương đương với 17,64 tỷ USD, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra (tăng 10%),
là năm thứ 2 liên tiếp xuất siêu kể từ khi gia nhập WTO.
Trong năm 2013, đã có 15 thị trường Việt Nam xuất siêu lớn, như Hoa Kỳ,
Tiểu Vương quốc Ả rập Thống nhất, Anh, Campuchia, Hồng Kông, Hà Lan, Nhật
Bản, Đức, Tây Ban Nha, Australia, Áo, Italy, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ. Mức nhập siêu
giảm mạnh đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định
tỷ giá, góp phần kiềm chế lạm phát…
Nếu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người mới chỉ là 569
USD, năm 2012 đạt 1.249 USD. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình

quân đầu người đạt trên 1.473 USD, cao nhất từ trước đến nay.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu chiếm 65,5 % GDP, năm 2013 đã vượt qua
mốc 77,5%, cao nhất từ trước đến nay và thuộc loại cao trên thế giới. Tỷ lệ xuất
khẩu /GDP thể hiện xuất khẩu là lối ra, là động lực tăng trưởng của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, cơ cấu hàng xuất khẩu cũng đã chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến từ 60% năm 2007 lên 64,4% năm
2012 và 70,7 % năm 2013; nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 19,5% xuống
còn khoảng 11,6% năm 2011 và 7,2% năm 2013. Tỷ trọng nhóm hàng nông, thủy
sản cũng giảm từ 20% (năm 2011) xuống 15% (năm 2013). Trong các mặt hàng chế
biến, tỷ trọng một số mặt hàng có trình độ thiết bị, kỹ thuật - công nghệ cao như
Trang 13


điện thoại, máy tính, sản phẩm điện tử, máy móc thiết bị, máy ảnh, máy quay
phim… tăng lên. Đây là tín hiệu sáng của cơ cấu sản xuất, xuất khẩu.
Năm 2013 có 22 nhóm hàng đạt kim ngạch xuất trên 1 tỷ USD (chiếm 85%
tổng kim ngạch xuất khẩu); 13 nhóm hàng đạt trên 2 tỷ USD (thủy sản, cà phê, gạo,
cao su, dầu thô, đồ gỗ, dệt may, xơ sợi dệt, giày dép, điện thoại, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải, đồ điện tử,...).
Trong kết quả xuất nhập khẩu năm 2013, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đóng góp 80,91 tỷ USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm trước và
chiếm 61,2% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước. Trong khi đó, nhập khẩu của khu
vực FDI là 74,43 tỷ USD, tăng mạnh 24,2% so với cùng kỳ năm 2012 và chiếm
56,3% tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tính chung, năm 2013, khu
vực này đã xuất siêu 6,48 tỷ USD. Khu vực doanh nghiệp FDI cao hơn khu vực kinh
tế trong nước cả về tốc độ tăng so với năm trước (cao gấp 10 lần), cả về tỷ trọng
trong tổng kim ngạch nhập khẩu (55,8% so với 44,2%).
Thị trường xuất khẩu cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hóa. Tới
nay, Việt Nam đã có quan hệ với gần 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cùng với việc
mở rộng ra nhiều thị trường là việc tập trung phát triển các thị trường lớn. “Câu lạc

bộ” thị trường đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên trong năm 2013 đã lên đến con số
27. Đáng lưu ý, lần đầu tiên, Việt Nam có 3 thị trường đạt trên 10 tỷ USD (Hoa Kỳ,
Nhật Bản và Trung Quốc), đặc biệt là Hoa Kỳ đạt trên 23,7 tỷ USD.
Chương 3: MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. MỘT SỐ HẠN CHẾ
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO tăng
5,94% (2007 – 2014), thấp hơn giai đoạn 2001-2006 trước đó khi đạt mức 7,27%.
Thông tin trên được đưa ra tại Phiên họp thứ 41 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam là thành viên Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) sáng ngày 18/9.

Trang 14


Theo báo cáo giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, việc trở thành thành
viên WTO giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, góp phần đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao năm 2007.
Tuy nhiên, ngay sau đó do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu, đã dẫn đến sụt giảm tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2008-2011. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2007-2014 (5,94%) thấp hơn giai đoạn
2001-2006 (7,27%).
Giai đoạn 2007 – 2014, khu vực nông, lâm, thủy sản đóng góp bình quân
11% vào tăng trưởng GDP. Hai khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đóng góp
vào tăng trưởng GDP lần lượt là 40% và 49%, thể hiện tác động tích cực của dòng
vốn FDI và mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ.
Đáng lưu ý, tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành thủy sản thấp hơn so với
trước khi gia nhập WTO, trong khi các mặt hàng lúa gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hồ
tiêu, chế biến đồ gỗ và thủy sản có lợi thế cao, có khả năng cạnh tranh và có cơ hội
mở rộng thị trường.
Ngành hàng rau quả và sản xuất muối, chăn nuôi, mía đường, bông được

nhận định là ít có lợi thế, khả năng cạnh tranh yếu và bị tác động mạnh.
Các ngành sản xuất công nghiệp chế biến phục vụ thị trường trong nước thì
chịu sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu do cắt giảm thuế theo lộ trình. Xuất khẩu
các sản phẩm công nghiệp gặp khó do nhu cầu nhập khẩu suy giảm mạnh và xu
hướng bảo hộ gia tăng.
Đối với các ngành dịch vụ, hàng không, vận tải đường sắt... chịu sức ép cạnh
tranh ít do độ mở tương đối thấp; ngành giáo dục-đào tạo, du lịch chịu sức ép cạnh
tranh đối với doanh nghiệp trong nước; nhóm ngành dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm,
phân phối chịu sức ép cạnh tranh lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, năng suất lao động Việt Nam còn thấp, đóng góp vào tăng
trưởng còn hạn chế. Năm 2011, năng suất lao động bình quân của Việt Nam theo giá
thực tế mới đạt khoảng 2.400 USD/người, thấp hơn rất nhiều so với mức năng suất
Trang 15


lao động năm 2005 của nhiều nước trong khu vực. Cụ thể, con số tương ứng lần lượt
là Indonesia 2.650 USD, Philipines 2.689 USD, Thái Lan 2.721 USD, Singapore
48.162 USD, Brunei 51.500 USD, Nhật Bản 70.237 USD, Trung Quốc 2.869USD,
Malaysia 12.571USD, Hàn Quốc 33.237USD… Năm 2012 năng suất lao động xã
hội (GDP/LĐ), giá hiện hành đạt 63,11 triệu đồng; năm 2013: 68,65 triệu, năm
2014: 74,66 triệu và năm 2015 đạt khoảng 83,81 triệu đồng, còn thấp hơn nhiều lần
so với các nước trong khu vực.
Trong công nghiệp, ngành khai thác, gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, việc sử
dụng công nghệ tiên tiến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao còn
rất thấp làm cho trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt tỷ trọng
giá trị gia tăng thấp.
Nông nghiệp tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng tỷ lệ hàng nông sản qua chế
biến còn thấp; đặc biệt nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi còn phụ thuộc vào nhập
khẩu đến 80% dẫn đến hạn chế sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị
trường. Việc đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm,

chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp còn nhiều bất cập…
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời gian qua còn chậm, tỷ trọng các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp; công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP năm 2015 của Việt
Nam ước thực hiện tương ứng mới đạt 17,5%; 38,2% và 44,4%. So sánh với nhiều
nước trong khu vực thì cơ cấu kinh tế nước ta chuyển dịch còn chậm, nông, lâm và
ngư nghiệp còn cao, khu vực dịch vụ kém phát triển, chiếm tỷ trọng còn quá khiêm
tốn.
Sau 10 năm gia nhập WTO, mức thâm hụt thương mại Việt Nam tuy được cải
thiện nhưng tỷ trọng của thâm hụt thương mại trên GDP và trên tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vẫn còn cao. Điều này chứng tỏ, các nước đã tận dụng tốt cơ hội
trong hội nhập WTO để đưa hàng hóa vào Việt Nam ngày càng nhiều, trong khi Việt
Nam lại chưa tận dụng tốt cơ hội từ WTO mang lại.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Trang 16


Sau 10 năm hội nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển
đáng ghi nhận. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này chưa
được cải thiện nhiều, dẫn đến hiệu quả thấp, tăng trưởng kinh tế phát triển thiếu bền
vững, nhiều vấn đề xã hội, môi trường chưa được giải quyết hiệu quả. Vì vậy, cần
phải có những cải cách đột phá, tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục cải cách hành chính triệt để, khắc phục những mặt trái của
cơ chế “một cửa”, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước cương quyết và hiệu quả.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, làm minh
bạch, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
Thứ hai, sớm xây dựng chiến lược phát triển các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng
giai đoạn đến 2020 và tầm nhìn 2030, trong đó, vấn đề cốt lõi là tái cơ cấu các DN,
các loại dịch vụ cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung những dịch vụ có tiềm năng, lợi
thế, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao và phát triển logistics xanh, nhằm tận dụng
hiệu quả các cơ hội mang lại từ hội nhập.

Thứ ba, nhanh chóng đầu tư phát triển hệ thống logistics của Việt Nam, bao
gồm: Cơ sở hạ tầng logistics, thể chế pháp luật về phát triển dịch vụ logistics, phát
triển các DN cung ứng và sử dụng dịch vụ logistics… nhằm đẩy nhanh quá trình đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hóa.
Thứ tư, nâng mức đầu tư cho khoa học công nghệ (1-2% GDP) để Việt Nam
sớm có những đột phá về khoa học công nghệ, tạo ra những mặt hàng, những sản
phẩm kỹ thuật cao trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang lại giá trị cao cho
xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, cùng với việc đổi mới thế chế, hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm
phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cần có các biện pháp để chuyển dần từ
gia công sang sản xuất, xuất khẩu, giảm và tiến tới hạn chế mức thấp nhất xuất khẩu
sản phẩm thô, khoáng sản; tăng xuất khẩu sản phẩm tinh chế, có hàm lượng khoa
học - công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao.
Trang 17


PHẦN KẾT LUẬN
Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là thành viên
chính thức của tổ chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập WTO đã mở ra cơ
hội lớn cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với thị trường rộng lớn, gồm 155
nước thành viên, chiếm 97% GDP toàn cầu. Gia nhập hệ thống luật lệ thương mại
toàn cầu sẽ mở cửa thị trường thế giới cho các mặt hàng nông sản, da giày, dệt may
và các thế mạnh xuất khẩu khác của Việt Nam thông qua việc dỡ bỏ các hạn ngạch
(quota) và hàng rào thuế quan. Nó cũng đem lại cho Việt Nam một diễn đàn tìm
kiếm sự trợ giúp trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Trở thành thành viên của
WTO cũng đồng nghĩa nền kinh tế nội địa của Việt Nam sẽ mở rộng cánh cửa chào
đón các công ty nước ngoài lớn hơn. Các công ty này sẽ đem lại vốn đầu tư, việc
làm và bí quyết sản xuất mới cho Việt Nam nhưng cũng đe doạ đánh bật khỏi thị
trường các đối thủ cạnh tranh trong nước yếu hơn.

Sau khi gia nhập WTO, những cái mà Việt Nam đạt được là nhiều hơn mất.
Bước đầu nước ta đã tận dụng được cơ hội, phát huy lợi thế, vượt qua nhiều thách
thức và hạn chế những tác động tiêu cực, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc
gia, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên
trường quốc tế. Kết quả nổi bật là thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất
nước, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, giá trị xuất khẩu tăng, một số ngành
hàng đứng trong tốp đầu của thế giới.... Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình
thực thi các cam kết WTO và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung từ năm 2007 đến
nay cho thấy một số hạn chế, bất cập như chất lượng tăng trưởng và tính bền vững
của nền kinh tế còn yếu, chậm được cải thiện, chất lượng của hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài chưa cao như chuyển giao công nghệ chưa đạt yêu cầu, tính liên kết
với doanh nghiệp trong nước kém hay năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh
nghiệp và sản phẩm thương hiệu Việt Nam còn hạn chế…

Trang 18


Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội
lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực
lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng
ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc
vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để
vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận
dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành
những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Với thành tựu to lớn sau 20 năm đổi
mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm
vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước đã gia nhập WTO, cho
chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội, vượt
qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào cảnh
phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh

nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu
và định hướng của chúng ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 19


1. GS-TS Hoàng Thị Chỉnh (chủ biên). Giáo trình Kinh Tế Quốc Tế. Nhà xuất bản
Thống Kê
2. PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn (2008). Giáo trình Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
(WTO-OMC). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
3. TS. Trần Đình Tuấn-Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh-Thái Nguyên (Tạp
chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2016). Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sau 10 năm gia
nhập WTO. Được lấy về từ: />4. Trang thông tin điện tử đầu tư nước ngoài (14/6/2016). Thu hút ĐTNN sau 8
năm gia nhập WTO và những vấn đề đặt ra. Được lấy về từ:
/>5. Nguyễn Tường Lâm, Bộ Công An (17/9/2014). Xuất khẩu Việt Nam sau 8 năm
gia nhập WTO - Thực tiễn và vấn đề đặt ra. Được lấy về từ:
/>
Trang 20



×