Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Sàn giao dịch chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 6 trang )

Sàn giao dịch chứng khoán
1
Sàn giao dịch chứng khoán
Một sàn giao dịch chứng khoán là một tập đoàn hay tổ chức tương hỗ cung cấp điều kiện và phương tiện cho những
người mua bán cổ phần để mua bán cổ phần và các loại chứng khoán khác. Sàn giao dịch chứng khoán cũng cung
cấp các dịch vụ cho việc phát hành và thu hồi chứng khoán cũng như các phương tiện tài chính và các sự kiện như
việc chi trả lợi tức và cổ tức.
Chứng khoán được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán gồm: các cổ phần do các công ty phát hành, các quỹ tín
thác đơn vị và các sản phẩm hợp tác đầu tư và trái phiếu. Để có thể giao dịch trên một sàn giao dịch chứng khoán,
chứng khoán phải được niêm yết ở đó.
Thường có một trung tâm để ít nhất là ghi lại dữ liệu, nhưng việc giao dịch ngày càng ít có liên kết đến một nơi cụ
thể, bởi vì các sàn giao dịch hiện đại là các mạng lưới thông tin điện tử, tạo nên ưu thế về tốc độ và chi phí giao dịch.
Chỉ các thành viên mới được phép giao dịch trên một sàn giao dịch chứng khoán.
Một sàn giao dịch chứng khoán là thành phần quan trọng nhất của một thị trường chứng khoán. Thông thường không
bắt buộc phải phát hành cổ phần thông qua chính sàn giao dịch, và cổ phần cũng không bị bắt buộc phải giao dịch
trên sàn. Những giao dịch như vậy được gọi là giao dịch ngoài sàn hay mua bán thẳng. Đây là cách thường thấy để
giao dịch các trái phiếu.
Chào giá ban đầu của các cổ phần và các trái phiếu tới các nhà đầu tư được thực hiện tại thị trường sơ cấp và việc
giao dịch sau đó được thực hiện tại thị trường thứ cấp.
Các sàn giao dịch ngày càng biến thành một phần của thị trường chứng khoán thế giới.
Cung và cầu trên các thị trường chứng khoán được dẫn dắt bởi nhiều yếu tố, giống như trên mọi thị trường tự do, bị
ảnh hưởng bởi giá các cổ phần (xem giá trị cổ phần).
Lịch sử sàn giao dịch chứng khoán
Trong thế kỷ 12 ở nước Pháp, các courratiers de change lo lắng về việc quản lý và điều chỉnh các khoản nợ của các
phường hội nông nghiệp với ngân hàng. Bởi vì những người đó giao dịch nợ, nên có thể coi họ là những người môi
giới buôn bán đầu tiên.
Một số nguồn khác cho rằng nguồn gốc của thuật ngữ “bourse” (“thị trường chứng khoán” trong tiếng Pháp) bắt
nguồn từ chữ bursa trong tiếng La tinh, có nghĩa là một cái túi bởi vì ở thế kỷ 13 tại Bruges, dấu hiệu một cái túi tiền
(hay có lẽ ba cái túi tiền), được treo trước cửa ngôi nhà nơi những nhà buôn thường tụ họp.
Tuy nhiên, có lẽ giả thuyết chính xác hơn là ở cuối thế kỷ 13, những nhà buôn hàng hoá ở Bruges đã tụ tập tại ngôi
nhà của một người đàn ông tên là Van der Burse, và năm 1309 họ đã chính thức hoá việc gặp gỡ không nghi thức đó


cho tới tận ngày nay và trở thành "Bruges Bourse". Ý tưởng này nhanh chóng lan ra quanh vùng Flanders và các tỉnh
xung quanh và "Bourses" nhanh chóng được mở tại Ghent và Amsterdam.
Vào giữa thế kỷ 13, những ông chủ ngân hàng tại Venice bắt đầu mua bán chứng khoán chính phủ. Năm 1351, Chính
phủ Venice đặt ra ngoài vòng pháp luật những lời đồn thổi với chủ ý làm hạ giá quỹ công trái chính phủ. Trong thế
kỷ 14, người dân ở Pisa, Verona, Genoa và Florence cũng bắt đầu buôn bán các trái phiếu chính phủ. Điều này chỉ là
có thể bởi vì có các thành bang độc lập không bị cai trị bởi một công tước mà bởi một hội đồng những công dân có
uy tín.
Hà Lan sau này bắt đầu có các công ty cổ phần, cho phép những người giữ cổ phần đầu tư vào doanh nghiệp kinh
doanh và thu được một phần chia từ lợi nhuận của nó – hay một phần thua lỗ. Năm 1602, Công ty Đông Ấn Hà Lan
phát hành những cổ phần đầu tiên trên Sàn giao dịch chứng khoán Amsterdam. Đây là công ty đầu tiên phát hành cổ
phần và khế ước nợ.
Sàn giao dịch chứng khoán
2
Vai trò của sàn giao dịch chứng khoán
Sàn giao dịch chứng khoán New York
Sàn giao dịch chứng khoán Bombay
Sàn giao dịch chứng khoán Frankfurt
Huy động các khoản tiết kiệm để đầu tư
Khi mọi người đưa ra những khoản tiết kiệm của mình và đầu tư vào các cổ
phần, việc này dẫn tới sự phân chia hợp lý hơn các nguồn tài nguyên bởi vì
vốn, có thể dùng để tiêu dùng, hay gửi trong các ngân hàng, được huy động
và tái định hướng để thúc đẩy hoạt động kinh doanh mang lại lợi ích cho
nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp, thương mại và công
nghiệp, dẫn tới một sự tăng trưởng kinh tế cao hơn và sức sản xuất ở mức
độ lớn hơn.
Tạo thuận lợi cho phát triển công ty
Các công ty coi nguồn vốn thu được là một cơ hội để mở rộng các dây
chuyền sản xuất, tăng thêm các kênh phân phối, ngăn chặn tính bất ổn, tăng
thị phần, hay mua sắm thêm các tài sản khác cần thiết cho kinh doanh. Một
sự bỏ thầu mua lại hay một thoả thuận kết hợp thông qua thị trường chứng

khoán là cách đơn giản nhất để phát triển công ty bằng cách mua lại hay kết
hợp.
Tái phân phối của cải
Bằng cách trao cho mọi người một cơ hội để mua các cổ phần và nhờ đó trở
thành người đồng sở hữu (những người nắm giữ cổ phần) của doanh nghiệp
có thể sinh lời, thị trường chứng khoán giúp làm giảm bất bình đẳng trong
thu nhập. Cả nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và nghiệp dư thông
qua sự tăng trưởng của giá chứng khoán và phân chia cổ tức đều có cơ hội
nhận được phần chia lợi nhận từ công việc kinh doanh đầy hứa hẹn do
người khác lập ra.
Hợp tác quản lý
Bằng cách có được nhiều người sở hữu ở nhiều tầng lớp khác nhau, các
công ty nói chung có khuynh hướng cải thiện các tiêu chuẩn quản lý và
hiệu năng của mình nhằm thoả mãn các yêu cầu của những người nắm giữ
cổ phần đó và việc hợp tác quản lý của mọi người trên thị trường chứng
khoán cũng như của chính phủ càng chặt chẽ hơn. Nhờ vậy, mọi người cho
rằng các công ty công chúng (các công ty được sở hữu bởi các nhà đầu tư
nắm giữ cổ phần và là thành viên tham gia vào các sàn giao dịch chứng
khoán công cộng) thường được quản lý tốt hơn so với các công ty tư nhân
(các công ty này không có cổ phần được giao dịch trên các sàn công cộng,
thông thường thuộc sở hữu của người sáng lập và/hay gia đình hay người
thừa kế của họ, hay là bởi một nhóm các nhà đầu tư nhỏ). Tuy nhiên, một
số trường hợp đã cho thấy có lẽ có những sự chệch hướng lớn trong kiểu hợp tác quản lý tại một số công ty thuộc sở
hữu công cộng (ví dụ Enron Corporation, MCI WorldCom, Pets.com, Webvan, hay Parmalat).
Sàn giao dịch chứng khoán
3
Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo
Sàn giao dịch chứng khoán São Paulo
Tạo các cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư nhỏ
Đối lập với những công việc kinh doanh đòi hỏi tiêu tốn những khoản vốn

lớn, đầu tư vào các cổ phần là cơ hội mở cho cả những nhà đầu tư chứng
khoán lớn và nhỏ bởi vì một người chỉ mua một số cổ phần mà anh ta có
khả năng. Vì thế Sàn giao dịch chứng khoán cung cấp một nguồn thu nhập
khác cho những người có tiền tiết kiệm ở mức độ thấp.
Chính phủ tăng vốn cho những dự án phát triển
Chính phủ hay thậm chí cả các chính quyền địa phương như các chính
quyền thành phố có thể quyết định vay tiền để hỗ trợ tài chính cho những
dự án hạ tầng to lớn như thoát nước và xử lý nước thải hay cung cấp nhà ở
bằng cách bán một kiểu chứng khoán khác được gọi là khế ước nợ. Những
khế ước nợ đó có thể tăng giá thông qua Sàn giao dịch chứng khoán khi các
thành viên công chúng mua nó, nhờ vậy không cần phải đánh thuế quá cao
đối với người dân để có tiền đầu tư phát triển.
Thước đo của nền kinh tế
Tại sàn giao dịch chứng khoán, giá cổ phần lên và xuống phụ thuộc phần
lớn vào thị trường. Giá cổ phần tăng lên hay giữ ổn định khi các công ty và
nền kinh tế nói chung cho thấy những dấu hiệu của sự ổn định. Vì thế sự
chuyển động của giá cổ phần có thể là một đồng hồ báo khuynh hướng
chung của nền kinh tế.
Những yêu cầu niêm yết
Các công ty cần thiết phải đáp ứng được các yêu cầu của sàn giao dịch để
có thể niêm yết và giao dịch cổ phần của mình tại đó. Ví dụ, để được niêm
yết trên Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE), một công ty phải phát hành ít nhất một triệu cổ phần trị giá
tương đương $100 triệu và phải kiếm được hơn $10 triệu trong vòng 3 năm vừa qua lai [1]).
Quyền sở hữu
Các sàn giao dịch chứng khoán có nguồn gốc là những tổ chức đa bên, do chính các thành viên mua bán chứng
khoán của nó sở hữu. Gần đây có khuynh hướng “bỏ đa bên”, các thành viên sẽ bán các cổ phần của họ tại một đợt
phát hành đầu tiên. Theo cách này tổ chức đa bên trở thành một phường hội, với các cổ phần được niêm yết trên một
sàn giao dịch chứng khoán. Các ví dụ về việc này là Sàn giao dịch chứng khoán Australia (1998), Euronext (2000),
NASDAQ (2002) và Sàn giao dịch chứng khoán New York (2005).
Sàn giao dịch chứng khoán

4
Các kiểu giao dịch khác
Trong thế kỷ 19, các sàn giao dịch cho phép mua bán theo các hợp đồng trước theo mặt hàng. Giao dịch mua bán qua
các hợp đồng trước được gọi là các hợp đồng tương lai. Những giao dịch hàng hoá này sau này bắt đầu được thực
hiện trên các sản phẩm khác, như các tỷ lệ lãi suất và cổ phần, cũng như các hợp đồng lựa chọn. Hiện chúng được
gọi chung là các hợp đồng tương lai.
Tương lai của sàn giao dịch chứng khoán
Tương lai của sàn giao dịch chứng khoán là điện tử, hệ thống các chuyên gia của Sàn giao dịch chứng khoán New
York dường như đang chống lại những kiểu giao dịch mới, Các mạng lưới thông tin điện tử, hay ECNs. ECNs ca
ngợi tốc độ xử lý những khối lượng trao đổi lớn của họ, trong khi hệ thống các chuyên gia đề xướng vai trò của các
chuyên gia trong việc giữ trật tự của các thị trường, đặc biệt ở các điều kiện lạ thường hay các kiểu lệnh đặc biệt.
Các mạng lưới thông tin điện tử gồm một mạng lưới lợi nhuận quyền lợi đặc biệt với chi phí của các nhà đầu tư từ
thậm chí là những giao dịch thương mại trao đổi trực tiếp nhỏ nhất. Mặt khác, các hệ thống dựa trên máy móc được
cho là hiệu quả hơn và cải thiện được bộ máy thừa hành truyền thống và hạn chế yêu cầu đàm phán qua trung gian.
Về lịch sử, 'thị trường' (như đã được ghi chú, gồm toàn bộ mua bán cổ phần trên mọi giao dịch) đã chậm chạp trong
việc phản ứng với cuộc cách mạng công nghệ. Sự thay đổi sang thương mại hoàn toàn điện tử có thể làm xói
mòn/hạn chế lợi nhuận thương mại của những sàn giao dịch bằng chuyên gia và những “thương nhân trên tầng” của
NYSE.
"Tôi sẽ nói rõ ràng rằng các mạng lưới thông tin điện tử (ECNs) đang chiến thắng," William Lupien người sáng lập
Instinet [2] hệ thống giao dịch và OptiMark [3] hệ thống đã tuyên bố. "Mọi thứ đang diễn ra một cách tồi tệ thật nhanh
chóng khi bạn đạt tới điểm chóp."
Quốc hội đã uỷ nhiệm việc thành lập một hệ thống thị trường multiple chứng khoán quốc gia năm 1975. Từ đó, ‘các
hệ thống thông tin điện tử’ đã phát triển nhanh chóng.
Khi thực hiện các giao dịch lớn với tốc độ ánh sáng, các hệ thống điện tử làm giảm khả năng chạy trước (front
running), hay trao đổi trước khi có lệnh của khách hàng, một hành vi bất hợp pháp mà nhiều nhà môi giới trên sàn
NYSE đã bị điều tra và phạt nặng trong những năm gần đây. Khi hoạt động dưới hệ thống giám sát của các chuyên
gia, nếu trên thị trường có một trao đổi lớn dưới một cái tên, những người mua khác ngay lập tức có thể kiểm tra để
biết nhà giao dịch dưới cái tên đó ở tầm cỡ nào, và dự đoán ra nguyên nhân tại sao anh/chị ta lại ra quyết định mua
hay bán. Đó là cách Thị trường dự đoán hoạt động của giá.
ECNs đã thay đổi quá trình giao dịch chứng khoán thông thường (giống như những dịch vụ môi giới trước chúng)

thành một hình thức kinh doanh kiểu hàng hoá (commodity-type business). ECNs có thể điều chỉnh sự công bằng của
initial public offerings (IPOs), giám sát Hambrecht's OpenIPO process [4], hay đánh giá hiệu quả của nghiên cứu
chứng khoán và sử dụng phí giao dịch để trợ cấp cho những cuộc nghiên cứu mức độ nhỏ và vừa.
Tuy nhiên, một số người tin rằng cách tốt nhất là phối hợp ưu điểm của công nghệ và con người – nói cách khác một
kiểu lai.
Trao đổi 25.000 cổ phiếu trong cổ phần của Lucent (định giá gần đây: $2.80; số lượng gần đây: 49.069.700) là một
giao dịch khá đơn giản đối với thương mại điện tử; trao đổi 100 cổ phiếu thuộc cổ phần Hạng A của Berkshire
Hathaway (định giá gần đây: $88.710,00; số lượng gần đây: 450) thì có lẽ không được như vậy. Sự lựa chọn hệ thống
cần phải rõ ràng (nhưng luôn thuộc quyền của người giao dịch), dựa trên những đặc trưng riêng của loại chứng khoán
được trao đổi.
Thậm chí khi ECNs đang trở nên một phần trọng yếu của hệ thống thị trường quốc gia, các cơ hội kiếm lời có lẽ vẫn
là ở sự chênh lệch giữa giá đặt và giá chào. Điều này đặc biệt chính xác đối với những giám đốc đầu tư điều hành các
khoản giao dịch lớn, và sở hữu một số tiền góp vốn trong một ECN hay một công ty chuyên nghiệp. Ví dụ, trong các
tài khoản môi giới chứng khoán của mình, “Các khoản đầu tư chính xác chiếm tới 29% các lệnh hữu danh trong các
Sàn giao dịch chứng khoán
5
cổ phần được niêm yết ở NYSE, và 37% trong số các lệnh hữu danh trên Sàn giao dịch chứng khoán Boston, nơi có
sự giám sát chung của các chuyên gia.
Nói một cách chính xác, những giao dịch đó được quản lý bởi những đội môi giới “quản lý dòng lệnh” riêng biệt,
những người tìm cách có được khả năng thực hiện tốt nhất có thể cho khách hàng và việc thực hiện phải có tỷ suất
lợi nhuận cao.
Thị trường thứ cấp
Những nghiên cứu gần đây của các giáo sư tài chính SMUCox Kumar Venkataraman và Hendrik Bessembinder đưa
ra những hiểu biết sâu sắc và đáng tin cậy vào những khả năng mới.
Xem thêm
• Bán đấu giá
• Thị trường vốn
• Trao đổi hàng hoá
• Cổ đông
• Nhà đầu tư chứng khoán

• Thị trường chứng khoán
• Người giao dịch
Các danh sách
• Danh sách các sàn giao dịch chứng khoán
• Danh sách các chỉ số thị trường chứng khoán
• Danh sách các chủ đề marketing
• Danh sách các chủ đề quản lý
• Danh sách các chủ đề kinh tế
• Danh sách các chủ đề kế toán
• Danh sách các chủ đề tài chính
• Danh sách các nhà kinh tế
Liên kết ngoài
• Uỷ ban chứng khoán [5]
• Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh [6]
• Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội [7]
Chú thích
[1] http:/ / www. nyse. com/ Frameset. html?displayPage=/ listed/ 1022540125610. html
[2] http:/ / www. instinet. com/ execution/ trading_systems. jsp
[3] http:/ / www. optimark. com/
[4] http:/ / www. openbond. com/ ind/ auctions/ openipo/ faq. html
[5] http:/ / www. ssc. gov. vn/ ssc/ Default. aspx?tabid=87
[6] http:/ / www. vse. org. vn/
[7] http:/ / hastc. org. vn/

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×