Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

BÀI GIẢNG MÔN LUẬT KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.34 KB, 48 trang )

BÀI GIẢNG LUẬT KINH DOANH
Chương một
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ LUẬT KINH DOANH
1.1-

Nhập môn Luật kinh doanh
1.1.1Vai trò của Nhà nước trong việc tạo lập môi trường kinh doanh
Nền kinh tế thị trường với những đặc trưng cơ bản là tự do hóa sở hữu các tư liệu

sản xuất và sự hoạt động vì lợi nhuận trong điều kiện cạnh tranh. Kinh tế thị trường hình
thành từ kinh tế hàng hóa và là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Lúc đầu
kinh tế thị trường phát triển và tự điều chỉnh bởi các quy luật kinh tế khách quan: như
quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... Nhưng khi chủ nghĩa tư bản
phát triển đến thời kỳ độc quyền, quá trình tích tụ và tập trung tư bản đạt đến quy mô lớn,
quá trình xã hội hóa sản xuất đạt đến trình độ cao, vượt khỏi tầm tay của các nhà tư bản
nên lúc này Nhà nước tư sản đã buộc phải can thiệp sâu vào sự vận hành của nền kinh tế
để đủ sức điều tiết thị trường, hướng thị trường phát triển đúng hướng và lành mạnh. Do
đó, các nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay của nhiều quốc gia trên thế giới đều là
nền kinh tế thị trường có điều tiết. Các Nhà nước đã dùng cơ chế, chính sách và luật phát
để điều chỉnh thị trường nhằm bảo đảm sự phát triển nền kinh tế ổn định, lành mạnh.
Ở Việt Nam, chúng ta xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh và
điều kiện sau:
-

Xây dựng nền kinh tế thị trường trên cơ sở nền sản xuất nhỏ, sản xuất nông nghiệp

-

chiếm một tỷ trọng lớn và sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các khu vực;
Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường trên cơ sở nền kinh tế kế hoạch hóa tập


trung cao độ, với hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể, quản lý

-

bằng phương pháp hành chính mệnh lệnh;
Xây dựng nền kinh tế thị trường trên cơ sở lấy thành phần kinh tế quốc doanh làm

-

chủ đạo;
Kinh tế thị trường Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


Như vậy, để tạo lập môi trường kinh doanh an toàn, thuận lợi, cần thiết phải sử

-

dụng công cụ pháp luật. Bởi vì:
Thứ nhất, pháp luật xác lập và điều chỉnh các quan hệ sở hữu
Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản của công dân, là một quyền tự nhiên,

-

thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người;
Là một chế định được quan tâm đặc biệt trong mọi hệ thống pháp luật;
Nhà nước đã xác định rõ chế độ và hình thức sở hữu, vai trò tác dụng của từng

-

hình thức và cách thức để bảo vệ quyền sở hữu.

Thứ hai, pháp luật đóng vai trò là phương tiện quản lý và điều tiết nền kinh tế
Thể chế hóa chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế của đất nước trong

-

từng giai đoạn phát triển;
Thừa nhận sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế, các hình thức sở

-

hữu;
Góp phần tái cấu trúc nền kinh tế trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, pháp luật là công cụ điều tiết lợi ích của các chủ thể tham gia thị

-

trường
Lợi ích kinh tế là vấn đề đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường khi lợi

-

nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của các chủ thể tham gia thị trường;
Pháp luật định hình khuôn khổ pháp lý cho một môi trường cạnh tranh lành mạnh;
Pháp luật xác lập nguyên tắc, bảo đảm các quyền tự do kinh doanh, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế.
Thứ tư, pháp luật góp phần tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội
phát sinh từ nền kinh tế thị trường
Phát triển kinh tế thị trường gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội phát
sinh từ nền kinh tế thị trường, đó là : khủng hoảng kinh tế, tình trạng thất nghiệp,


1.2-

lạm phát, phân hóa giàu nghèo và ô nhiễm môi trường…
1.1.2Nội dung điều chỉnh của pháp luật kinh doanh
Xác lập địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế;
Tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, an toàn và cạnh tranh lành mạnh;
Điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh;
Hình thành cơ chế pháp lý về tài phán trong kinh doanh.
Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh

1.2.1. Các nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh


* Hệ thống pháp luật kinh doanh phải đảm bảo phát huy các yếu tố cơ bản của nền kinh
tế thị trường. Bao gồm:
- Đảm bảo quyền tự do kinh doanh
Bao gồm: tự do sở hữu, tự do lựa chọn loại hình, lĩnh vực kinh doanh, tự chủ trong hoạt
động kinh doanh, tự do giao kết hợp đồng, tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật.
-

Đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh

Kinh doanh phải được tiến hành trong một môi trường bình đẳng. Sự bình đẳng của
các chủ thể kinh doanh đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, nhưng điều quan
trọng là các chủ thể kinh doanh phải thực sự bình đẳng trong áp dụng các cơ chế, chính
sách, trong thực thi công vụ, trong tiếp cận với các lĩnh vực dịch vụ công của Nhà
nước…
-

Đảm bảo sự vận động của vốn và tiền tệ

Sự vận động tự do và thông suốt của vốn và hàng hóa cần được hệ thống pháp luật

kinh doanh bảo đảm; trong đó đặc biệt chú trọng đến công cụ pháp lý là hợp đồng – cơ sở
xác lập sự thỏa thuận của các chủ thể kinh doanh, yếu tố bảo đảm sự vận hành của lưu
thông hàng hóa và tiền vốn.
1.2.2. Hệ thống pháp luật kinh doanh đảm bảo sự quản lý vĩ mô của nhà nước đối
với toàn bộ hoạt động kinh doanh
Trong bất kỳ chế độ xã hội nào, hoạt động kinh doanh luôn có vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính vì vậy, nhà nước luôn
luôn có sự điều tiết, hướng dẫn và quản lý các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, mức độ và phạm vi tác động của nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh
trong mỗi nhà nước là khác nhau nhưng vấn đề cần thiết đặt ra là, Nhà nước với tư cách
là người đại diện cho lợi ích công cộng phải đứng ra giải quyết các vấn đề điều tiết nền


kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự tác động, chi phối của Nhà nước lên quá trình hoạt động kinh
doanh bao gồm:
a. Hoàn thiện pháp luật về việc xác lập và chấm dứt tư cách của các chủ thể kinh
-

doanh
Đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp để người dân có nguyện vọng kinh doanh
có thể lựa chọn hình thức pháp lý phù hợp nhất cho hoạt động kinh doanh của

-

mình;
Quy định rõ các ngành, nghề cấm kinh doanh trong luật, hạn chế các ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện. Đưa ra các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ cụ thể để
nhà đầu tư thuận lợi trong quá trình kinh doanh theo định hướng phát triển của


-

Nhà nước;
Đơn giản hóa, cải tiến các thủ tục về thành lập doanh nghiệp, vừa tạo điều kiện
cho hoạt động kinh doanh, vừa tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với

các chủ thể kinh doanh.
b. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà nước
- Xác lập hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp, sớm phát hiện và xử lý kịp thời
-

các sai phạm trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh;
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

-

của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh; về quy trình kiểm tra, giám sát;
Xác định rõ ràng trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh liên

quan đến hồ sơ, sổ sách, báo cáo tài chính và các giấy tờ, tài liệu cần thiết khác…
c. Tăng cường quản lý sở hữu nhà nước
- Đa dạng hóa sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước;
- Tạo lập thị trường kỹ trị trong quản lý doanh nghiệp nhà nước;
- Thay thế cơ chế chủ quản bằng công ty quản lý vốn.
1.2.3. Hệ thống pháp luật kinh doanh đảm bảo tính thống nhất
- Xác định khung pháp luật kinh doanh phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta;
- Hoàn thiện cơ chế xây dựng pháp luật thích hợp;
- Khắc phục tình trạng dùng nhiều cấp văn bản pháp luật để giải quyết các vấn đề phát
sinh;



1.2.4. Hệ thống pháp luật kinh doanh phải đảm bảo được hiệu lực thực hiện
Thực tế hiện nay cho thấy, hệ thống pháp luật kinh doanh ở nước ta hiệu lực thực hiện
không cao; điều này xuất phát từ những lý do sau:
-

Thiếu tính thực tế;
Thiếu tính chính xác và đồng bộ;
Giá trị ngăn chặn chưa cao;
Pháp luật nhiều khi chưa đến được với các chủ thể cần phải áp dụng chúng;
Hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, nhất là
các tranh chấp lao động chưa cao.

1.2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh phải đảm bảo yêu cầu hội nhập và
hợp tác quốc tế
- Khi xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cần chú ý tham khảo các
luật mẫu do các tổ chức quốc tế ban hành, nhất là trong lĩnh vực thương mại;
- Nên chuẩn hóa một số khái niệm có tính chất chung, giống nhau của nhiều quốc gia trên
thế giới để vấn đề được hiểu đúng và diễn giải đơn giản hơn;
- Cần nội địa hóa một số quy định và nguyên tắc của các công ước quốc tế mà Việt Nam
đã tham gia để điều chỉnh các quan hệ kinh doanh.
1.2.6. Đảm bảo tính minh bạch của hệ thống pháp luật kinh doanh
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh cần đảm bảo
tính thống nhất, đồng bộ và minh bạch. Các qui định của pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu,
hiểu một cách nhất quán, dễ áp dụng.


Chương hai
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ

CỦA CÁC CHỦ THỂ KINH DOANH
2.1. Chủ thể kinh doanh là các loại hình doanh nghiệp
2.1.1. Các loại hình doanh nghiệp trong kinh doanh
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có thể phân loại theo nhiều tiêu chí
khác nhau:
+ Dựa theo tiêu chí quy mô:
-

Doanh nghiệp quy mô lớn
Doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ

+ Dựa theo tiêu chí sở hữu:
-

Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tập thể
Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội
Doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

+ Dựa theo tiêu chí liên kết giữa các chủ doanh nghiệp:
-

Công ty đối nhân
Công ty đối vốn

+ Dựa theo tiêu chí trách nhiệm của chủ doanh nghiệp:



-

Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn
Doanh nghiệp trách nhiệm vô hạn

2.1.2. Việc lựa chọn doanh nghiệp để kinh doanh
Khi tiến hành hoạt động kinh doanh, các nhà đầu tư phải cần lựa chọn doanh nghiệp
phù hợp với điều kiện và khả năng của mình.
Việc lựa chọn này thường được dựa trên các yếu tố sau:
- Thành lập, giải thể hay độ bền vững của doanh nghiệp;
- Cơ cấu quản lý;
- Vốn và khả năng huy động vốn;
- Trách nhiệm tài sản;
- Chuyển nhượng vốn hoặc cổ phần;
- Nghĩa vụ về thuế đối với nhà nước.
* DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân bỏ vốn thành lập và làm chủ, tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
-

Về thủ tục thành lập: muốn thành lập DNTN thì phải tiến hành đăng ký doanh
nghiệp tại Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh, thành phố

-

trực thuộc trung ương;
Cơ cấu quản lý: vì là doanh nghiệp do một cá nhân bỏ vốn thành lập và làm chủ
nên cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài sản, đồng thời vừa là
người quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do có một chủ sở hữu, nên

chủ doanh nghiệp hoàn toàn chủ động, tự mình quyết định mọi vấn đề liên quan


đến hoạt động kinh doanh, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp hoặc giải thể. Hình
-

thức này không bền, dễ thành lập và cũng dễ giải thể.
Về trách nhiệm tài sản: chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn về
các khoản nợ trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh, nếu làm ăn phát đạt, thu được nhiều lợi nhuận thì chủ doanh
nghiệp tư nhân được hưởng toàn bộ số lợi nhuận đó. Ngược lại, nếu gặp rủi ro hay
kinh doanh thua lỗ thì chủ doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm bằng chính tài
sản của doanh nghiệp và tài sản của cá nhân về các khoản nợ đến hạn của doanh
nghiệp. Có nghĩa là, nếu khoản nợ của doanh nghiệp không trả được theo đúng
cam kết thì người chủ sở hữu phải đem cả những tài sản riêng (không phụ thuộc
vào tài sản đó có đầu tư vào doanh nghiệp hay không) để trang trải các khoản nợ.
Đặc điểm này đưa đến tính rủi ro rất cao cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Cũng do

-

đặc điểm này mà doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Về khả năng huy động vốn: với đặc điểm như trên, loại hình doanh nghiệp này rất

-

khó vay vốn;
Về khả năng chuyển nhượng vốn đầu tư: chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ có quyền

-


bán hoặc cho thuê doanh nghiệp.
Về nghĩa vụ thuế: doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các khoản thuế theo

qui định.

Công ty hợp danh
Công ty hợp danh có đặc trưng của công ty đối nhân, các thành viên tham gia
thành lập công ty trên cơ sở góp danh, độ tin cậy về nhân thân của các thành
viên tham gia. Sự hùn vốn là yếu tố thứ yếu trong tổ chức hợp danh. Các thành
viên hợp danh phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của
công ty. Do tính chất liên đới chịu trách nhiệm vô hạn, nên các thành viên phải
thật sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, sống chết có nhau.
Có hai loại hình công ty hợp danh: công ty hợp danh phổ thông trong đó mọi
thành viên công ty đều chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty và
công ty hợp danh hữu hạn trong đó có hai loại thành viên; thành viên hợp danh
(thành viên nhận vốn) luôn chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong


kinh doanh của công ty còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn
-

trong phạm vi vốn góp.
Về thành lập công ty: việc thành lập công ty dựa trên cơ sở hợp đồng, trong đó
điều quan trọng nhất là sự thỏa thuận về trách nhiệm của các thành viên. Một công
ty hợp danh được thành lập nếu có ít nhất 2 thành viên thỏa thuận với nhau cùng
chịu trách nhiệm vô hạn. Thủ tục thành lập công ty đơn giản cũng đồng nghĩa với
dễ tan rã. Khi thành lập công ty cũng phải tiến hành đăng ký doanh nghiệp tại Sở

-


kế hoạch – đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Về cơ cấu quản lý: tổ chức công ty hợp danh rất đơn giản. Các thành viên có
quyền thỏa thuận trong hợp đồng về việc tổ chức, điều hành, đại diện công ty. Bất
kỳ thành viên hợp danh nào cũng có quyền đại diện cho công ty và nhân danh

-

công ty để hoạt động.
Về trách nhiệm tài sản: Các thành viên hợp danh phải cùng nhau liên đới chịu
trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty, vì chủ nợ có thể đòi bất kỳ
thành viên hợp danh nào về toàn bộ số nợ. Trong công ty hợp danh không có sự
phân biệt rõ ràng tài sản của công ty và tài sản của cá nhân thành viên hợp danh.
Sự chuyển dịch quyền sở hữu đối với khối tài sản chung sang tài sản riêng nói
chung rất đơn giản và khó kiểm soát. Về nguyên tắc, ngay khi một thành viên chưa
được hưởng chút lợi nhuận nào thì vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn nên rủi ro đối
với từng thành viên hợp danh là rất lớn, ngược lại chính vì thế mà độ an toàn pháp
lý đối với công chúng rất cao. Công ty hợp danh ít chịu qui định pháp lý ràng
buộc; nếu làm ăn thua lỗ họ phải chấp nhận thanh toán các khoản nợ đến đồng tài
sản cuối cùng. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn
góp, song không được quản lý, điều hành công ty và không được nhân danh công

-

ty trong các hoạt động kinh doanh.
Về chuyển nhượng: việc chuyển nhượng vốn trong công ty là rất hạn chế, do tính
chất của cá nhân thành viên hợp danh nên không thể chuyển nhượng tư cách thành

viên được.

Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH)



Công ty TNHH là một dạng của công ty đối vốn. Có sự tách bạch giữa tài sản của
công ty và tài sản cá nhân, công ty đối vốn có tư cách pháp nhân, các thành viên công
ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn mà họ
góp vào công ty. Số thành viên công ty thường đông do việc thành lập chỉ quan tâm
đến phần vốn góp.
Công ty đối vốn có nhiều ưu điểm so với công ty đối nhân, nó được nhiều người
kinh doanh ưa chuộng vì trách nhiệm hữu hạn. Điều đó tạo điều kiện cho nhà đầu tư
sẵn sàng đầu tư vào khu vực rủi ro lớn và khả năng họ phân tán vốn đầu tư vào nhiều
cơ sở kinh doanh khác nhau, tạo điều kiện cho thị trường vốn ra đời và phát triển.
Nhược điểm của công ty đối vốn cũng là ở tính chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn nên gây
rủi ro lớn cho khách hàng. Mặt khác, do số lượng thành viên đông nên dễ dẫn đến tình
trạng phân hóa các nhóm quyền lợi trong công ty, việc quản lý công ty sẽ phức tạp.
Công ty TNHH là công ty kết hợp hài hòa ưu điểm về trách nhiệm hữu hạn của công
ty đối vốn và ưu điểm thành viên quen biết của công ty đối nhân. Nó khắc phục được
nhược điểm về sự phức tạp khi thành lập và quản lý của công ty cổ phần và nhược
điểm không phân chia được rủi ro của công ty đối nhân. Có hai loại hình công ty
TNHH: công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên và công ty TNHH có một thành viên
là tổ chức, cá nhân.
Công ty TNHH có một số đặc điểm chính sau:
-

Về thành lập: Công ty TNHH là pháp nhân độc lập, địa vị pháp lý này quyết định
chế độ trách nhiệm của công ty. Công ty TNHH một thành viên dễ thành lập và
cũng dễ tan rã, còn công ty TNHH hai thành viên trở lên thủ tục thành lập phức
tạp hơn nên có tính bền vững hơn.
Việc thành lập cũng phải tiến hành đăng ký doanh nghiệp tại Sở kế hoạch và đầu

-


tư tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Về cơ cấu quản lý: thành viên của công ty không nhiều và thường là những người
quen biết nhau, các thành viên có thể góp vốn nhiều, ít khác nhau và bắt buộc phải
góp đủ khi thành lập, công ty phải bảo toàn vốn ban đầu. Nguyên tắc này thể hiện


rõ trong quá trình góp vốn, sử dụng vốn và phân chia lợi nhuận. Cơ cấu quản lý
công ty phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp, vì thế, có thể hoặc không chặt chẽ tùy thuộc
vào trình độ của người điều hành có tỷ lệ vốn góp lớn trong công ty hoặc trình độ
-

của người được thuê điều hành công ty. Số lượng thành viên không vượt quá 50.
Trách nhiệm thành viên: chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn (đối với chủ sở hữu
trong công ty TNHH một thành viên, và các thành viên công ty trong công ty
TNHH hai thành viên trở lên) tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh hạn chế được
rủi ro bằng cách chia sẻ trách nhiệm cho nhiều người. Nhà đầu tư có thể mạnh dạn
đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào có lợi cho xã hội. So với trường hợp phải chịu trách
nhiệm vô hạn, rõ ràng nhà đầu tư không dám đầu tư vào các khu vực có khả năng

-

rủi ro cao, như vậy sẽ không có lợi cho xã hội.
Về khả năng chuyển nhượng vốn: phần vốn vốn không thể hiện dưới hình thức cổ
phiếu và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài. Thành viên muốn chuyển nhượng
một phần hoặc toàn bộ vốn góp phải chào bán phần vốn góp đó cho tất cả các
thành viên còn lại theo tỉ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với
cùng điều kiện. Trường hợp chuyển nhượng cho người không phải là thành viên
công ty chỉ được thực hiện khi các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc


-

không mua hết trong thời gian 30 ngày kể từ ngày chào bán.
Khả năng huy động vốn: trong quá trình hoạt động, công ty có thể tăng vốn điều
lệ, vay vốn của ngân hàng hoặc tổ chức, cá nhân nhưng không được phép công

-

khai huy động vốn trong công chúng bằng việc phát hành cổ phiếu.
Về nghĩa vụ thuế: công ty có trách nhiệm nộp đầy đủ các loại thuế theo qui định.

Công ty TNHH là mô hình lý tưởng để kinh doanh ở quy mô vừa và nhỏ trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.



Công ty cổ phần
Là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn. Vốn của CTCP được chia thành nhiều

phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.


-Về việc thành lập: trong suốt quá trình hoạt động phải có ít nhất 3 thành viên tham gia,
số thành viên tối đa là không hạn chế. Là loại hình công ty đối vốn điển hình nên nó tồn
tại lâu dài, bất chấp sự thay đổi của cổ đông công ty. Công ty đăng ký doanh nghiệp tại
Sở kế hoạch – đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi công ty có trụ sở chính.
- Về cơ cấu quản lý: CTCP là loại doanh nghiệp có chế độ tài chính rất phức tạp, đòi hỏi
chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể có liên
quan. Là loại doanh nghiệp có rất nhiều cổ đông nên việc tổ chức, quản lý cũng rất phức

tạp, đòi hỏi cơ chế quản lý cần chặt chẽ. Cần có sự phân công các chức năng cụ thể cho
các bộ phận khác nhau, giám sát lẫn nhau trong mọi hoạt động kinh doanh cũng như quản
lý của công ty
- Về chuyển nhượng cổ phần, cổ phiếu: cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ, được
thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Cổ phần công ty có thể tồn tại dưới hai loại là cổ phần
phổ thông và cổ phần ưu đãi. Đối với CTCP thì cổ phần là căn cứ pháp lý chứng minh tư
cách thành viên công ty bất kể họ có tham gia thành lập công ty hay không.
Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu
một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Như vậy, cổ phiếu là giấy tờ có giá trị chứng
minh tư cách chủ sở hữu cổ phần và đồng thời là tư cách thành viên của công ty của
người có cổ phần. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo qui định của pháp
luật, trừ trường hợp pháp luật qui định khác
-Về trách nhiệm của cổ đông: CTCP chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng
tài sản của công ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở
hữu.
-Về khả năng huy động vốn: CTCP không bị giới hạn về cả quy mô kinh doanh lẫn khả
năng huy động vốn. Khả năng huy động vốn của CTCP dễ dàng hơn nhiều so với các loại
hình công ty khác vì nó có thể phát hành rộng rãi cổ phiếu ra công chúng để huy động
vốn.


-Về nghĩa vụ thuế: CTCP là đối tượng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế theo
quy định.
2.1.3. Một số vấn đề cần lưu ý khi lựa chọn loại hình doanh nghiệp để kinh doanh
Khi lựa chọn loại hình tổ chức cho công việc kinh doanh, nhà quản lý cần thận trọng
cân nhắc các vấn đề sau:


Mức độ phức tạp và qui mô của công việc kinh doanh định làm;


Nếu sản phẩm hay dịch vụ là sản phẩm truyền thống gia đình, quy mô không cần lớn,
bản than gia đình có thể đủ vốn để kinh doanh thì nên chọn loại hình Doanh nghiệp tư
nhân.
Nếu sản phẩm và dịch vụ định kinh doanh cần ở quy mô tương đối lớn, người khởi
xướng chính có nhiều bạn bè có thể đầu tư vốn thì nên chọn loại hình Công ty trách
nhiệm hữu hạn.
Nếu dịch vụ định kinh doanh là dịch vụ đặc biệt như dịch vụ tư vấn, không cần đến
vốn nhiều, chủ yếu là vấn đề tư duy, trình độ và danh tiếng. Công ty được thành lập dựa
vào sức mạnh của bạn bè thân thiết, có bề dày kinh nghiệm, hiểu và có thể chia sẻ cho
nhau thì hình thức doanh nghiệp lựa chọn là công ty hợp danh.


Mức độ cần vốn thường đi đối với quy mô kinh doanh;

Nếu quy mô sẽ chọn là rất lớn, cần huy động vốn lớn, sản phẩm sẽ kinh doanh hoặc
sản xuất trong tương lai cần có công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, cần nhiều nguồn lực và
trí tuệ thì việc thành lập công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp mà nhà đầu tư cần
nghĩ đến.


Kinh nghiệm và khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp;


Nếu bản thân chủ đầu tư tự nhận thấy công việc kinh doanh trong tương lai vượt quá
khả năng quản lý, trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm của bản thân thì lúc đó
mới nên đặt vấn đề hợp tác với người khác.


Mức độ hòa nhập hay hợp tác của chủ đầu tư;


Điều này phụ thuộc rất nhiều vào cá tính của chủ đầu tư. Nguyên tắc hàng đầu trong
hợp tác làm ăn là phải trung thực, thân thiện, tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ cùng nhau. Phải
tôn trọng và cư xử công bằng với cộng sự thì mới hòa nhập và cộng tác được.


Rủi ro sẽ gặp khi khởi sự doanh nghiệp để kinh doanh

Khi có sự xuất hiện nhu cầu của xã hội về một sản phẩm hay dịch vụ nào đó, sẽ kích
thích sự ra đời của các nhà kinh doanh mới, cùng với các nhà kinh doanh sẵn có nhảy vào
cùng cung cấp sản phẩm hay dịch vụ đó. Tương quan giữa cung và cầu sẽ quyết định kết
quả kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia. Do đó, đặc điểm nổi bật của kinh doanh
trong cơ chế thị trường là tính cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Trong kinh
doanh tất yếu các doanh nghiệp phải đối mặt và chấp nhận các rủi ro gặp phải, vì vậy đòi
hỏi nhà đầu tư phải hết sức cẩn trọng khi nghiên cứu và lựa chọn mô hình kinh doanh phù
hợp.
Mặt khác, trong thực tiễn khi thành lập doanh nghiệp cần chú ý thêm các vấn đề sau:
+ Vai trò của người sáng lập;
Những phẩm chất cần phải có ở người sáng lập đóng vai trò chủ doanh nghiệp:

Những phẩm chất của thủ lĩnh:
- Có tinh thần sáng tạo và đổi mới để tạo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp và tìm
-

các giải pháp tình huống khi cần;
Có tầm nhìn xa để xây dựng hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp;
Có khát vọng thành đạt để thúc giục, lôi kéo mọi người;
Có khả năng định hướng theo cơ hội nhiều hơn là nguồn lực sẵn có. Trong kinh

-


doanh cơ hội mới là yếu tố quan trọng;
Có khả năng giữ bình tĩnh và chấp nhận những diễn biến chưa lường trước được;


-

Có khả năng quyết đoán khi doanh nghiệp gặp phải những tình huống nan giải mà
không có quyết định kịp thời thì mất cơ hội hoặc lâm vào tình trạng không thể cứu



vãn được.
Những phẩm chất của cá nhân tạo nên sức mạnh hành động cho người chủ

-

doanh nghiệp:
Quyết tâm, bền bỉ đủ sức để gánh chịu những hy sinh của một chủ doanh nghiệp;
Trung thực, chân thành. Chữ tín là tối quan trọng không chỉ đối với khách hàng
mà còn đối với các cộng sự. Sự chân thành luôn tập hợp được lòng tin của người

-

khác;
Nhiệt tình và thân ái để tập hợp và lôi cuốn mọi người;
Tự tin và lạc quan trong kinh doanh, nếu để mất lòng tin sẽ mất phương hướng.

Nếu người thủ lĩnh mất phương hướng sẽ làm người khác hoảng loạn;
- Biết chế ngự và kiểm soát tình cảm để luôn luôn làm chủ được tình huống;

- Có đủ sức khỏe vì kinh doanh luôn phải đương đầu với lo âu và căng thẳng.

Những phẩm chất của nhà quản lý:
- Biết lắng nghe và chọn lọc, tức có mưu trí trong vấn đề sử dụng người;
- Biết xây dựng tập thể vững mạnh, giỏi chuyên môn, đoàn kết, thân thiện để đạt
-

đến mục đích mà doanh nghiệp mong muốn;
Không ngừng hoàn thiện các kỹ năng của bản thân

+ Những công việc mà người sáng lập doanh nghiệp phải làm:
-

Tạo vốn cho doanh nghiệp;
Tham gia soạn thảo và thông qua điều lệ doanh nghiệp;
Tham gia ký kết các hợp đồng để tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành doanh

-

nghiệp;
Hoàn chỉnh hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và tiến hành các thủ tục đăng ký theo qui
định

+ Những vấn đề về tổ chức, biên chế của một doanh nghiệp.
Hình thành các bộ phận trong cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp:
-

Bộ phận sản xuất hoặc cung ứng;
Bộ phận phân phối hoặc dịch vụ;
Bộ phận hỗ trợ bán hàng bao gồm; kế toán, tài chính, kế hoạch kinh doanh, hành

chính, nhân sự, tiếp thị...


2.2- Các chủ thể kinh doanh khác
2.2.1. Hợp tác xã
a. Khái niệm – Đặc điểm của Hợp tác xã
-Khái niệm: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
(sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập
ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia
hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
-Đặc điểm
+Hợp tác xã là tổ chức kinh tế mang tính xã hội và hợp tác cao
+Tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã, được hình thành từ vốn góp của xã viên hoặc được
hỗ trợ từ nhà nước
+Hợp tác xã thực hiện chế độ phân phối theo lao động, theo vốn góp và theo mức độ
tham gia dịch vụ
b. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của HTX
-Nguyên tắc tự nguyện
-Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai
-Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi
-Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng
c.Thành lập, tổ chức lại, giải thể Hợp tác xã
d. Về tổ chức, quản lý Hợp tác xã
-Đại hội xã viên: là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của HTX, bao gồm toàn bộ các
xã viên hoặc các đại biểu xã viên.
-Ban quản trị hợp tác xã: là bộ máy quản lý HTX do đại hội xã viên bầu trực tiếp, gồm
trưởng ban quản trị và các thành viên khác. Số lượng thành viên do điều lệ HTX quy
định.



-Ban kiểm soát: là bộ máy giám sát và kiểm tra mọi hoạt động của HTX theo đúng pháp
luật và điều lệ HTX. Ban kiểm soát do đại hội xã viên bầu trực tiếp; số lượng thành viên
do điều lệ HTX quy định. Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát theo nhiệm kỳ của Ban quản trị.
Ban kiểm soát có các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật và điều lệ
HTX.
2.2.2. Hộ kinh doanh cá thể
a. Khái niệm:

Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người, hoặc một
hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá
mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối
với hoạt động kinh doanh.
b. Đặc điểm

-Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân, một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ;
-Hộ kinh doanh cá thể thường tồn tại với quy mô nhỏ;
-Chủ hộ kinh doanh cá thể phải chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh.
c. Đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh cá thể

-Điều kiện đăng ký kinh doanh
Dù không phải là doanh nghiệp, nhưng để được công nhận là một chủ thể kinh doanh thì
hộ kinh doanh cá thể cũng phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh. Thông qua việc đăng
ký kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể được công nhận các quyền và nghĩa vụ trong hoạt
động kinh doanh.
Nghị định 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định các điều kiện để đăng ký kinh
doanh đối với hộ kinh doanh cá thể. Theo đó, tất cả công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi, có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ (trừ người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc mất
năng lực hành vi dân sự; người đang chấp hành hình phạt tù hoặc bị tòa án tước quyền
hành nghề) và các hộ gia đình đều có quyền tham gia đăng ký kinh doanh loại hình hộ



kinh doanh cá thể. Mỗi cá nhân hay hộ gia đình chỉ được đăng ký kinh doanh một hộ
kinh doanh cá thể.
Các chủ hộ kinh doanh chỉ được đăng ký cho hộ kinh doanh cá thể của mình với những
ngành, nghề kinh doanh không bị pháp luật cấm. Đối với những ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện thì chủ hộ kinh doanh phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện này.
-Thủ tục đăng ký kinh doanh
Cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình gửi giấy đề nghị đăng ký kinh doanh hộ gia
đình, kèm theo bản sao giấy chứng minh nhân dân của cá nhân hoặc người đại diện hộ
gia đình đến cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đặt địa điểm kinh doanh;
Nội dung của giấy đề nghị đăng ký kinh doanh gồm: tên hộ kinh doanh, địa chỉ của địa
điểm kinh doanh, ngành, nghề kinh doanh; số vốn kinh doanh; họ tên, số và ngày cấp
giấy chứng minh nhân dân, địa chỉ nơi cư trú và chữ ký của cá nhân hoặc đại diện hộ gia
đình.
Đối với những ngành, nghề phải có chứng chỉ hành nghề thì kèm theo phải có bản sao
hợp lệ chứng chỉ hành nghề của cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình. Đối với những ngành,
nghề phải có vốn pháp định thì kèm theo phải có bản sao hợp lệ văn bản xác nhận vốn
pháp định của cơ quan tổ chức có thẩm quyền.
-Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện khi tiếp nhận hồ sơ sẽ xem xét và cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh trong thời hạn năm ngày làm việc nếu
hồ sơ hợp lệ và có đủ các điều kiện: ngành nghề kinh doanh không thuộc danh mục các
ngành, nghề cấm kinh doanh, tên hộ kinh doanh dự định đăng ký phù hợp quy định của
pháp luật và nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định.
-Hộ kinh doanh cá thể có quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh sau khi được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề phải có
đủ điều kiện.
-Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, ngừng kinh doanh hoặc chấm dứt kinh doanh



Khi thay đổi nội dung kinh doanh đã đăng ký, hộ kinh doanh thông báo nội dung thay đổi
với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng ký kinh doanh.
Trường hợp tạm ngừng kinh doanh từ 30 ngày trở lên, hộ kinh doanh thông báo với cơ
quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế trực tiếp
quản lý. Thời gian tạm ngừng kinh doanh không được quá một năm.
Khi chấm dứt hoạt động kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể phải nộp lại bản gốc giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đã đăng
ký kinh doanh, đồng thời thanh toán đầy đủ các khoản nợ, gồm cả nợ thuế và các nghĩa
vụ tài chính chưa thực hiện.
Chương ba
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
TRONG KINH DOANH
3.1- Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng
Hợp đồng là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia. Dù có
nhiều cách hiểu khác nhau về hợp đồng, song nhìn chung xét về bản chất thì hợp đồng là
một công cụ đảm bảo sự bình đẳng, tự nguyện của các bên chủ thể tham gia các quan hệ
xã hội được pháp luật điều chỉnh.
3.1.1. Định nghĩa về hợp đồng
Điều 394 BLDS định nghĩa: Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận của các bên nhằm làm
phát sinh, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
3.1.2. Bản chất của hợp đồng
Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên tham gia. Điều đó thể hiện rằng bản chất của
hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các bên.
Chính yếu tố thỏa thuận này quyết định nội dung của nhiều quy định cụ thể về hợp
đồng.


Thứ nhất, sự thỏa thuận được hiểu là trùng hợp ý muốn của các bên về một nội dung hay
yêu cầu mà các bên mong muốn đạt được. Điều này dẫn đến các hệ quả sau:
- Chỉ coi là sự thỏa thuận khi các cam kết mà các bên đưa ra phù hợp với ý muốn đích

thực của họ. Vì vậy, các cam kết đưa ra do tác động của sự lừa dối, nhầm lẫn, đe dọa…
thì không được coi là sự thỏa thuận.
- Sự thỏa thuận tức là ý chí của các bên phù hợp với những gì mà họ cam kết.
Thứ hai, tuy nhiên ý chí là yếu tố chủ quan, vô hình nên cần xác định ý muốn thật sự của
căn cứ và sự thể hiện trong các hành vi của chủ thể, tức là làm rõ mối liên hệ giữa mặt
chủ quan và mặt khách quan của thỏa thuận.
- Hai vấn đề nêu trên trong thực tế không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định;
- Thỏa thuận với tư cách là yếu tố bản chất của hợp đồng cũng được quy định trong pháp
luật hợp đồng của nước ta trước đây. Tuy nhiên, hiện nay trong điều kiện kinh tế thị
trường thì bản chất này đã được thể hiện một cách đầy đủ nhất. Bởi vì:
+ Trong nền kinh tế thị trường với sự tồn tại của nhiều chủ thể kinh doanh, nhiều hình
thức sở hữu với những lợi ích hết sức đa dạng, cho nên cần phải được bảo đảm lợi ích của
các chủ thể;
+ Sự chuyển dịch các lợi ích vật chất hoặc phi vật chất giữa các chủ thể đòi hỏi cần được
bảo đảm thông qua việc cho phép họ tự do biểu hiện ý chí của mình;
+ Đa số các chủ thể kinh doanh đều dựa trên nguyên tắc hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi.
Do đó, sự áp đặt hoặc đe dọa các chủ thể tham gia quan hệ kinh doanh là không phù hợp
mà cần phải bảo đảm sự lựa chọn cần thiết, tối đa cho họ;
+ Kinh tế thị trường đòi hỏi sự ổn định trong các quan hệ kinh doanh và cần phát huy cao
độ tính chủ động, sáng tạo của các chủ thể nên việc bảo đảm bản chất của hợp động là sự
thỏa thuận càng có ý nghĩa quan trọng.


3.1.3. Ký kết hợp đồng
- Các nguyên tắc ký kết hợp đồng
+ Tư do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội;
+ Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
- Năng lực và thẩm quyền của người ký kết hợp đồng
Để hợp đồng giao kết hợp pháp, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên thì
các bên chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng phải có năng lực chủ thể. Nếu chủ thể của

hợp đồng là cá nhân thì cá nhân đó phải có năng lực hành vi dân sự. Nếu chủ thể của hợp
đồng là pháp nhân thì pháp nhân đó phải có năng lực pháp luật dân sự. Cá nhân có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ thì có quyền xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Pháp
nhân xác lập và thực hiện hợp đồng trên cơ sở năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân.
Các bên tham gia giao kết hợp đồng có thể ký kết hợp đồng một cách trực tiếp hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp.
- Phương thức giao kết hợp đồng
Để xác lập quan hệ hợp đồng, các bên giao kết có thể lựa chọn một phương thức giao
dịch nhất định, có thể là giao dịch trực tiếp hoặc giao dịch gián tiếp.
Phương thức giao dịch trực tiếp là việc các bên hoặc đại diện hợp pháp của các bên
trực tiếp gặp nhau, bàn bạc, trao đổi và đi đến thống nhất các nội dung của hợp đồng.
Phương thức giao dịch này khá đơn giản, hợp đồng được hình thành một cách nhanh
chóng, độ an toàn về mặt pháp lý cao. Nhưng trong một số trường hợp nếu các bên ở
những nơi cách xa nhau thì phương thức này tỏ ra tốn kém.
Phương thức giao dịch gián tiếp là phương thức mà các bên tham gia giao kết không
cần trực tiếp gặp nhau đàm phán, chỉ cần trao đổi thông tin trong đó chứa đựng những nội
dung cần thỏa thuận. Phương thức này khá thuận lợi, đỡ tốn kém về thời gian và tiền bạc


cho các bên, nhưng cũng có những hạn chế nhất định, đó là sự phức tạp trong việc xác
định hợp đồng đã hình thành hay chưa và thời điểm khi nào hợp đồng được xác lập.
- Thủ tục giao kết hợp đồng
+ Đề nghị giao kết hợp đồng;
Để hình thành quan hệ hợp đồng, trước hết phải có một bên tuyên bố ý chí muốn giao
kết hợp đồng. Việc tuyên bố này gọi là đề nghị giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp
đồng phải có các yếu tố sau: i) Thể hiện ý chí muốn giao kết hợp đồng của bên đề nghị;
ii) Có các nội dung chủ yếu của hợp đồng; iii) Được chuyển cho một hoặc một số đối
tượng đã xác định. Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình.
+ Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận giao kết hợp đồng là thông báo của bên được đề nghị chuyển cho bên đề

nghị thể hiện sự chấp thuận của mình về các nội dung trong đề nghị giao kết hợp đồng.
Về nguyên tắc, chấp nhận hợp đồng phải thể hiện sự nhất trí của bên được đề nghị về tất
cả các nội dung đã giao dịch. Mọi sửa đổi, bổ sung đề nghị giao kết hợp đồng từ phía bên
được đề nghị đều dẫn đến việc hình thành đề nghị hợp đồng mới và nếu bên đề nghị
không chấp nhận các thay đổi đó thì hợp đồng không được xác lập.
- Nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng là toàn bộ các vấn đề mà các bên đã thỏa thuận được với nhau.
Về mặt hình thức, nội dung của hợp đồng được thể hiện dưới dạng các điều khoản. Về
mặt pháp lý, nội dung của hợp đồng chính là quyền và nghĩa vụ ràng buộc các bên giao
kết với nhau.
3.1.4. Thực hiện hợp đồng
Thực hiện hợp đồng là việc các bên thực hiện các điều khoản mà các bên đã cam kết
trong hợp đồng. Chính vì vậy, việc thực hiện đúng, đầy đủ và nghiêm chỉnh hợp đồng đã
được ký kết là trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia hợp đồng.


3.1.5. Các hình thức trách nhiệm hợp đồng
Hợp đồng có hiệu lực có tính chất là “luật” đối với các bên giao kết. Khi một hợp đồng
được xác lập, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện các cam kết đã thỏa thuận trong hợp
đồng. Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng (không thực hiện, thực hiện không
đúng, không đầy đủ nghĩa vụ) sẽ dẫn đến bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả vật
chất bất lợi do pháp luật qui định.
a. Căn cứ áp dụng trách nhiệm hợp đồng:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng;
- Có thiệt hại thực tế xảy ra;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế;
- Có lỗi của bên vi phạm.
b. Các hình thức trách nhiệm hợp đồng
- Phạt hợp đồng: là hình thức trách nhiệm hợp đồng, theo đó, bên vi phạm hợp đồng
phải trả cho bên bị vi phạm khoản tiền nhất định do pháp luật qui định hoặc do các bên

thỏa thuận trên cơ sở pháp luật. Căn cứ để áp dụng hình thức trách nhiệm phạt hợp đồng
là: có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại: là hình thức trách nhiệm vật chất được đặt ra nhằm khôi phục, bù
đắp những lợi ích vật chất bị mất (bị thiệt hại) của bên bị vi phạm. Như vậy, bồi thường
thiệt hại chỉ được áp dụng khi có thiệt hại xảy ra. Để áp dụng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, phải có đủ 4 căn cứ gồm: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế xảy
ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế, có lỗi của bên vi
phạm. Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho
bên bị vi phạm, nhưng các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm trong phạm vi được
pháp luật ghi nhận.


- Buộc thực hiện đúng hợp đồng: là hình thức trách nhiệm hợp đồng, theo đó bên vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên bị vi
phạm. Căn cứ để áp dụng hình thức trách nhiệm buộc thực hiện đúng hợp đồng là: có
hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Biểu hiện cụ thể của việc áp dụng
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm đơn phương (hoặc yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền) buộc bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng
hoặc dung các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện (sửa chữa khuyết tật, thiếu sót
của hàng hóa…) và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh.
3.2- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
3.2.1.Khái niệm và đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
a. Khái niệm: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa có
yếu tố nước ngoài.
b. Đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là Hợp đồng mua bán hàng hóa
+ Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của hợp đồng,
bên mua và bên bán. Sau khi Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có hiệu lực, nó trở
thành “luật” ràng buộc đối với các bên chủ thể hợp đồng;
+ Chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là bên mua và bên bán có các quyền

và nghĩa vụ tương ứng;
+ Hàng hóa đối tượng của hợp đồng phải là tài sản hữu hình hoặc các quyền tài sản;
+ Nội dung của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các quyền và nghĩa vụ của các
bên có liên quan tới Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Là loại hợp đồng song vụ, có
đền bù nên bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu và nhận tiền, còn bên
mua có nghĩa vụ trả tiền tương ứng với giá trị của hàng hóa và nhận hàng.


- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước
ngoài. Yếu tố nước ngoài của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được hiểu là hàng hóa
đối tượng của hợp đồng có sự dịch chuyển qua biên giới và hợp đồng được điều chỉnh
bởi nhiều hệ thống pháp luật.
3.2.2. Luật áp dụng để điều chỉnh Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia trở thành luật điều chỉnh hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
+ Khi các bên thỏa thuận lựa chọn trong hợp đồng;
+ Khi các quy tắc của tư pháp quốc tế của các bên dẫn chiếu đến.
- Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế thường được áp dụng nhiều nhất trong thực tiễn là Công ước Viên
1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Công ước Viên 1980 trở thành luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa
khi:
+ Một trong các chủ thể của hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước thành viên của
công ước;
+ Khi căn cứ theo các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế, luật áp dụng là luật của
các nước thành viên Công ước;
+ Khi các bên thỏa thuận lựa chọn Công ước là luật áp dụng.
- Tập quán thương mại quốc tế
Tập quán thương mại quốc tế là các thói quen thương mại được hình thành từ lâu đời,
được áp dụng liên lục trong thực tiễn thương mại quốc tế và được các chủ thể của quan

hệ thương mại quốc tế chấp nhận có giá trị pháp lý bắt buộc. Thông thường tập quán


×