Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.14 KB, 18 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP VÀ TÌNH HÌNH XUẤT
KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Tổng quan về xuất khẩu trực tiếp
1.1.1 Khái niệm xuất khẩu.
Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh sinh lợi bằng cách bán sản phẩm hoặc
dịch vụ của mình ra thị trường nước ngoài và sản phẩm hay dịch vụ ấy phải di chuyển
ra khỏi biên giới (hải quan) của một quốc gia.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu
1.1.2.1. Các nhân tố khách quan
* Chính sách xuất khẩu của Nhà nước
Chính sách xuất khẩu là hệ thống các quy định, công cụ và biện pháp thích hợp
của Nhà nước để đều chỉnh hoạt động xuất khẩu của Quốc gia trong một thời kỳ nhất
định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Mỗi quốc gia sẽ có một chính sách xuất khẩu khác nhau. Tùy vào mục tiêu phát triển
kinh tế mà các quốc gia đưa ra chính sách xuất khẩu cho phù hợp với tình hình hiện tại
của quốc gia mình. Và khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp
phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Chính Phủ về xuất khẩu. Ví dụ ở Việt Nam
thì nhà nước quản lý xuất khẩu gạo như sau:
Đối với những hợp đồng xuất khẩu gạo sang một số thị trường theo hợp đồng
Chính Phủ, Bộ thương mại sau khi trao đổi vơi Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ định
và chỉ đạo doanh nghiệp làm đại diện giao dịch ký kết hợp đồng, đồng thời phân giao
số lượng gạo xuất khẩu thuộc hợp đồng Chính Phủ cho cc tỉnh trn cơ sở sản lượng la
hàng hóa của địa phương, để chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh trực tiếp giao cho các
doanh nghiệp thuộc tỉnh thực hiện, có tính đến quyền lợi của doanh nghiệp đại diện ký
kết hợp đồng.
Việc xuất khẩu gạo theo kế hoạch trả nợ, viện trợ của Chính phủ thực hiện theo
cơ chế đấu thầu hoặc theo quyết định riêng của Thủ tướng chính phủ.
Để đảm bảo lợi ích nông dân, ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong
nước giảm bớt khó khăn đối với hoạt động sản xuất, lưu thông lúa gạo và phân bón khi
thị trường trong và ngoài nước có biến động, Thủ tướng chính phủ sẽ xem xét, quyết
định các biện pháp cần thiết can thiệp có hiệu quả vào thị trường lúa gạo.


Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai loại tiền tệ với nhau, hay nói cách
khác là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện trong một số lượng tiền tệ nước
kia.
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, sự biến động của tỷ giá
hối đoái ảnh hưởng rất mạnh đến hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Ví dụ như khi tỷ
giá hối đoái tăng lên tức đồng nội tệ mất giá, tức sẽ làm cho giá cả hàng hóa xuất khẩu
có lợi thế hơn vì rẻ hơn, nên lúc này sẽ có lợi cho xuất khẩu. Nhà xuất khẩu sẽ thu về
hàng của mình doanh nghiệp hãy dự đoán cẩn thận để có được những nghiệp vụ mua
bán tỷ giá thích hợp nhằm hạn chế rủi ro thua lỗ.
• Thu nhập của nước nhập khẩu
Thu nhập là mức độ tăng trường GDP của một nước, là con số thể hiện tốc độ
tăng trưởng kinh tế của một nước năm sau có cao hơn năm trước hay không.
Không một nhà xuất khẩu nào lại muốn hàng của mình được bán cho một nhà
nhập khẩu không có tiền để rồi tự mình vướng vào rủi ro về mặt thanh toán. Vì vậy khi
lựa chọn đối tác làm ăn, nhà xuất khẩu cần phải tìm hiểu kỹ càng về đối tác của mình
chẳng hạn như việc thông qua CIA, để đảm bảo đối tác là có thật và có khả năng thanh
toán.
Nguồn lực tài chính mạnh sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có một nền tảng
vững chắc để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện các chiến lược đã đề
ra, cũng như có điều kiện tạo nên những sản phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị
trường, đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển. Trái lại, nếu doanh nghiệp có nguồn lực
tài chính yếu, thường gây ra những khó khăn lớn, đối với việc thực hiện các mục tiêu
của doanh nghiệp trong việc thâm nhập vào thị trường quốc tế. Vì vậy để có thể đứng
vững trên thị trường lâu dài, nhà xuất khẩu phải đảm bảo mình có nguồn tài chính đủ
mạnh để có thể đối đầu với những thách thức trong thời gian đầu mới tham gia thị
trường.
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp:
Là một yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường. Để
thâm nhập thành công vào thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần có đội ngũ nhân viên

giỏi chuyên môn, vững nghiệp vụ, hiểu biết về thị trường xuất khẩu và điều quan trọng
là phải giỏi ngoại ngữ. Nếu một nhà xuất khẩu có một đội ngũ nguồn nhân lực không
đủ nghiệp vụ chuyên môn, trình độ sinh ngữ thấp thì sẽ đối mặt với rất nhiều rủi ro và
không thể phát triển. Vì vậy để có thể tồn tại và phát triển vững mạnh trên thị trường
quốc tế, thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn là yếu tố được quan tâm
hàng đầu của bất kì doanh nghiệp nào.
. Sản phẩm:
Để đưa một sản phẩm tham gia vào thị trường xuất khẩu thì sản phẩm đó phải đáp
ứng được các yêu cầu sau:
+ Về chất lượng: phải đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, về tiêu
chuẩn kỹ thuật của nước nhập khẩu. Thường thì những nước phát triển luôn đề ra các
tiêu chuẩn kĩ thuật rất khắt khe. Còn các nước đang và chậm phát triển thì những rào
cản này được quy định thông thoáng hơn.
+ Về số lượng: sản phẩm xuất khẩu phải đảm bảo được số lượng luôn ổn định và
có thể cung cấp kịp thời được những đơn hàng lớn do khách hàng đặt ra. Vì không một
nhà nhập khẩu nào lại muốn mua hàng của một đối tác mà có nguồn cung không ổn
định và không đáp ứng được yêu cầu về số lượng của mình.
Ngoài việc đáp ứng được những yếu tố trên thì sản phẩm của doanh nghiệp phải
không ngừng được nâng cao chất lượng và xây dựng được thương hiệu vững mạnh thì
mới có thể phát triển bền vững trên thị trường quốc tế.
• Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp:
Mỗi doanh nghiệp sẽ định ra cho mình một thị trường mục tiêu khác nhau, mỗi thị
trường sẽ có những qui định và nhu cầu khác nhau. Tuy nhiên, khi bước vào thị trường
thì đầu tiên doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với những rào cản về thuế quan và phi thuế
quan. Đối với hàng rào thuế quan. Nếu thuế cao sẽ đẩy giá cả của hàng hoá lên cao, ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đối với hàng rào phi thuế quan như
các tiêu chuẩn kỹ thuật sẽ cản trở việc xuất khẩu của doanh nghiệp vào thị trường, đặc
biệt là các tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước phát triển luôn rất khắt khe.
Như vậy để thâm nhập vào thị trường quốc tế một cách hiệu quả, doanh nghiệp
nên tìm hiểu kĩ về thị trường.

1.1.3 Các hình thức xuất khẩu:
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều cách thức khác nhau phục thuộc vào số
lượng và loại hình các trung gian thương mại. Để thiết lập các kênh xuất khẩu, công ty
cần phải quyết định các chức năng mà các trung gian đảm nhiệm và chức năng nào là
do công ty đảm nhiệm. Những kênh xuất khẩu có nhiều dạng khác nhau. Thông thường
xuất khẩu có hai dạng chủ yểu: xuất khẩu gián tiếp và xuất khẩu trực tiếp.
1.1.3.1. Xuất khẩu gián tiếp
a. Khái niệm:
Xuất khẩu gián tiếp là việc bán hàng không đòi hỏi có sự tiếp xúc trực tiếp giữa
người mua nước ngoài và người sản xuất trong nước. Để bán được sản phẩm ra nước
ngoài, người sản xuất phải nhờ vào các tổ chức trung gian có chức năng xuất khẩu trực
tiếp như các đại lý xuất khẩu, hoặc các công ty thương mại quốc tế, hoặc bán hàng cho
các chỉ nhánh của các tổ chức nước ngoài đặt ở trong nước.
b. Các hình thức xuất khẩu gián tiếp:
Các doanh nghiệp có thể thực hiện xuất khẩu gián tiếp thông qua các hình thức
sau:
+ Công ty quản trị xuất khẩu (Export Management Company): là công ty thực
hiện việc quản trị xuất khẩu cho các công ty khác. Các nhà sản xuất xuất khẩu nhỏ
thường thiếu kinh nghiệm bán hàng ra nước ngoài hoặc không đủ khả năng về vốn để tổ
chức các đơn vị xuất khẩu riêng,' do đó họ thường thông qua các EMC để xuất khẩu sản
phẩm. .
+ Khách hàng nước ngoài: là hình thức xuất khẩu thông qua các nhân viên của
công ty nhập khẩu nước ngoài. . .
+ Nhà ủy thác xuất khẩu: thường là những đại diện cho những người mua nước
ngoài cư trú trên nước của nhà xuất khẩu. Nhà ủy thác xuất khẩu hành động vì lợi ích
của người mua vì người mua trả tiền ủy thác.
+ Môi giới xuất khẩu: Thực hiện chức năng liên kết giữa nhà xuất khẩu và
nhà nhập khẩu. Được nhà xuất khẩu ủy nhiệm và trả hoa hồng cho hoạt động của
họ.
+ Hãng buôn xuất khẩu: Thường đóng tại các nước xuất khẩu và mua hàng của

người chế biến hoặc nhà sản xuất, sau đó họ tiếp tục thực hiện các nghiệp vụ để xuất
khẩu và chịu mọi rủi ro liên quan đến xuất khẩu.
1.1.3.2. Xuất khẩu trực tiếp
a. Khái niệm
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức doanh nghiệp trực tiếp bán các sản phẩm của
mình ra thị trường nước ngoài không thông qua bất ki tổ chức trung gian nào. Nghĩa là
doanh nghiệp tự mình đảm nhiệm tất cả phân đoạn thị trường như làm thủ tục, chứng từ
xuất khẩu, vận tải cho đến hoạch định, triển khai kế hoạch marketing bao gồm giá, xúc
tiến, phân phối sản phẩm cho thị trường quốc tế. . .
b. Các hình thức xuất khẩu trực tiếp
Để thực hiện xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp cần có tổ chức trong nước
đảm nhận nghiệp vụ xuất khẩu và có kênh phân phối ở nước ngoài.
Tổ chức xuất khẩu ở trong nước của doanh nghiệp:
Bộ phận xuất khẩu: Bộ phận thực hiện chức năng xuất khẩu trực thuộc phòng
kinh doanh. Trong trường hợp này phòng kinh doanh sẽ gồm 2 bộ phận chính là bộ
phận kinh doanh trong nước và bộ phận xuất khẩu. Cơ cấu tổ chức này chỉ phù hợp với
doanh nghiệp mới xuất khẩu, có quy mô nhỏ, lượng hàng hóa hy vọng bán ở nước
ngoài vừa và nhỏ, triết lí quản trị không hướng tới việc kinh doanh ở hải ngoại; công ty
không thể có được những nguồn lực bổ sung hoặc nếu có thì lại thiếu những nguồn lực
then chốt chủ yếu. Như vậy mô hình này chỉ thích hợp với những doanh nghiệp ở
những giai đoạn đầu trong việc phát triển thị trường xuất khẩu trực tiếp.
Phòng xuất khẩu: khi lượng hàng bán ra nước ngoài liên tục tăng thì việc thành
lập một bộ phận chuyên cho hoạt động xuất khẩu là rất cần thiết. Phòng xuất khẩu riêng
biệt này là một tổ chức độc lập, trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu, từ tìm
kiếm thị trường, khách hàng cho đến tổ chức soạn thảo, chuẩn bị cho giám đốc ký kết
hợp đồng xuất khẩu và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Như vậy các hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ được tiến hành trên cơ sở toàn thời gian bởi các nhân
viên am hiểu đến việc xuất khẩu. Phòng xuất nhập khẩu này được cơ cấu tổ chức trên
cơ sở chức năng, khu vực địa lí, sản phẩm, khách hàng.
Công ty con (công ty chi nhánh xuất khẩu): Khi qui mô xuất khẩu lớn sẽ xuất

hiện các công ty con đảm nhiệm việc xuất khẩu trực thuộc công ty mẹ thường là các
tổng công ty). Các công ty con có quyền tự chủ nhất định theo phân cấp của công ty mẹ.
Cách tổ chức này tạo điều kiện cho các công ty con chủ động tìm kiếm khách hàng, thị
trường và thực hiện các đơn đặt hàng nước ngoài, tách kinh doanh xuất khẩu với kinh
doanh trong nước nên có thể đánh giá hiệu quả của kinh doanh xuất khẩu trong tổng thể
hoạt động kinh doanh của công ty
Kênh phân phối ở nước ngoài:
Chi nhánh bán hàng ở nước ngoài: Một nhà sản xuất có bộ phận xuất khẩu, nhưng
muốn đạt được khả năng kiểm soát chặt chẽ thị trường nước ngoài cụ thể của mình thì
công ty có thể tạo lập một chi nhánh bán hàng nước ngoài. Trong trường hợp này, chi
nhánh có điều kiện tiếp cận trực tiếp với thị trường nước ngoài, nhanh chóng nắm bắt
nhu cầu của khách hàng, tình hình thị tường và có điều kiện phục vụ tốt khách hàng
nước ngoài. Thường là có sẵn các nhà kho và các phương tiện kho bãi, như vậy chi
nhánh này tự nó có thể duy trì hàng hóa tồn kho, những phụ tùng thay thế, cung ứng
bảo trì, nghiệp vụ. Một chi nhánh nước ngoài có thể được phục vụ cho nhiều mục đích
khác nhau như dùng để trưng bày một phần hoặc tất cả các mặt hàng tức được dùng làm
công cụ Marketing và chiêu thị bán hàng; hoặc được sừ dụng như một dịch vụ trung
tâm.
Kho bán hàng nước ngoài: Một kho hàng nên được thiết lập khi nó cần thiết và
có lợi cho nhà sản xuất để duy trì lượng hàng hóa tồn kho ở những thị trường nước
ngoài. Những phương tiện này là một phần của chi nhánh bán hàng. Nếu liên kết được
như vậy, người mua có được thuận lợi hơn và một công cụ tiếp thị mạnh và đầy tiềm
năng được tạo ra trong đó một khối lượng kinh doanh lớn hơn có thể phát sinh ra hơn là
không có kho bãi. Cách tốt nhất là các kho bãi này nên được đặt trong một cảng tự do,
dễ dàng cho một nhà sản xuất phục vụ nhiều thị trường bởi vì không áp dụng thủ tục
hải quan thông thường và các luật lệ quốc gia nơi mà khu vực tự do được đặt.
Công ty con xuất khẩu: Các Tổng công ty hình thành công ty con xuất khẩu ở
những thị trường có tiềm năng xuất khẩu. So với chi nhánh, công ty con có quyền tự
chủ cao hơn trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng bán hàng. Tất cả những đơn hàng
nước ngoài được thông qua. kênh công ty con và sau đó công ty con bán cho những

người sản xuất nước ngoài với giá sỉ hay giá lẻ thông thường, công ty con ở nước ngoài
mua những sản phẩm được bán từ công ty mẹ theo giá chuyển giao. Những lý do để
chọn một quốc gia đặc biệt làm cơ sở cho công ty con xuất phát từ hai nguồn chính:
thuế và những nguyên tắc kinh doanh như sự liên kết tốt với ngân hàng, tình trạng chính
trị ổn định, những vấn đề khác như sự dễ đàng và đơn giản của việc thành lập công ty,
những giới hạn liên quan đến quyền sở hữu và hoạt động kinh doanh, sự có sẵn đầy đủ
những nhân viên địa phương và nhân viên văn phòng.
Đại lí bán hàng ở nước ngoài: là đại diện công ty ở thị trường nước ngoài, bán
hàng theo qui định của doanh nghiệp trong nước và được hưởng hoa hồng.
Nhà phân phối ở nước ngoài: là một thương buôn và do đó cũng chính là khách
hàng của nhà xuất khẩu, vì vậy nhà phân phối có quyền đối với hàng hóa của nhà xuất
khẩu, và thu nhập của nhà phân phối là phần chênh lệch về giá. Khi nhà xuất khẩu chọn
được nhà phân phối thì các bên kí hợp đồng. Vì vậy, đối với những nhà xuất khẩu mới
bước vào thị trường thì việc xuất khẩu cho các đại lý hay nhà phân phối độc quyền ở
nước ngoài thì thích hợp. Nhưng nhà xuất khẩu muốn đạt, được lợi nhuận cao hơn thì
phải thành lập một chi nhánh bản hoặc một công ty con.
1.1.3.3. So sánh ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp với hình thức
xuất khẩu gián tiếp.
a. Xuất khẩu trực tiếp
Ưu điểm:
• Thu được lợi nhuận nhiều hơn vì không phải thông qua trung gian và sẽ
thu được lợi nhuận cao nếu các doanh nghiệp hiểu rõ nhu cầu thị trường, thị
hiếu khách hang.
• Nâng cao sự kiểm soát của doanh nghiệp trên tấc cả mọi khía cạnh của
xuất khẩu như giá cả .khách hàng…..
• Việc kinh doanh sẽ trở nên hiệu quả hơn vì tiếp xúc trực tiếp với khách
hàng, biết khách hàng cần gì, từ đó có những nổ lực bán hàng tốt hơn và có
những hoạt động xúc tiến hiệu quả hơn.
• Cho phép công ty có sự liên hệ trực tiếp với thị trường ,nắm bắt được phản
ứng của thị trường để tìm những cơ hội mới và những xu hướng mới của thị

trường, quản lý các hoạt động, nắm bắt hiểu biết các đối thủ cạnh tranh để
điều chỉnh những kế hoạch thích ứng.
• Khi việc kinh doanh phát triển, doanh nghiệp sẽ linh động hơn trong việc
cải tiến, đổi mới, nâng cao hoạt động marketing.
Nhược điểm:
• Đòi hỏi chi phí cao và nguồn lực lớn để phát triển thị trường
• Nếu các doanh nghiệp ít am hiểu hoặc không nắm bắt kịp thong tin thị trường
thế giới và đối thủ cạnh tranh thì sẽ gặp rủi ro lớn.
• Phải chịu trách nhiệm nhiều hơn trong việc bán hàng, cũng như các vấn đề
liên quan đến dịch vụ khách hàng.
b. Xuất khẩu gián tiếp
Ưu điểm:
• Rủi ro thấp đối với hoạt động xuất khẩu thấp đặc biệt với khâu thanh toán.
• Cho phép công ty vẫn tiếp tục đầu tư phát triển thị trường nội địa.
• Chịu trách nhiệm giới hạn trước khách hàng về sản phẩm.
Nhược điểm:
• nhuận thấp hơn xuất khẩu trực tiếp.
• Kiểm soát được ở mức độ thấp toàn bộ cách thức hàng hóa và dịch vụ được
bán ở thị trường nước ngoài.
• Sản phẩm có thể được bán qua những kênh phân phối không thích hợp với
dịch vụ và nỗ lực bán hạn chế, xúc tiến không hiệu quả, giá bán hoặc quá cao
hoặc quá thấp.
• Không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng do không biết rõ về khách
hàng
• Thiếu sự liên hệ trực tiếp với thị trường từ đó mất đi những cơ hội tiềm năng
để khai thác mở rộng thị trường quốc tế.
Điều kiện áp dụng:
Xuất khẩu trực tiếp: hình thức này thích hợp với những doanh nghiệp thông
thạo nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu , có kinh nghiệm trên thương trường và nhãn
hiệu hàng hóa truyền thống của doanh nghiệp đã từng có mặt trên thị trường thế giới.

Xuất khẩu gián tiếp: sử sụng tại các cơ sơ sản xuất có quy mô nhỏ, chưa đủ
điều kiện sản xuất trực tiếp, chưa quen biết hị trường, khách hàng và chưa thông thạo
các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu.
 Như vậy đối với một doanh nghiệp lớn, có kinh nghiệm trên thương trường và nhãn
hiệu hàng hóa đã có mặt trên thị trường quốt tế thì xuất khẩu trực tiếp là phương thức
thích hợp để công ty tối đa hóa lợi nhuận và tối đa hóa sự kiểm soát của mình đối với
thị trường nước ngoài.
1.1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn loại hình xuất khẩu.
a. Môi trường kinh doanh:
Mỗi các quốc gia có một sự khác biệt về văn hóa, xã hội , điều kiện chính trị,
pháp luật ( thông qua thể chế , chủ trương chính sách của Chính Phủ) , về phong tục tập
quán , thói quen tiêu dung…Do đó, để sản phẩm của doanh nghiệp có thể thâm nhập
thành công ở những nước khác nhau, thì doanh nghiệp phải điều tra, xác định phương
thức thâm nhập sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của môi trường kinh doanh mỗi
quốc gia, phù hợp với bối cảnh thị trường mục tiêu.
b. Đặc điểm sản phẩm:
Tùy thuộc vào đặc điểm của sản phẩm mà doanh nghiệp chon kênh phân phối
cho thích hợp. Việc lựa chọn đó thường dựa vào dặc tính lý hóa của sản phẩm.

×