Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận thông tin bất cân xứng và giải pháp nâng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.59 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN...........................................................................3
1. Thông tin bất cân xứng:.................................................................................3
2. Thông tin không cân xứng ảnh hưởng đến các thị trường.............................5
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM.........................................7
1. Thị trường tài chính quốc tế và vấn đề thông tin không cân xứng trong hoạt
động tín dụng......................................................................................................7
2. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Việt Nam và vấn đề thông tin bất cân
xứng....................................................................................................................7
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ VẤN ĐỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG.....11
1. Hoàn thiện nâng cao hệ thống thông tin tín dụng.........................................11
2. Kiểm tra, giám sát vốn vay của các ngân hàng............................................18
3. Trích lập các quỹ dự phòng rủi ro................................................................19
KẾT LUẬN.........................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................21

1


LỜI MỞ ĐẦU
Những cuộc khủng hoảng tài chính luôn là vấn đề chung trong lịch sử hầu
hết các quốc gia. Các nhà phân tích cho rằng đa phần các cuộc khủng hoảng tài
chính nổ ra trong hệ thống các ngân hàng đều có thể tránh được nếu có sự minh
bạch và tính công khai. Sự phân tích kinh tế về các tác dụng của vấn đề lựa chọn
đối nghịch và rủi ro đạo đức có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn những cuộc khủng
hoảng tài chính – một sự đổ vỡ trầm trọng trong thị trường tài chính.
Vậy vấn đề đặt ra là thiếu sự minh bạch và thiếu tính công khai về thông
tin. Đó chính là vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính nói
chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Riêng đối với Việt Nam là một nước


đang phát triển, hàng loạt những vụ thất thoát hàng nghìn tỷ và những hành vi
lừa đảo, chiếm dụng tài sản của các ngân hàng thông qua hoạt động đầu tư và
cho vay cho thấy sự bất cân xứng thông tin trong hệ thống tài chính nước ta
đang gây những hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy việc khắc phục hiện tượng thông
tin bất cân xứng trong thị trường tài chính còn non kém là một vấn đề rất đáng
được quan tâm. Đây là nền tảng để chúng ta hoàn thiện thị trường tài chính ở
Việt Nam.
Từ những vấn đề trên, em đã lựa chọn tiểu luận: “Thông tin bất cân
xứng và giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng ngân hàng tại Việt Nam”
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi nhiều sai lầm. Em rất mong có
sự giúp đỡ và chỉ bảo của thầy cô giáo để bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

2


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Việt Nam cũng giống như nhiều nước châu Á khác, các ngân hàng chiếm
tỉ trọng cao trong thị trường tài chính. Hầu hết các giao dịch chủ yếu thực hiện
qua hệ thống ngân hàng mà hoạt động chính là cấp tín dụng.
Một vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là phải làm thế nào để tăng lợi nhuận
mà vẫn có sự an toàn cần thiết. Trong thực tế, nhiều ngân hàng không nắm được
khả năng sinh lời cũng như những rủi ro trong các dự án của những người đi
vay. Tại sao lại như vậy? Bởi vì họ thiếu thông tin.
Việc các ngân hàng thiếu những thông tin cần thiết để đưa ra các quyết
định sáng suốt dường như đang làm kinh ngạc những nhà đầu tư. Đây chính là
vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính cũng như trong hoạt
động tín dụng của các ngân hàng.
1. Thông tin bất cân xứng:
Trong những giao dịch diễn ra trên các thị trường tài chính, một bên

thường không đầy đủ các thông tin cần thiết về đối tác của mình để có những
quyết định đúng đắn. Sự không công bằng về thông tin mà mỗi bên có được gọi
là thông tin không cân xứng. Một người vay một món tiền thường có thông tin
tốt hơn về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà người đó tiến
hành so với người cho vay. Thông tin về đối tác bao gồm các thông tin về tiềm
lực tài chính của khách hàng cũng như khả năng sản xuất kinh doanh và khả
năng chống đỡ rủi ro.
Sự không cân xứng về thông tin là một nguồn gây ra rủi ro trong thị
trường tài chính. Các doanh nghiệp có nguồn thông tin “nội bộ” về các dự án
của họ với mức độ đáng tin cậy, người cho vay có thể giảm rủi ro bằng cách tăng
khả năng chọn lựa người vay hay dựa vào thông tin từ các tổ chức khác. Các
biện pháp làm tăng lượng thông tin cần cho người cho vay sẽ nâng cao khả năng
của bên cho vay trong việc xác định những người vay có cơ hội đầu tư tốt nhất
cũng như việc giám sát tránh những rủi ro đạo đức. Khi lượng thông tin nghèo
3


nàn, thì người cho vay chỉ có thể phân biệt đối tượng vay theo những điều kiện
rất chung và khả năng xảy ra các rủi ro là hoàn toàn có thể.
Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở hai
mặt: trước khi cuộc giao dịch diễn ra và sau khi cuộc giao dịch diễn ra.
1.1 . Lựa chọn đối nghịch
Rủi ro do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch
được gọi là vấn đề chọn lựa đối nghịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thị
trường tài chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục
không mong muốn (đối nghịch) - tức là rủi ro không trả được nợ - là những
người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều khả năng được lựa chọn nhất.
Việc các nhà đầu tư đã chọn sai đối tượng cho vay của mình vì không nắm
được đầy đủ thông tin về đối tượng khiến dễ có thể là các món cho vay được
thực hiện cho nhưng trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay

có thể quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được
nợ.
Nếu người cho vay biết rõ về những người đi vay, tức là thông tin không
phải là không cân xứng thì người cho vay sẽ không khó khăn gì trong việc cho
người này hay người kia vay. Do sự lựa chọn đối nghịch, người cho vay có thể
rút lại quyết định cho vay tuy rằng đó có thể là một khoản đầu tư có giá trị. Hoặc
để bù đắp rủi ro, người cho vay có thể tăng lãi suất vay. Nhưng việc này phần
nào tự gây tác hại vì nhiều người đi vay đáng tin cậy có thể quyết định không
vay nữa và chỉ còn lại những người kém tin cậy hơn.
1.2. Rủi ro đạo đức
Khi người đi vay phải vay với lãi suất cao, để bù đắp chi phí, khách hàng
sẽ chấp nhận những dự án rủi ro hơn. Đây là vấn đề rủi ro đạo đức.
Rủi ro đạo đức là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc
giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính xảy ra khi người
cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động

4


không tốt (hành vi thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì
những hoạt động này khiến ít có khả năng món vay này sẽ được hoàn trả.
Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay
có thể quyết định thôi không cho vay. Những hành vi thiếu đạo đức này có thể là
người đi vay tạo ra những chứng cứ giả để có thể vay đưóc tiền từ người cho
vay. Những người đi vay tự tạo ra các công ty “ma” thực hiện các cuộc giao dịch
để thanh tiêu các khoản vay. Đây là hành vi cố ý lừa đảo. Hoặc người đi vay cố
tình chiếm đoạt một khoản vốn của người cho vay. Khi người đi vay có thể hoạt
động kinh doanh có lợi nhuận song không muốn trả lại tiền cho các nhà đầu tư
hay ngân hàng... Có khi người đi vay có thể sử dụng vốn vay vào các mục đích
sai mục đích khi vay vốn. Trường hợp này xảy ra khi chủ đầu tư không có sự

giám sát chặt chẽ đối với hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp.
2. Thông tin không cân xứng ảnh hưởng đến các thị trường
Để có thể hiểu rõ hơn về khái niệm thông tin không cân xứng, lựa chọn
đối nghịch và rủi ro đạo đức, chúng ta có thể đi vào một thị trường đặc trưng.
Mô tả đặc điểm riêng của vấn đề lựa chọn đối nghịch và việc lựa chọn đối
nghịch gây trở ngại như thế nào cho sự hoạt động hữu hiệu của một thị trường,
hãy xem xét thị trường xe máy cũ. Giả sử một người muốn mua một xe máy đã
qua sử dụng thì không thể tự đánh giá chất lượng của cái xe này. Do đó cái giá
mà người mua phải trả phản ánh chất lượng trung bình của những chiếc xe trong
thị trường đó. Người sở hữu xe là người biết rõ nhất về chất lượng chiếc xe này.
Nếu chiếc xe này quá tồi thì người chủ sẽ vô cùng sung sướng bán với giá mà
người mua định trả. Tuy nhiên, nếu đó là một cái xe đang tốt, người chủ của nó
biết chắc chiếc xe của ông ta bị đánh giá thấp, nên ông ta không muốn bán nó.
Hậu quả của việc lựa chọn đối nghịch này là có rất ít xe đã qua sử dụng nhưng
chất lượng còn tốt xuất hiện ở thị trường này. Thị trường xe máy cũ do đó sẽ
hoạt động và trên thực tế là không hoạt động.
Như vậy hiện tượng lựa chọn bất lợi đã cản trở việc giao dịch trên cơ sở
hai bên cùng có lợi. Trở lại với thị trường tài chính, mà cụ thể là hoạt động tín
5


dụng của ngân hàng, các ngân hàng luôn là người có ít thông tin hơn về dự án,
về mục đích sử dụng về khoản tín dụng cấp cho khách hàng. Điều này dẫn đến
trường hợp ngân hàng cho các doanh nghiệp sắp phá sản vay và phải đối mặt với
những khoản nợ khó đòi.
Vấn đề rủi ro đạo đức nảy sinh khi có sự tách biệt giữa người sở hữu vốn
và người sử dụng vốn, mà trong trường hợp này, các ngân hàng thương mại
đóng vai trò là người sở hữu vốn còn các doanh nghiệp là người sử dụng vốn.
Do hợp đồng nợ chỉ đòi hỏi người vay phải trả một số tiền nhất định và cho phép
họ hưởng bất cứ lợi nhuận nào còn lại, những người vay này có ý muốn nhận

những dự án đầu tư có nhiều rủi ro hơn so với những người cho vay muốn, và ở
đây, những ngân hàng thương mại sẽ là người phải chịu những rủi ro đạo đức
này.

6


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM
1. Thị trường tài chính quốc tế và vấn đề thông tin không cân xứng
trong hoạt động tín dụng
Sau nhiều cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế nổ ra trên thế giới mà gần
đây nhất là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008, người ta mới thực sự đánh giá
được những hậu quả nghiêm trọng do vấn đề thông tin không cân xứng gây ra.
Với sự ra đời của các doanh nghiệp có sự tham gia vốn của công chúng và
tính hữu hạn về trách nhiệm, việc chuẩn hóa thông tin đã trở nên tối quan trọng
– vấn đề này được mọi người nhận thức trong suốt những năm 1930 khi những
nhà đầu tư nhỏ bị mất những khoản tiết kiệm của mình do đã quá tin tưởng vào
những báo cáo tài chính không chính xác. Đây chỉ là một trong vô số những hậu
quả do vấn đề thông tin không cân xứng gây ra.
Cuộc khủng hoảng gần đây nhất là cuộc khủng hoảng 2008, mở đầu bằng
việc các ngân hàng lớn ở Mỹ bị phá sản. Rất nhiều nguyên nhân và đánh giá
được đưa ra dựa trên những bài học từ cuộc đại khủng hoảng 1930 nhưng
nguyên nhân sâu xa chính là sự bất cân xứng trong thông tin. Do những nghĩa vụ
về tài chính không được đảm bảo một cách đầy đủ, việc giám sát và thông tin là
những yếu tố tối quan trọng. Đây là thời điểm mà nhiều ngân hàng đang lên
tiếng đấu tranh cho sự cấp thiết phải có những thông tin tổng quát về tổ chức của
chính họ. Vấn đề thông tin không cân xứng vẫn đang cần những giải pháp thiết
thực khác.
2. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Việt Nam và vấn đề thông tin

bất cân xứng
2.1. Đặc điểm thị trường tài chính Việt Nam
Hoạt động tín dụng là một loại hoạt động kinh tế gắn liền với sự thăng
trầm của nền kinh tế. Vì vậy khi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp rủi

7


ro tất yếu sẽ dẫn đến rủi ro đối với các tổ chức tín dụng cấp vốn cho các doanh
nghiệp.
Đối với một thị trường tài chính còn khá non nớt và chưa hình thành đầy
đủ, Việt Nam một mặt cho phép phát triển một thị trường tự do, một mặt vấn cần
sự định hướng, hỗ trợ từ nhà nước. Trong những năm gần đây, Việt Nam đang cố
gắng hoàn thiện thị trường tài chính bằng việc tăng cường phát triển thị trường
nợ và thị trường vốn cổ phần. Bên cạnh đó, chúng ta còn đang hoàn thiện và
tăng cường phát triển thị trường chứng khoán.
Đến nay một trong các hoạt động chủ yếu trong thị trường tài chính vẫn là
lĩnh vực cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp.
2.2. Vấn đề thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng tại Việt
Nam
Trong thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng làm ăn có lãi hay nói
cách khác là doanh nghiệp gặp rủi ro và điều này dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông
tin bất cân xứng xảy ra tức là khi các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng
không nắm được tình hình phát triển và làm ăn của doanh nghiệp và đó là một
trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong thị trường tài chính.
Có thể nói, việc thu nhận các thông tin về khách hàng hiện nay ở các ngân
hàng, tổ chức tín dụng còn rất ít được quan tâm, nhất là thông tin của khách
hàng sau khi đã được vay vốn. Đây chính là một trong những rủi ro đạo đức
trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam. Vì thế cho đến khi ngân hàng phát hiện
ra tình trạng tài chính của khách hàng có vấn đề thì tình huống trở nên rất khó

khăn. Sự hiểu biết lẫn nhau giữa khách hàng và ngân hàng không được coi là
yếu tố đảm bảo cho việc vay an toàn đang phổ biến hiện nay.
Vấn đề thứ hai là các ngân hàng, tổ chức tín dụng ít am hiểu các thị
trường sản phẩm, dịch vụ khi cho vay để sản xuất hoặc cung cấp một dịch vụ thì
trước hết cán bộ hoặc người có thẩm quyết định cho vay phải xác định liệu sản
phẩm hoặc dịch vụ sản xuất ra có được thị trường chấp nhận không và nếu có thì
ở mức giá nào. Việc cho vay không đánh giá được khả năng tiêu thụ sản phẩm,
8


dịch vụ tạo ra từ vốn vay là nguyên nhân quan trọng dẫn đến các rủi ro hiện nay.
Khi xác định được sản phẩm dịch vụ sản xuất ra được thị trường chấp nhận thì
lúc đó quyết định cho vay mới được đưa ra còn ngược lại thì không có quyết
định nào cả.
Về lựa chọn đối nghịch – vấn đề lựa chọn sai đối tượng cho vay thường
xuyên xảy ra đối với các ngân hàng và các trung gian tài chính mà đặc biệt là
các tổ chức tín dụng. Khi các doanh nghiệp cố ý lừa đảo chiếm dụng vốn, các
ngân hàng không nắm được đầy đủ thông tin về khách hàng và đã bị qua mặt
trong việc kiểm tra giám sát cũng như thẩm định giá trị tài sản.
2.3. Thực trạng về phía khách hàng
Trong thời gian qua ở nước ta đã và đang tồn tại một thực tế là các doanh
nghiệp hoạt động với quy mô lớn song lại tách rời khả năng vốn tự có của chính
bản thân mình. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng
thua lỗ. Từ thực trạng tài chính của các doanh nghiệp đã nảy sinh tình trạng tỷ lệ
vay vốn của các doanh nghiệp cao hơn gấp nhiều lần so với vốn tự có. Điều này
sẽ gây rủi ro cho các ngân hàng thương mại. Công tác quản lý của nhà nước còn
nhiều sơ hở tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp, cá nhân hình thành công ty
ma chuyên đi lừa đảo.
2.4. Thực trạng về phía các ngân hàng thương mại
Trên các thị trường tài chính không chính thức, thông tin được thu thập

như một sản phẩm phụ thông qua hoạt động của người cho vay - ví dụ thông qua
việc kinh doanh của người cho vay với khách hàng vay. Đối với các tố chức có
quy mô lớn đòi hỏi phải có các công cụ giám sát chính thống để vừa phục vụ
cho công tác kiểm soát hoạt động của các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp và
để báo cáo cho các đối tượng bên ngoài, những người có mối quan tâm hợp pháp
đến hoạt động của doanh nghiệp. Các công cụ này chính là kế toán quản lý và kế
toán tài chính.
Các ngân hàng thương mại thường cho rằng những doanh nghiệp quen
thuộc không cần giám sát chặt chẽ và giải quyết cho vay dựa vào những thông
9


tin do các doanh nghiệp đó cung cấp thay cho những số liệu tài chính đáng tin
cậy.
Các ngân hàng thương mại đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc
doanh do hoạt động tín dụng còn mang yếu tố bao cấp nên chưa có cơ chế thích
hợp trong việc thẩm định và xét duyệt cho vay, cũng như xử lí rủi ro trong hoạt
động tín dụng. Tính khả thi của dự án cũng như hiệu quả của khoản vay chưa trở
thành mục tiêu tôn chỉ trong hoạt động tín dụng của nhiều ngân hàng.
Hệ thống kiểm soát chưa phát huy được tác dụng của nó. Do đó, thường
sau khi cho vay, các ngân hàng yên tâm với tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
mà thiếu sự giám sát chặt chẽ đối với các khoản đã cho vay, trong khi tài sản thế
chấp, bảo lãnh, cần cố có thể bị sai lệch về mặt giá trị.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm đúng mức và thực tế có
một số cán bộ tín dụng của ngân hàng thương mại hiện nay thiếu năng lực về
phân tích và xử lý thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát các khoản vay, thậm
chí còn có trường hợp cán bộ tín dụng làm sai quy trình tín dụng.
Sự hợp tác giữa ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng
(CIC) không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí một số ngân hàng
thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm CIC và dẫn

đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng là rất
khó khăn. Chính vì vậy ngân hàng khó giám sát khách hàng về việc họ sử dụng
khoản vay có đúng mục đích hay không. Đó cũng là vấn đề rủi ro đạo đức và
cũng là lựa chọn đối nghịch đối với các ngân hàng.

10


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ VẤN ĐỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
1. Hoàn thiện nâng cao hệ thống thông tin tín dụng
1.1. Thực trạng, nhược điểm của hệ thống thông tin tín dụng CIC
Nhằm mục đích giúp các tổ chức tín dụng phòng ngừa và hạn chế được
những rủi ro trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho
ra đời hệ thống thông tin tín dụng CIC để phục vụ việc thu thập và cung cấp
thông tin về các doanh nghiệp cho các tổ chức tín dụng. Sau nhiều năm hoạt
động, hệ thống CIC đã làm được nhiều việc, nhưng phải thừa nhận chất lượng
thông tin chưa cao, chưa thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy cho các ngân hàng
thương mại.
Thứ nhất, hệ thống CIC tuy được tổ chức rộng khắp trong cả nước nhưng
nó không phải là một tổ chức riêng biệt. Do có nhiều cấp chỉ đạo và lãnh đạo
khác nhau dẫn đến hiệu lực chỉ đạo điều hành sẽ không thống nhất, bộ máy cồng
kềnh, kém hiệu quả không phát huy được tính chủ động trong công việc. Kết
quả cuối cùng số liệu bị phân tán, không đầy đủ, đặc biệt khi có sự mất đồng bộ
trong hệ thống thông tin.
Thứ hai, số liệu của trung tâm hoặc bộ phận CIC các tỉnh, thành phố, khi
truyền đến CIC trung ương thì lại được truyền qua trung gian là trung tâm tin
học ngân hàng, không có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra dữ liệu. Vì vậy cũng
làm cho số liệu không đầy đủ, kịp thời và mất an toàn.
Con người làm ở công tác này cũng mang tính tạm thời, kiêm nhiệm dẫn
đến tình trạng chán nản, thụ động, không quan tâm đến công việc.

1.2. Hoàn thiện nhược điểm, nâng cao hoạt động của hệ thống thông
tin tín dụng
Với các thực trạng như trên, để trung tâm CIC thực sự trở thành chỗ dựa
đáng tin cậy cho các ngân hàng và doanh nghiệp, cần phải thống nhất những tư
tưởng chung về công tác này như sau:

11


Công tác thông tin tín dụng là một công việc dịch vụ về thông tin cho các
ngân hàng và doanh nghiệp. Vì vậy công tác thông tin tín dụng phải có chức
năng kinh doanh về tin, mọi việc thu thập cung ứng thông tin phải được dựa trên
quan hệ mua bán.
Công tác thông tin tín dụng phải có bộ máy lao động riêng, hoạt động của
nó không nhằm mục tiêu sinh lời, chịu sự chỉ đạo và quản lý của Ngân hàng Nhà
nước trung ương.
Từ những suy nghĩ như trên, qua tham khảo kinh nghiệm của một số
nước. gắn với đặc thù riêng có của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam,
để khắc phục những thiếu sót và tồn tại hiện nay, nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động, chúng ta có thể thay đổi mô hình hoạt động của trung tâm CIC như sau:
CIC Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc ngân hàng Nhà
nước Việt Nam để cung cấp các sản phẩm thông tin chuyên dung phục vụ hoạt
động ngân hàng. Hoạt động của trung tâm không nhằm mục tiêu sinh lời, trung
tâm được bố trí gọn nhẹ không rải đều ra các tỉnh, thành phố hiện nay. Các chi
nhánh CIC ở các thành phố trung tâm là nơi trực tiếp thu nhận, xử lí, và cung
cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng trong nước. Các chi nhánh này trực tiếp
nhận sự chỉ đạo của CIC trung ương.
1.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
Hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước Việt Nam bao gồm

hệ thống thông tin tín dụng của Nhà nước và phòng thông tin tín dụng của các
ngân hàng thương mại, hình thành và đi vào hoạt động được gần 20 năm, bước
đầu thu được những kết quả đáng phấn khởi.
Hệ thống này đã bổ sung thêm một kênh giúp các ngân hàng thương mại
đối phó với vấn đề thông tin không cân xứng, từ đó góp phần ngăn ngừa, hạn
chế rủi ro tín dụng. Tuy nhiên thông tin tín dụng mà trung tâm thông tin tín dụng
của ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại cung cấp vẫn chưa đáp

12


ứng được cả về số lượng và chất lượng, thiếu tin cậy. Đó là một trong những
nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Vì vậy, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thông tin tín dụng của hệ
thống ngân hàng đang là một đòi hỏi cấp thiết trên cả phương diện lí luận và
thực tiễn. Sau đây là một số giải pháp nâng cao hoạt động của hệ thống thông tin
tín dụng ngân hành Việt Nam:
1.3.1. Nâng cao chức năng của hệ thống thông tin tín dụng
Cung cấp thông tin tín dụng cho ngân hàng Nhà nước phục vụ cho việc
thực hiện tốt chức năng hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, góp
phần ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam và chức năng quản lý của ngân hàng
Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam.
Cung cấp thông tin tín dụng cho các ngân hàng nhằm làm lành mạnh hóa
các quan hệ tiền tệ tín dụng giữa các doanh nghiệp và các ngân hàng góp phần
đảm bảo an toàn và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trong hệ thống nền
kinh tế.
1.3.2. Nhiệm vụ của hệ thống thông tin tín dụng
Thứ nhất là thu thập thông tin, tổ chức và tiến hành thu thập thông tin về
các doanh nghiệp, các thông tin khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ từ các ngân hàng, các cơ quan hữu quan, các doanh nghiệp, các cơ

quan thông tin trong nước theo các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
và của ngành.
Hợp tác với các cơ quan thông tin nước ngoài để thu thập, trao đổi thông
tin để phục vụ cho hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng Việt Nam.
Thứ hai là phải lưu trữ, xử lý và phân tích thông tin: Trên cơ sở thông tin
đã thu thập được tiến hành xử lý, phân tích thông tin, đưa ra bản báo cáo thông
tin doanh nghiệp, danh sách xếp loại doanh nghiệp có quan hệ tại các ngân hàng,
các báo cáo, dự bảo có liên quan đến hoạt động tín dụng từng thời kì.
Tổ chức lưu trữ, xây dựng kho dữ liệu thông tin về doanh nghiệp và các
thông tin khác có liên quan đến hoạt động tín dụng.
13


Thứ ba là phục vụ thông tin: Cung cấp thông tin phục vụ ngân hàng Nhà
nước, các cơ quan hữu quan và các loại dịch vụ thông tin tín dụng đáp ứng nhu
cầu của các ngân hàng trong và ngoài nước.
Thứ tư là phải nên phục vụ các nhiệm vụ khác cho khách hàng như đào
tạo, hướng dẫn nghiệp vụ thông tin tín dụng, lập trình phần mềm thông tín tín
dụng, phân tích tình hình hoạt động doanh nghiệp….
1.3.3. Giải pháp về mô hình tổ chức
Trung tâm thông tin tín dụng được thành lập năm 1999 dưới sự chỉ đạo
của thống đốc ngân hàng Nhà nước, trên cơ sở tổ chức lại trung tâm thông tin tín
dụng thuộc Vụ tín dụng. Trung tâm thông tin tín dụng có chức năng làm đầu mối
và chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ thông tin tín dụng trong toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Đồng thời phải củng cố lại các trung tâm, bộ phận CIC hiện có tại các
ngân hàng Nhà nước để thực hiện việc thu thập và cung cấp thông tin cho các
ngân hàng, chi nhánh ngân hàng trên địa bàn.
Về phía các ngân hàng, tại trung tâm điều hành phải thành lập phòng
thông tin tín dụng, hoặc phòng thông tin phòng ngừa rủi ro. Để triển khai hoạt
động thông tin tín dụng trong từng hệ thống ngân hàng thương mại, tại các chi

nhánh tổ chức tín dụng cũng phải có cán bộ chuyên trách để phối hợp thu thập
và cung cấp thông tin.
1.3.4. Nâng cao chất lượng cán bộ và đào tạo cán bộ
Yêu cầu đối với cán bộ chuyên trách là về công tác thông tin tín dụng, kể
cả tại ngân hàng Nhà nước và tại các chi nhánh trung tâm các ngân hàng là: cần
phải có trình độ đại học về ngân hàng, tài chính hoặc kinh tế, phải sử dụng thành
thạo máy vi tính và ít nhất một ngoại ngữ. Các cán bộ đó phải được tập huấn để
sử dụng thành thạo chương trình phần mềm CIC, biết cách thu thập, khai thác
thông tin, biết phân tích, đánh giá về doanh nghiệp.
Ngoài ra, các cán bộ CIC cần phải có thu nhập trung bình so với mặt bằng
chung của ngành, có chế độ thích hợp khi đi thu thập thông tin. Cần phải có chế
độ quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ CIC, được phép kiểm tra, đối
14


chiếu số liệu để thu thập thông tin tại các ngân hàng. Nếu để chế độ quá thấp sẽ
có tác dụng xấu đến chất lượng hoạt động thông tin tín dụng do cán bộ chán nản,
không tận tình với công việc, thậm chí còn có thể sinh ra tiêu cực, lợi dụng cho
cá nhân, không đảm bảo an toàn, an ninh cho thông tin.
1.3.5. Về xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động thông tin tín dụng
Cần xây dựng đồng bộ, đầy đủ các văn bản pháp quy, về hoạt động thông
tin tín dụng trong hệ thống ngân hàng, như quy chế về tổ chức và hoạt động của
trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng Nhà nước, quy chế về tổ chức và hoạt
động nghiệp vụ thông tin tín dụng của ngân hàng, hướng dẫn về tổ chức và hoạt
động thông tin tín dụng tại các ngân hàng…
1.3.6. Người sử dụng tin và mối quan hệ với CIC
Người sử dụng tin chủ yếu là các ngân hàng: Các ngân hàng vừa là nguồn
cũng cấp thông tin quan trọng, vừa là người sử dụng thông tin của CIC nên cần
thiết lập mối quan hệ thành viên bắt buộc. Ngân hàng nhà nước cần quy định tất
cả các ngân hàng thương mại phải là thành viên CIC, coi đây là yếu tố trách

nhiệm, bắt buộc khi đăng kí hoạt động dưới tư cách một tổ chức tín dụng.
Người sử dụng thông tin là doanh nghiệp Việt Nam: Không nên để doanh
nghiệp thành viên CIC như trước, mà chỉ là khách hàng mua tin, quan hệ bạn
hàng, chỉ được tra cứu những thông tin nhất định và phải trả phí sử dụng thông
tin.
Các cơ quan nhà nước quản lý doanh nghiệp: là đối tượng phục vụ đặc
biệt quan hệ thông tin theo quy định của pháp luật. Các cơ quan này vừa là
nguồn cung cấp, vừa là người sử dụng thông tin, nên quan hệ trên cơ sở trao đổi
thông tin giữa các cơ quan chính phủ.
Các cơ quan thông tin trong và ngoài nước: là khách hàng mua tin, quan
hệ bạn hàng, có thể mối quan hệ hai chiều trên cơ sở thỏa thuận hoặc kí hợp
đồng (cam kết) trao đổi thông tin hai chiều với trung tâm CIC.
1.3.7. Thu thập thông tin

15


Nguồn thu thập thông tin: Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm về việc thu
thập thông tin để hạn chế những khó khăn về phía nguồn thông tin, có thể mở
rộng nguồn thu thập tin tới các cơ quan có thể khai thác được thông tin theo quy
định của pháp luật trên cơ sở quan hệ hai chiều, chú trọng nguồn thông tin từ
thông tin đại chúng.
Đồng thời mở rộng nguồn thu thập thông tin nước ngoài, cần tiếp cận
được với một số cơ quan thông tin tín dụng lớn, đặc biệt cần tham gia thành viên
và trao đổi thông tin với diễn đàn thông tin tín dụng ASEAN, Hiệp hội thông tin
tín dụng châu Á, các cơ quan xếp hạn tín dụng trong khu vực.
Phương pháp thu thập thông tin: Trước đây, định hướng chủ yếu của trung
tâm CIC là thu thập thông tin thông qua tổ chức tín dụng. Để đáp ứng yêu cầu
của việc đổi mới phương pháp thu thập thông tin, từ một số phương pháp thu
thập thông tin của nước ngoài, đồng thời từ kinh nghiệm thực tiễn, có thêm đề

xuất từ một số phương pháp thu thập thông tin đối với hệ thống thông tin tín
dụng:
Phương pháp thu tin qua mạng máy tính nối với các ngân hàng.
Phương pháp thu tin từ các biểu báo cáo.
Thu tin qua đường công văn từ các cơ quan nhà nước quản lý doanh
nghiệp trên cơ sở quan hệ giữa các ngân hàng và các bộ, ban ngành hữu quan.
Phương pháp thu thập thông tin trực tiếp từ doanh nghiệp: CIC trực tiếp
gặp gỡ để phỏng vấn lãnh đạo doanh nghiệp hoặc có thể liên lạc qua điện thoại,
fax để chuyển đến doanh nghiệp một mẫu thu thập thông tin và đề nghị doanh
nghiệp gửi về CIC các thông tin dưới dạng văn bản.
Phương pháp thu thập thông tin từ các cơ quan thông tin báo chí: đây là
phương pháp đơn giản nhưng rất hữu hiệu, thông tin có nguồn gốc xác thực, đa
dạng phong phú.
Phương pháp thu thập thông tin qua mạng thông tin điện tử như mạng
Internet, mạng trí tuệ Việt Nam của FPT-Vinanet, mạng Netnam, mạng 3C…

16


Nội dung thu thập thông tin: Theo đề xuất mới về việc mở rộng nguồn thu
thập thông tin thì nội dung thu thập thông tin phải phong phú đa dạng hơn. Một
số điểm cần chú trọng trong nội dung thu thập thông tin về doanh nghiệp như
sau: Về loại hình sở hữu của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh
nghiệp, người điều hành doanh nghiệp, cách thức quản lý của doanh nghiệp,
ngành hoạt động của doanh nghiệp, vị trí doanh nghiệp trên thị trường, sản phẩm
của doanh nghiệp, tình hình tài sản thế chấp của doanh nghiệp, mối quan hệ của
doanh nghiệp với doanh nghiệp khác.
Phạm vi thu thập thông tin: Đối với doanh nghiệp, phạm vi thu thập thông
tin là toàn bộ doanh nghiệp của Việt Nam, hợp tác xã…
Về cá nhân kinh doanh, phạm vi thu thập thông tin là về các cá nhân kinh

doanh có mức dư nợ hơn 100 triệu đồng tại một ngân hàng.
1.3.8. Giải pháp đối với khâu xử lý thông tin
Phân tích chất lượng tín dụng: Tại trung tâm CIC, việc phân tích chất
lượng hoạt động tín dụng nên tiến hành theo các tiêu thức khác nhau:
Một là phân loại nợ theo tổng dư nợ tiền Việt Nam và ngoại tệ của toàn hệ
thống ngân hàng đối với nền kinh tế, trong đó phân loại dư nợ thành 4 nhóm
theo chế độ hiện hành
Hai là phân loại dư nợ theo các tiêu thức trên đối với từng tổ chức tín
dụng.
Ba là phân loại dư nợ theo các tiêu thức trên đối với từng tỉnh, thành phố.
Bốn là phân loại dư nợ theo các tiêu thức trên đối với các ngành kinh tế,
thành phần kinh tế.
Năm là phân loại dư nợ theo từng thời hạn nợ: ngắn hạn, trung hạn, dài
hạn và nợ khác trong toàn hệ thống, từng ngân hàng và theo lãnh thổ, ngành
kinh tế, thành phần kinh tế.
Phân tích, xếp loại doanh nghiệp: Đối với thông tin tín dụng Việt Nam thì
việc phân tích, xếp loại doanh nghiệp trước hết phải vì mục đích phục vụ cho
hoạt động tín dụng. Vì vậy đối với trung tâm CIC, phương án xếp loại doanh
17


nghiệp có quan hệ tại các tổ chức tín dụng như sau: Việc đánh giá, xếp loại một
doanh nghiệp, sẽ được dựa vào bốn nhóm tiêu thức: Quy mô doanh nghiệp, khả
năng thanh toán, quan hệ tín dụng, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.3.9. Cung cấp thông tin ra
Về thông tin doanh nghiệp trong nước: thứ nhất hiện nay đang có 8 biểu
thông tin về doanh nghiệp, như vậy tương đối rườm rà, có thể ghép thành 4 biểu
như sau: Thông tin về hồ sơ pháp lý doanh nghiệp, thông tin về tình hình phi tài
chính và thông tin về quan hệ tín dụng.
Thứ hai là thông tin về cá nhân kinh doanh có quan hệ tín dụng.

Thứ ba nên phát hành định kì hàng tháng bản tin CIC để đảm bảo thông
tin cập nhật và nội dung cải tiến.
Về phạm vi cung cấp thông tin ra: Được phép cung cấp công khai các
thông tin về doanh nghiệp, đối với các thông tin mật chỉ được cung cấp số tương
đối.
1.3.10. Áp dụng kĩ thuật tin học
Chương trình phần mềm CIC phải được xây dựng để đảm bảo một số yêu
cầu: thích hợp công nghệ mới tiên tiến, thuận tiện trong việc truyền tin và phù
hợp với các thiết bị hiện có tại Việt Nam, có khả năng bảo mật cao…
2. Kiểm tra, giám sát vốn vay của các ngân hàng
Kiểm tra, giám sát vốn vay của khách hàng phải đảm bảo được mức độ tín
nhiệm của khách hàng vay vốn. Có nhiều cách đánh giá, nhưng cách đánh giá
chung nhất là cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin về khách hàng và đánh giá
xem khách hàng là người vay tốt đến mức nào và dự báo khách hàng đó có thể
có khó khăn khi thanh toán món tiền vay hay không bằng cách giám sát các hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng để biết họ có tuân theo những quy
định trong hợp đồng tín dụng hay không nhằm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy đến
với các ngân hàng cho vay.
Nếu khách hàng vay tiền đã có tài khoản tiền gửi hoặc tiền vay qua một
thời gian dài, cán bộ tín dụng có thể nhìn vào hoạt động quá khứ đối với các tài
18


khoản đó sẽ biết được nhiều thông tin về khách hàng đó. Số dư tài khoản tiền
gửi tại ngân hàng cho biết hoạt động của khách hàng tiềm tàng đến mức nào và
vào lúc nào trong năm, người đó rất cần tiền mặt. Việc xem lại những tấm sec
mà khách hàng vay viết cho biết những người nào đã cung cấp cho khách hàng
này.
Quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng như vậy sẽ làm lợi cho cả 2 bên.
Ngân hàng tốn ít thời gian hơn cho việc giám sát, còn khách hàng tránh được

những hoạt động rủi ro để không ảnh hưởng đến ngân hàng. Mối quan hệ trên có
thể giúp cho ngân hàng có thể đối phó với sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà ngay cả
ngân hàng cũng không lường trước được ban đầu. Do vậy cần tạo lập được chiến
lược khách hàng đa dạng, lâu dài trên cơ sở giữ trọn chữ tín và sự thỏa mãn đối
với khách hàng vay cũng như gửi tiền.
Muốn vậy ngân hàng phải luôn củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động
của mình, đồng thời luôn sâu sát tìm hiểu khách hàng để có phương hướng phục
vụ thích hợp. Đây là cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát vốn vay của khách hàng
một cách tốt nhất.
3. Trích lập các quỹ dự phòng rủi ro
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro, trong đó rủi
ro do thông tin không cân xứng có thể có ở mọi lúc, mọi nơi. Nó không hoàn
toàn phụ thuộc vào mức độ kiểm soát của ngân hàng nhưng lại chịu sự chi phối
của các yếu tố khách quan. Vì vậy, nên chăng khi chúng ta thiết lập các quỹ với
một cơ chế trích lập dự phòng rủi ro khả thi trong điều kiện của nền kinh tế nước
ta hiện nay. Cơ chế tính phí dự phòng rủi ro vào ngay trong lãi suất cho vay của
khách hàng.

19


KẾT LUẬN
Thông tin là một vấn đề rất rộng, nó có thể bao gộp mọi vấn đề trong xã
hội. Đứng trên góc độ kinh tế học, có thể nói, thông tin chiếm 70% sự thành
công của một nền kinh tế. Phân tích vấn đề thông tin không cân xứng chính là
làm rõ vai trò của thông tin trong nền kinh tế. Chính vì vậy, việc khắc phục tình
trạng thông tin không cân xứng trong hoạt động tín dụng ngân hàng luôn cần
phải có những giải pháp tối ưu hơn.
Đối với Việt Nam, một nước đi sau các nước phát triển, theo xu hướng hội
nhập và phát triển toàn cầu hóa, việc hoàn thiện thị trường tài chính nói chung

và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng đặt ra nhiều nhu cầu về thông tin. Tuy
nhiên đây là một vấn đề còn khá mới mẻ đối với hệ thống tài chính nước ta.
Hướng đến một nền kinh tế lành mạnh và phát triển sôi động theo kịp các nước
trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đang khắc phục các điểm yếu của
mình, trong đó vấn đề thông tin không cân xứng đang từng bước bị đẩy lùi cùng
sự phát triển của thế giới.
Giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng không chỉ phục vụ cho sự
phát triển của một quốc gia mà còn góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển của cả
thế giới trong kỉ nguyên thông tin và nền kinh tế tri thức ngày nay.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế học Vi mô nâng cao, Viện Kinh tế - Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Website Tạp chí tài chính.
3. Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. Website Tạp chí Ngân hàng.

21



×