Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Mối quan hệ giữa lạm phát với thất nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.55 KB, 4 trang )

Mối quan hệ giữa lạm phát với thất nghiệp
và thực tế nghiên cứu tại
Việt Nam
Nghiên cứu trình bày về mối quan hệ giữa lạm phát với thất nghiệp theo quan điểm của
các nhà kinh tế học, từ đó chỉ ra mối quan hệ giữa lạm phát với thất nghiệp của Việt Nam
trong giai đoạn từ sau khủng hoảng kinh tế 2008 đến nay bằng phương pháp hồi quy đơn
biến. Kết quả cho thấy, nếu không tính đến yếu tố lạm phát kỳ vọng, giữa thất nghiệp và
lạm phát không hề có mối quan hệ đánh đổi. Càng về xa thời điểm khủng hoảng kinh tế
năm 2008, khi nền kinh tế ổn định dần sau suy thoái, thất nghiệp có xu hướng giảm và
trở về gần với mức thất nghiệp tự nhiên, còn lạm phát tuy có xu hướng giảm sau nhiều nỗ
lực kiểm soát của Chính phủ nhưng vẫn diễn biến khá phức tạp.

1. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Lạm phát và thất nghiệp là những vấn đề vĩ mô được dân chúng và Chính phủ các
nước quan tâm hàng đầu vì những ảnh hưởng trực tiếp, to lớn đến đời sống người dân và
sự ổn định của nền kinh tế. Cho đến nay, có nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu và đưa
ra nhiều ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp để có những chính
sách điều tiết vĩ mô hợp lý nhằm tác động để điều chỉnh mức thất nghiệp và lạm phát.
Theo các nhà kinh tế học, có sự thay đổi trong mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm
phát trong ngắn hạn và dài hạn là do sự thay đổi trong kỳ vọng của công chúng vào lạm
phát. Lạm phát dai dẳng từ những năm 1970 đã tạo nên kỳ vọng của công chúng trong
các năm tới về lạm phát.
Các nhà kinh tế học của trường phái này cho rằng, bằng bất cứ cách thức nào, việc gia
tăng tỷ lệ lạm phát để làm giảm tỷ lệ thất nghiệp chỉ được thể hiện trong ngắn hạn. Bởi cơ
chế điều chỉnh tự nhiên của thị trường sẽ làm thất nghiệp quay trở lại, giai đoạn này được
Paul Samuelson gọi là thời kỳ suy lạm phát.
Cho đến nay, mọi người vẫn cho rằng, trong ngắn hạn có sự đánh đổi giữa lạm
phát và thất nghiệp, còn trong dài hạn, thất nghiệp sẽ có xu hướng quay trở lại về mức
thất nghiệp tự nhiên, cho dù lạm phát vẫn biến động phức tạp. Tuy nhiên, cũng có nhiều
ý kiến cho rằng, giữa thất nghiệp và lạm phát không hề có sự đánh đổi, cả trong ngắn
hạn và dài hạn vì tùy thuộc vào việc điều hành chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ


khác nhau của mỗi quốc gia.


2. Thực tế nghiên cứu tại Việt Nam
 Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát bằng phương trình đơn
giản như sau:

T = te + α + b* ut (1)
Trong đó: T: là tỷ lệ lạm phát năm t;

te: là lạm phát dự kiến năm t (lạm phát kì vọng của dân chúng).
α: Các nhân tố khác có ảnh hưởng đến lạm phát Hình 1b. Mối quan hệ giữa lạm
phát và thất nghiệp (có xét tới lạm phát kỳ vọng);

b: là hệ số biểu thị quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
Khi biểu thị mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp bởi đường cong Phillips chuẩn thì
không có lạm phát kỳ vọng,

tức là te = 0, lúc này (1) trở thành T = α + b* ut (2).
Với dữ liệu về thất nghiệp và lạm phát tại Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2019,
=> phương trình hồi quy giữa lạm phát và thất nghiệp là t = 2,6509 ut + 0,855
 Cho thấy, giữa thất nghiệp và lạm phát không có mối quan hệ đánh đổi mà ngược
lại, theo thời gian chúng có mối quan hệ thuận chiều nhau.
Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam cho thấy, mỗi năm đều có lạm phát xảy ra, do luôn tồn tại
mức lạm phát kỳ vọng. Khi xét đến lạm phát kỳ vọng, phương trình (1) có thể viết thành

T - te = α + b* ut (3)


Để đơn giản ta coi như lạm phát kỳ vọng năm sau bằng lạm phát thực tế năm trước, xét

cho giai đoạn 2008-2019
 thì (3) có phương trình cụ thể là: T - te = -3,2831uT + 5,8434 (4). Như
vậy, khi xét đến lạm phát kỳ vọng, mối quan hệ này trở thành mối quan hệ giữa
mức độ thay đổi của tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp.
Bên cạnh đó, phương trình (4) cũng cho thấy, trong giai đoạn này, giữa thất nghiệp với
lạm phát có mối quan hệ nghịch chiều, khi tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống, tỷ lệ lạm phát sẽ
có xu hướng tăng lên.
 Như vậy, có mối quan hệ nghịch chiều giữa thất nghiệp và lạm phát là do mỗi năm
đều có mức lạm phát kỳ vọng, dân chúng đều tin rằng, trong năm tới sẽ có mức
lạm phát này xảy ra, do đó mọi hoạt động kinh tế khi diễn ra đều đã tính đến mức
lạm phát này (ví dụ hoạt động đầu tư sản xuất, đầu tư tài chính…), tạo đà cho lạm
phát năm sau.
Dù có quan tâm đến lạm phát kỳ vọng, có mối quan hệ đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm
phát nhưng từ hình 2 cho thấy, thất nghiệp ngày càng có xu hướng ổn định và giảm tỷ lệ,
trong khi đó lạm phát biến động rất phức tạp.
Vấn đề cần quan tâm ở đây là xem sau thời điểm khủng hoảng của nền kinh tế năm 2008
càng xa và nền kinh tế dần ổn định, thất nghiệp có xu hướng trở lại về mức thất nghiệp tự
nhiên hay không?
Thất nghiệp tự nhiên có được khi lạm phát bằng lạm phát dự kiến,
hay T - te = 0, từ (4) suy ra được tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 2,554 (%).
Hình (2) cho thấy, càng về sau thời điểm khủng hoảng kinh tế năm 2008, thất nghiệp
càng có xu hướng ổn định và càng gần với mức thất nghiệp tự nhiên, trong khi đó, tỷ lệ
lạm phát cũng được kiểm soát, tuy nhiên vẫn biến động phức tạp.

3. Kết luận
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát tại Việt Nam giai đoạn
2008-2019 cho thấy, khi có xét đến lạm phát kỳ vọng như thực tế tại Việt Nam, thì giữa
thất nghiệp và lạm phát lại có mối quan hệ đánh đổi.
Tuy vậy, dựa theo xu hướng biến động của thất nghiệp và lạm phát, có thể thấy, mối quan
hệ đánh đổi này thể hiện khá mờ nhạt và cũng khó nhận diện trực tiếp theo số liệu thống

kê. Trong khoảng thời gian này, khi lạm phát biến động phức tạp thì thất nghiệp lại càng
ổn định tỷ lệ và có xu hướng trở về mức thất nghiệp tự nhiên.


Như vậy, khi kiểm nghiệm số liệu tại Việt Nam giai đoạn 2008-2019, kể cả khi so sánh
trực tiếp số liệu cho từng năm, đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát do một số nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp và lạm phát có thể khác nhau, mối
quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát. Thất nghiệp phụ thuộc rất lớn vào tình trạng của
nền kinh tế và những chính sách về giải quyết việc làm. Khi nền kinh tế suy thoái, thất
nghiệp sẽ cao và ngược lại. Trong khi đó, lạm phát phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tài
khóa và tiền tệ. Thực tế cho thấy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chịu ảnh hưởng
từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008.
Năm 2008 và 2009 là 2 năm Việt Nam có tỷ lệ thất nghiệp cao (tương ứng tỷ lệ là 6,65%
và 4,66%) do khủng hoảng kinh tế, nhiều doanh nghiệp phá sản dẫn đến tình trạng sa thải
lao động. Cùng với đó, lạm phát năm 2008 cũng rất cao (22,97%). Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến lạm phát cao nhưng nguyên nhân chủ yếu do giá xăng dầu tăng nhanh...
Thứ hai, cả thất nghiệp và lạm phát chịu tác động từ các chính sách của Chính
phủ. Mỗi chính sách lại có những tác động khác nhau đến thất nghiệp và lạm phát. Từ
năm 2008 đến nay, lạm phát là vấn đề được quan tâm hàng đầu khi mà mục tiêu Chính
phủ đặt ra là “ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát”.
Cụ thể quý II/2008, Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt đã góp phần hạn chế
được lạm phát trong 2 năm tiếp theo xuống mức một con số (năm 2009 và 2010 lần lượt
là 6,88% và 9,19%). Tuy nhiên, đến năm 2011, lạm phát lại tăng vọt lên mức 18,58%



×