Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

c tính và cách phòng trị rầy lưng trắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.08 KB, 2 trang )

Đặc tính và cách phòng trị rầy lưng trắng
Rầy lưng trắng có tên khoa học là Sogatella furcifera Horvath, thuộc họ
Delphacidae, bộ Homoptera. Rầy lưng trắng gây hại cùng với rầy nâu, nhưng
trong cùng một lứa thì rầy lưng trắng phát sinh rộ sớm hơn. Rầy lưng trắng
thường có mật độ cao, gây hại nặng vào giai đoạn lúa làm đòng.
Cũng như rầy nâu, rầy lưng trắng thích hợp với điều kiện khí hậu ấm nóng,
ẩm độ cao, mưa nắng xen kẽ. Một năm thường xuất hiện 6-7 lứa rầy, quan
trọng nhất là lứa rầy vào tháng 4 (vụ xuân) và cuối tháng 8 đầu tháng 9 (vụ
mùa). Vụ xuân thường gây hại nặng hơn vụ mùa. Rầy lưng trắng gây hại
nặng trên các giống lúa nhiễm rầy, lúa lai; nếu thâm canh cao, bón nhiều
đạm, ruộng lúa cấy dày, rậm rạp là điều kiện cho rầy lưng trắng phát sinh,
phát triển. Rầy lưng trắng phân bố rộng rãi trên khắp các vùng trồng lúa của
Việt Nam và trên thế giới, nó có khả năng du nhập và di truyển rất cao.
Rầy cái trưởng thành có thể đẻ 150-350 trứng và đẻ liên tục trong 6 ngày, rầy
trưởng thành có tính hướng quang mạnh. Con trưởng thành và rầy non đều
hút nhựa cây từ dảnh và lá lúa. Rầy lưng trắng xâm nhập vào ruộng lúa khi
gieo được khoảng 30 ngày và thường ít lứa trong một vụ hơn so với rầy nâu.
Nếu rầy gây hại vào giai đoạn lúa trỗ bông làm cho số lượng bông và chiều
dài bông giảm, hạt lúa bị lép, lửng và làm chậm quá trình chín của hạt. Rầy
lưng trắng còn là môi giới truyền bệnh virus cho lúa.
Đặc điểm hình thái của rầy lưng trắng:
Trứng rầy lưng trắng có dạng ”quả chuối tiêu” như trứng rầy nâu nhưng nhỏ,
dài và nhọn hơn. Trứng được đẻ thành từng ổ theo chiều dọc, chìm trong bẹ
hoặc gân chính của lá, mỗi ổ từ 2-7 quả. Trứng mới đẻ trong suốt, sau
chuyển màu vàng, sắp nở có hai điểm mắt đỏ.
Rầy non mới nở có màu trắng đục, đến tuổi 3 xuất hiện các vệt vằn trên lưng.
Rầy trưởng thành có màu đen nâu với một dải trắng trên mảnh lưng giữa. Cơ
thể màu trắng kem, bụng màu đen. Con cái có hai dạng: cánh dài và cánh
ngắn; con đực chỉ có một dạng hình cánh dài.
Vòng đời của sâu gai từ 24-28 ngày. Chia thành 2 giai đoạn: (1) Giai đoạn rầy
non: 12-17 ngày; (2) Thời kỳ tiền đẻ trứng: 3-8 ngày.


Các biện pháp phòng trừ
(1) Sử dụng các giống lúa kháng rầy.
(2) Cấy lúa với mật độ vừa phải, bón phân cân đối NPK. Có thể thả vịt vào
ruộng lúa để diệt rầy.
(3) Khi mật độ rầy cám 18-20 con/khóm cần phun thuốc diệt rầy. Dùng các
loại thuốc diệt côn trùng và thuốc diệt côn trùng nội hấp rất hữu hiệu. Có thể
sử dụng các loại thuốc sau: Bassa 50EC, Regent 800WP, Trebon 20ND,
Mipcin 20WP, Actara 25WG.

×