Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

Huy động và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế khu vực đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.34 KB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ GIANG

HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
VỐN ĐẦU TƯ
ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ KHU VỰC
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – Ngân hàng
Mã số: 62.31.12.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học 1: PGS.TS.NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
Người hướng dẫn khoa học 2: PGS.TS.PHAN THỊ BÍCH NGUYỆT

Thành phố Hồ Chí Minh-Năm 2010


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một vùng châu thổ rộng lớn và phì
nhiêu nhất trong cả nước, có bờ biển dài, các nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú
và đa dạng, nguồn nhân lực đông, vùng ĐBSCL có đủ điều kiện cần thiết để phát
triển trở thành một vùng kinh tế trọng điểm của cả nước và của khu vực Đông
Nam Á.
Nhưng, hiện tại ĐBSCL vẫn còn là một vùng kinh tế còn nhiều khó khăn, sự


phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào sự khai thác tài nguyên sẵn có, tốc độ tăng
trưởng kinh tế chậm hơn mức tăng trưởng bình quân của cả nước, chưa tương
xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng, sức cạnh tranh còn yếu.
Nguyên nhân của tình hình trên là hạ tầng giao thông yếu kém, chưa được
quan tâm đầu tư; chất lượng nguồn nhân lực kém; nền kinh tế chủ yếu phát triển
theo chiều rộng, chưa đầu tư nhiều về khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng
sản phẩm và làm gia tăng giá trị của sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Để tạo sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thì yếu tố vật chất có tính tiền đề
không thể thiếu được đó là vốn. Do đó, vấn đề huy động vốn để đầu tư cơ sở hạ
tầng, để đầu tư phát triển kinh tế của vùng với nguồn vốn đầu tư chất lượng cao từ
trong và ngoài nước là vấn đề rất bức xúc và cấp bách. Cho nên, tác giả chọn đề tài
"Huy động và sử dụng vốn đầu tư để phát triển kinh tế khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long" làm đề tài nghiên cứu sinh.
Kết quả nghiên cứu này là để đưa ra các giải pháp huy động vốn, với các
kênh huy động vốn sẽ nói lên hiệu quả sử dụng vốn để góp phần thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế khu vực ĐBSCL.


2

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn đầu tư phát triển và tỷ lệ tăng trưởng
GDP.
Xác định nguyên nhân chủ yếu làm cho kinh tế ĐBSCL phát triển chậm so
với bình quân chung của cả nước và so với các khu vực kinh tế trong nước.
Tìm giải pháp huy động vốn hiệu quả để phát triển cơ sở hạ tầng và phát
triển kinh tế khu vực ĐBSCL.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-


Đối tượng nghiên cứu của Luận án là quá trình đầu tư tại khu vực ĐBSCL

và các yếu tố khác tác động đến quá trình phát triển kinh tế của vùng, như: trình độ
nguồn nhân lực, bản sắc văn hoá địa phương, cơ sở hạ tầng kinh tế, thực trạng huy
động vốn và điều kiện của ĐBSCL để đề ra giải pháp huy động vốn đáp ứng nhu
cầu vốn đầu tư của vùng.
-

Phạm vi nghiên cứu của Luận án: quá trình phát triển kinh tế cuả khu vực

ĐBSCL, tình hình huy động vốn ở một số địa phương của vùng trong khoảng thời
gian từ 2005-2009.
4.

Phương pháp nghiên cứu:

Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua việc trao đổi
với các cơ quan quản lý ngành trong và ngoài tỉnh, phiếu hỏi ý kiến, tổng hợp số
liệu từ các chi tiết, và sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua việc
thực hiện mô hình hồi quy về nhu cầu vốn đầu tư, các báo cáo thông kê của Bộ Tài
chính, Tổng Cục Thống kê, Bộ Kế họach và Đầu tư, Cục Thống kê của các tỉnh
ĐBSCL.
5. Nguồn dữ liệu nghiên cứu:
Nguồn dữ liệu thứ cấp: được thu thập thông qua các số liệu thống kê của Bộ


3

Tài chính, Tổng Cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Nguồn dữ liệu sơ cấp: Thu thập số liệu cuả Phòng Tổng hợp (Sở Kế họach –

đầu tư các tỉnh), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của các tỉnh ĐBSCL từ năm
2005 -2009.
6. Những điểm mới và đóng góp của Luận án:
Luận án đánh giá những thành công và hạn chế trong thu hút vốn cho
ĐBSCL và những nguyên nhân của nó một cách có hệ thống.
Căn cứ mối quan hệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tác giả dùng
phương pháp định lượng để dự báo nhu cầu vốn của ĐBSCL đến năm 2020, trên
cơ sở đó đề xuất cơ cấu nguồn vốn nhằm khai thác nguồn vốn tiềm năng của vùng.
Đề xuất mô hình huy động vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư phát triển kinh
tế cho ĐBSCL, nhóm giải pháp hỗ trợ khác nhằm thúc đẩy ĐBSCL phát triển
nhanh và bền vững. Đồng thời tác giả cũng đề xuất về thay đổi nhận thức một số
nội dung có liên quan để định hướng phát triển vùng đúng với thế mạnh hiện có
nhằm khai thác tốt tiềm năng để phát triển kinh tế và phát triển con người của
vùng.


4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1. Những khái niệm về đầu tư.
Có nhiều khái niệm về đầu tư, tuỳ theo phạm vi nghiên cứu mà hình thành
nên những khái niệm khác nhau về đầu tư và vốn đầu tư, với mỗi phạm vi đầu tư
lại có một loại vốn đầu tư tương ứng.
Đầu tư theo nghĩa rộng có nghĩa là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai mà kết quả này thường phải lớn hơn các chi phí về các nguồn lực

đã bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản vật
chất khác hoặc sức lao động. Sự biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra
trên đây gọi là vốn đầu tư .
Kết quả đạt được có thể là tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, của cải vật
chất khác), tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên
môn, khoa học kỹ thuật,... của người dân), nguồn nhân lực tăng thêm,...
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
ở hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Nhà đầu tư có thể là một công ty, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân với các
mục đích đầu tư và quy mô đầu tư khác nhau, nên kết quả đầu tư có loại chỉ có ý
nghĩa trực tiếp ở phạm vi hẹp đối với bản thân người đầu tư, có loại lại có ý nghĩa
quan trọng không chỉ đối với cá nhân người đầu tư mà còn quan trọng đối với cả
nền kinh tế của đất nước.
Như vậy, nếu xem xét trên giác độ đầu tư thì đầu tư là những hoạt động sử


5

dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực
và trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của
các tài sản và nguồn lực sẵn có. Tương ứng với phạm vi đầu tư này có phạm trù
tổng vốn đầu tư mà chúng ta gọi là vốn đầu tư phát triển hoặc là vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội.
1.2. Các nguồn vốn đầu tư:
Hai nguồn vốn được huy động cho đầu tư phát triển nền kinh tế là nguồn
vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư ngoài nước.
1.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Luôn đóng vai trò quyết


định trong việc tạo vốn cho đầu tư tăng trưởng

kinh tế. Nguồn vốn đầu tư trong nước được khai thác chủ yếu qua các kênh, như:
1.2.1.1. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách:
Tập trung cho những công trình trọng điểm, an ninh quốc phòng các dự án
hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn nhằm thực hiện vai trò
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, nguồn
vốn tín dụng nhà nước đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư với khối lượng lớn, tạo điều
kiện cần thiết cho hoạt động của thị trường tài chính.
Việc chi đầu tư từ NSNN Việt Nam là vấn đề cần được xem xét từ việc phân
bổ NSNN để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư từ NSNN. Chất lượng
phân bổ ngân sách hiện nay của trung ương và các địa phương còn hạn chế do
phân bổ ngân sách theo khoản mục đầu vào, không chú trọng đến các đầu ra và kết
quả trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược ưu tiên của quốc gia, làm cho
nguồn tài trợ cho những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội không được quan tâm
đúng mức, khiến những ưu tiên của Chính phủ không được tài trợ xứng đáng với
tầm quan trọng của chúng và dễ tách rời mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được


6

lập 5 năm với số ngân sách được phân bổ hàng năm.
Một phương thức phân bổ ngân sách theo xu hướng ở nhiều nước hiện nay
là phân bổ ngân sách theo đầu ra, tức là theo mục tiêu, sản phẩm là kết quả ngân
sách; phương thức này có thể thực hiện được các thứ tự ưu tiên trong phân bổ ngân
sách, gắn kế hoạch ngân sách với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
hiệu quả sử dụng ngân sách nói chung và vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nói
riêng.
1.2.1.2. Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân cư:
Trong dân cư ẩn chứa các nguồn tiền rất lớn từ kiều hối, tiền tiết kiệm

thường cất trữ bằng vàng, tiền ngoại tệ và tiền mặt. Nguồn tiền này đã được huy
động tham gia vào sản xuất, kinh doanh thông qua các hình thức như: gởi tiền tiết
kiệm, mua chứng khoán, trực tiếp đầu tư sản xuất kinh doanh,…đóng góp vào sự
tăng trưởng kinh tế khá lớn. Chính phủ và chính quyền địa phương đã huy động
nguồn vốn này để thực hiện các công trình trọng điểm, để thực hiện các chương
trình mục tiêu quốc gia bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu công
trình…Đây là nguồn vốn khá quan trọng và tiềm năng còn dồi dào, khai thác tốt sẽ
tiết kiệm được ngân sách nhà nước.
Các hình thức huy động vốn trong dân cư: thị trường chứng khoán, theo
kênh phát hành trái phiếu chính phủ thông qua kho bạc nhà nước, qua kênh ngân
hàng và các tổ chức tín dụng, kênh huy động vốn dân cư qua bảo hiểm.
Mười năm qua (2000-2009), thị trường chứng khoán Việt Nam đã trở thành
kênh dẫn vốn dài hạn quan trọng, bổ sung cho kênh ngân hàng. Đến tháng 5 năm
2010 có 525 công ty niêm yết, mức vốn hóa thị trường là 680.614 tỷ đồng.
Có 4 loại trái phiếu chính phủ: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái
phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng Tổ quốc, trái phiếu đầu tư, trái phiếu công trình
trung ương. Về huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ, tính đến hết


7

ngày 24/12/2008, Kho bạc Nhà nước đã huy động được trên 39.627 tỷ đồng.
Hệ thống ngân hàng đã đa dạng hoá các hình thức huy động vốn từ dân cư
tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm bậc thang, dịch vụ tiết kiệm tại nhà...Đến tháng 11
năm 2009 tỷ trọng nguồn vốn huy động từ dân cư của các ngân hàng thương mại
chiếm đến 48% tổng nguồn tiền gửi.
Bảo hiểm là một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế thông qua
phí bảo hiểm. Nguồn vốn trong dân cư thật sự là nguồn vốn quan trọng và đầy
tiềm năng, giữ vai trò đặc biệt quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung
của cả nước, thực tế đã có nhiều hình thức khai thác nguồn vốn trong dân, mang

lại thành tựu to lớn trong huy động và trong tăng trưởng kinh tế.
1.2.2. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài:
Là nguồn vốn quan trọng, cần thiết để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển
kinh tế. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài được huy động thông qua các hình thức
cơ bản sau:
1.2.2.1. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI):
Đây là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vào một nước để đầu
tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Đối với vốn FDI, nhà đầu tư và nước nhận
đầu tư đều có những lợi ích, thể hiện ở một số mặt như sau:
Đối với nhà đầu tư: tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của
các nước nhận đầu tư để nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư; các công ty nước ngoài
có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường
trong nước vì thông qua FDI, các công ty của các nước phát triển chuyển được
một phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đọan cuối của chu kỳ sống sản phẩm
sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng như những sản phẩm mới của các
nước này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư; nhà đầu tư tạo dựng được thị trường
cung cấp nguyên vật liệu dồi dào và ổn định với giá rẻ; chủ đầu tư có điều kiện


8

bành trướng sức mạnh về kinh tế, tăng cường khả năng ảnh hưởng của mình trên
thị trường quốc tế.
Đối với nước nhận đầu tư: FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển
kinh tế, được nhận chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý,
năng lực marketing, đào tạo đội ngũ lao động,…; đầu tư FDI tác động đến hoạt
động đầu tư trong nước phát triển, tạo điều kiện khai thác hiệu quả các tiềm năng
của đất nước; nước nhận đầu tư có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu;
đầu tư FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế
đối với các công ty nước ngoài. Nhưng nguồn vốn FDI có những hạn chế nhất

định đối với nước nhận đầu tư, đó là: nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể dễ
dẫn đến đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức
làm ô nhiễm môi trường.
Hình thức chủ yếu của FDI là đầu tư mới và mua lại và sáp nhập qua biên
giới. Tùy theo mức độ tham gia của nhà đầu tư doanh nghiệp nhà đầu tư nước
ngòai góp vốn 100%, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII):
Là hình thức đầu tư thông qua vịêc mua bán chứng khoán và những giấy tờ
có giá trị khác. Theo Luật đầu tư Việt Nam ban hành năm 2005, đầu tư FII được
xác định là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các
giấy tờ có giá trị khác, các quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài
chính trung gian mà nhà đầu tư không tham gia hoạt động quản lý đầu tư. Vốn đầu
tư gián tiếp của nước ngoài vào nước sở tại thường tồn tại theo các loại quỹ hoặc
các công ty tài chính, chủ yếu là quỹ hổ tương, quỹ trợ cấp, quỹ lương hưu, đầu tư
của các tập đoàn tài chính và quỹ đầu tư mạo hiểm. Vốn FII có tác động kích thích
thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng
quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ


9

dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng
quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế.
Tuy nhiên, vốn FII có những tác động tiêu cực như: nếu dòng FII vào nước tăng
mạnh, thì nền kinh tế dễ bị rơi vào trạng thái phát triển bong bóng; vốn FII có đặc
điểm là di chuyển rất nhanh nên nó sẽ dễ làm cho nền tài chính bị khủng hoảng khi
gặp sự cố từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế và FII làm giảm tính độc
lập của chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái.
Đầu tư FII vào Việt Nam gần đây đã tăng rất mạnh. Hiện có khoảng 35 quỹ
nước ngoài quy mô lớn đang tham gia đầu tư tại thị trường chứng khoán Việt Nam.

Trong đó nguồn vốn đổ vào nhiều nhất là ở lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, tài
chính,…
1.2.2.3. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Là nguồn vốn do các cơ quan chính thức của một nước hoặc một tổ chức
quốc tế hỗ trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của các nước này. Sự hỗ trợ này thường thể hiện dưới dạng tiền tệ, hàng
hoá, chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức theo khuôn khổ Hiệp định, Thoả
ước hoặc các văn bản ký kết chính thức trên cơ sở song phương hoặc đa phương.
Nội dung viện trợ của ODA bao gồm: Viện trợ không hoàn lại: có quy mô nhỏ,
chiếm khoảng 15-17% tổng nguồn vốn ODA và chỉ giới hạn trong các lĩnh vực
nhân đạo, y tế, văn hoá, giáo dục, cải cách và nâng cao năng lực quản lý hành
chính nhà nước; vốn vay: có quy mô lớn, chiếm khoảng 83-85% tổng nguồn vốn
ODA, nhưng được vay với lãi suất thấp (lãi suất ưu đãi) và thời gian hoàn trả dài
(thường là 20-30-40 năm) và có thời gian ân hạn (từ 10-12 năm). Chính phủ nước
tiếp nhận vốn ODA phải quản lý và sử dụng vốn ODA theo quy định của pháp luật
nước mình, vừa phải theo quy định của Nhà tài trợ theo điều ước quốc tế được ký
kết và chịu sự quản lý, giám sát của cả hai bên. Trong không ít trường hợp phải
tuân thủ một số điều kiện do nước cung cấp vốn quy định, như mục đích sử dụng,


10

thủ tục giải ngân, phương thức cung ứng vật tư, thiết bị...
Việt Nam có mối quan hệ ít nhất với 25 nhà tài trợ ODA song phương, trong
đó Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất chiếm khoảng 40% tổng số vốn ODA mà cộng
đồng quốc tế cam kết đối với Việt Nam.
1.2.2.4. Nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO):
Trên thế giới có rất nhiều tổ chức phi chính phủ hoạt động theo các mục
đích và tôn chỉ khác nhau. Nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ thường nhỏ,
chủ yếu dựa vào nguồn quyên góp hoặc sự tài trợ của các Chính phủ. Viện trợ
NGO thường là viện trợ không hoàn lại và thường thông qua các chương trình phát

triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia như: huấn luyện những người làm
công tác bảo vệ sức khoẻ, thiết lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông
thôn,…Nhưng nguồn vốn này ngoài mục đích nhân đạo còn mang màu sắc tôn
giáo, chính trị nên khó quản lý.
1.3.

Hiệu quả đầu tư:

Nói đến hiệu quả đầu tư, người ta thường đề cập hiệu quả kinh tế - xã hội và
các chỉ tiêu tài chính đánh giá hiệu quả của đầu tư.
1.3.1. Các chỉ tiêu tài chính đánh giá hiệu quả của đầu tư:
Hai chỉ tiêu tài chính quan trọng bậc nhất trong đánh giá hiệu quả đầu tư là
hiện giá thu nhập thuần và tỷ suất sinh lời nội bộ.
1.3.1.1. Hiện giá thu nhập thuần (NPV):
Là chỉ tiêu về thu nhập ròng của dự án, là hiệu số giữa hiện giá thực thu
bằng tiền và hiện giá thực chi bằng tiền trong suốt thời gian thực hiện dự án.
Có nghĩa là các khoản thu nhập đạt được trong tương lai kể cả vốn đầu tư đều phải
quy về giá trị hiện tại theo một lãi suất nhất định. Nếu hiện giá thu nhập thuần là


11

số dương chứng tỏ dự án có hiệu quả.
Công thức tính:
n

NPV = ∑( Bt − Ct )× at
t=1

Trong đó:

NPV: Hiện giá thu nhập thuần của dự án.
Bt : Thu nhập hàng năm của dự án.
Ct: Chi phí hàng năm của dự án.
at =
r : Lãi suất chiết khấu của dự án, đơn vị tính %.
t : Thứ tự năm trong thời gian của dự án.
t-1: được quy ước tính toán trong dự án, các giá trị đồng tiền phát sinh
trong năm t=1 được coi như giá trị hiện tại của đồng tiền đó.
Hiện giá thu nhập thuần của dự án cho biết với một chi phí cơ hội mong
muốn nhất định của nhà đầu tư, hiện giá thu nhập có lớn hơn hiện giá chi phí hay
không? Hiện giá thu nhập thuần càng cao thì hiệu quả kinh tế của dự án càng cao.
1.3.1.2. Tỷ suất sinh lời nội bộ (IRR):
Là lãi suất riêng của dự án. Với lãi suất này thì tổng hiện giá của các khoản
thu nhập trong tương lai của dự án bằng tổng hiện giá của vốn đầu tư. Điều đó
cũng có nghĩa là với lãi suất này thì hiện giá thuần bằng 0.
Có một số phương pháp xác định tỷ suất sinh lời nội bộ như: Phương pháp
đồ thị, phương pháp thử dần để xác định tỷ suất chiết khấu giả định, phương pháp
nội suy.


12

Công thức tính tỷ suất sinh lời nội bộ theo phương pháp nội suy:
NPV1

IRR = r1 + (r2 – r1 ) x —————————

NPV1 + ।NPV2 ।

Trong đó:

IRR: Tỷ suất sinh lời nội bộ cuả dự án, đơn vị tính %.
r1 : Lãi suất chiết khấu ban đầu để tính NPV 1 .
r 2 : Lãi suất chiết khấu giá định để tính NPV 2 sao cho NPV2 là một số âm và
gần bằng 0.
Khi thấy IRR lớn hơn tỷ suất chiết khấu thì có thể kết luận dự án có hiệu quả,
IRR chính là tỷ suất lợi nhuận của đồng vốn bỏ ra trong đầu tư.
Bên cạnh đó, tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu
tư thường được sử dụng. Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư là tỷ số giữa lợi nhuận sau
thuế hàng năm và tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án.
Công thức tính:
ROI t =

NP

t
I ×100

Trong đó:
ROIt : Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư hàng năm, đơn vị tính %.
NPt : Lợi nhuận sau thuế hàng năm.
I: Tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án.
Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư cho biết một đồng vốn đầu tư cho dự án có
khả năng thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất sinh lời càng lớn thì
hiệu quả tài chính của dự án càng cao.
1.3.2. Hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư:
Hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư là đánh giá trên quan điểm của
toàn nền kinh tế, đánh giá tác động của dự án đầu tư đến sự phát triển kinh tế của


13


cả nước; là sự so sánh giữa lợi ích do dự án tạo ra với cái giá mà xã hội phải trả để
sử dụng tài nguyên có hiệu quả. Lợi ích từ dự án đầu tư mà nền kinh tế quốc dân
và xã hội thu được có những cái không định lượng được như: sự phù hợp của dự
án đối với mục tiêu phát triển kinh tế, những lĩnh vực được ưu tiên đầu tư, ảnh
hưởng dây chuyền đối với sự phát triển các ngành khác,…nhưng cũng có một số
nội dung định lượng được như: mức độ gia tăng sản phẩm, thu nhập quốc dân, sử
dụng lao động, tăng thu ngoại tệ, tăng thu cho Ngân sách nhà nước. Một số tiêu
chí đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư, như sau:
1.3.2.1. Giá trị sản phẩm hàng hóa gia tăng:
Gồm giá trị gia tăng trực tiếp và giá trị gia tăng gián tiếp. Giá trị gia tăng
trực tiếp là giá trị do chính dự án tạo ra.
Giá trị gia tăng gián tiếp là giá trị gia tăng từ các dự án khác hoặc cáchoạt
động kinh tế khác do phản ứng dây chuyền mà dự án đang xem xét mang lại.
1.3.2.2. Việc làm và thu nhập của người lao động:
Việc sử dụng vốn đầu tư sẽ tạo ra nhiều chương trình, dự án,…thu hút một
lượng lao động đáng kể, đồng thời thúc đẩy việc đào tạo lao động có trình độ kỹ
thuật, thu hút lao động có tay nghề từ nơi khác đến.
Để đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư trong việc thu hút lao động, có thể sử
dụng chỉ tiêu:

Chỉ tiêu này cao hay thấp tùy thuộc vào từng ngành kinh tế kỹ thuật; kỹ thuật
càng hiện đại, chỉ tiêu này càng lớn. Như vậy, với một dự án đầu tư nào được hình
thành đều tạo ra công ăn việc làm cho người lao động và tạo ra thu nhập nâng cao
mức sống cho người lao động .


14

1.3.2.3. Đóng góp cho NSNN:

Gồm các khoản như: các lọai thuế, tiền thuê đất, tiền thuê các tài sản tài sản
cố định, dịch vụ công cộng.
Có thể tính mức đóng góp cho NSNN trên tổng vốn đầu tư:

1.3.2.4. Tăng thu hoặc tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước:
Khi các nước nhận vốn đầu tư từ nước ngoài đã làm tăng thu ngoại tệ cho
nước mình. Mặt khác, nước nhận đầu tư tiết kiệm được ngoại tệ do không phải
nhập khẩu hàng tiêu dùng vì đã được các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất và cung
cấp, tiết kiệm ngoại tệ trong việc trang bị máy móc thiết bị tiên tiến.
Khả năng tiết kiệm ngoại tệ do dự án đầu tư sản xuất sản phẩm thay thế sản
phẩm nhập khẩu, hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu
bằng chi phí ngoại tệ nếu nhập khẩu trừ đi cho chi phí ngoại tệ để sản xuất khối
lượng sản phẩm thay thế sản phẩm nhập khẩu, trừ đi nguyên vật liệu và khấu hao
tài sản cố định mua bằng ngoại tệ, trừ lương tính bằng ngoại tệ và trả nợ vay.
Mức tăng thu ngọai tệ của dự án đầu tư tính được bằng cách lấy thu ngoại tệ
do xuất khẩu trừ chi ngoại tệ nếu nhập khẩu. Đây là những chỉ tiêu để từng bước
tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư còn được tính đến các chỉ tiêu như: dự
án đầu tư tạo sự phát triển cho các ngành khác (ngành dệt phát triển có thể kéo
theo ngành may mặc phát triển); làm tăng nhu cầu tiêu dùng cuả nhân dân; dự án
đầu tư góp phần làm phát triển địa phương (tăng cường về cơ sở hạ tầng, làm thay
đổi bộ mặt kinh tế - xã hội cuả địa phương, tăng thu nhập cho người lao động ở địa
phương). Các chỉ tiêu này khó định lượng được nhưng có thể thấy được qua ảnh


15

hưởng thực tế của dự án đầu tư nên cũng là những tiêu chí để đánh giá hiệu quả
đầu tư.
1.4. Những lý luận cơ bản về tăng trưởng và phát triển kinh tế:

1.4.1. Tăng trưởng kinh tế:
Là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất
định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng
trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng được
dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng
trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng
sản phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người).
Đầu tư là một trong những yếu tố được tính đến trong tăng trưởng kinh tế,
dựa vào công thức tính GDP sau:
GDP=S+I+G+(X–IM)
Trong đó: S: tổng tiết kiệm trong nền kinh tế
I:

đầu tư

G:

chi tiêu của chính phủ

X:

xuất khẩu

IM: nhập khẩu.
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế còn đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà
còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn khi nhà đầu tư
xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà
còn là tiềm lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người
lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với

quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc


độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một
giai đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa
hai kỳ cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy
mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế
kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Công thức tính:
y = dY/Y × 100(%)
Trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu
quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng
trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng
GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế.
Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu
danh nghĩa.
1.4.2. Phát triển kinh tế:
Là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển
kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là
quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và
chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện
của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao
gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ
(thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công
nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt
hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ
bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch của người dân,
đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội…)

. 1.4.3. Các lý thuyết kinh tế về đầu tư:

16


17

Đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh tế. Trong khi đầu tư
nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất quan trọng bởi vì
đây là thành tố trong GDP biến động mạnh nhất và phản ánh rõ nét nhất hình mẫu
biến động theo chu kỳ mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt. Có rất nhiều lý
thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi lý thuyết nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của
đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, sau đây là một số lý thuyết tiêu
biểu:
1.4.3.1. Số nhân đầu tư:
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy
sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng một đơn vị.
Công thức tính:
k=
Trong đó:

Y/

I (1)

Y là mức gia tăng sản lượng

I là mức gia tăng đầu tư
klà số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta có :

Y= k . I
Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuếch đại sản lượng tăng lên số
nhân lần. Trong công thức trên, k là một số dương lớn hơn 1. Nếu khuynh hướng
tiêu dùng cận biên càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khếch đại của sản lượng càng
lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng gia tăng.
Thực tế, gia tăng đầu tư dẫn đến gia tăng cầu về các yếu tố tư liệu sản xuất
(máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và qui mô lao động. Sự kết hợp hai
yếu tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng của nền kinh
tế.
1.4.3.2. Lý thuyết về gia tốc đầu tư:


18

Theo lý thuyết này, để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước phải có một
lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư được biểu
diễn theo công thức:
x = K/Y
K:

Vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu

Y: Sản lượng tại thời kỳ nghiên
cứu x: Hệ số gia tốc đầu tư.
Từ công thức trên, ta suy ra: K = x * Y.
Như vậy, nếu x không đổi khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến vốn
đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản lượng phải tăng liên tục
mới làm cho vốn đầu tư tăng lên cùng tốcđộ hoặc là không thay đổi so với thời kỳ
trước đó.
Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ảnh mối quan hệ giữa sản lượng với vốn đầu

tư, phản ảnh sự tác động của tăng trưởng đến vốn đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng
cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh nhiều, dẫn đến tiết kiệm và đầu
tư tăng nhiều. Tuy nhiên lý thuyết này còn một số hạn chế, đó là: sự giả định quan
hệ giữa sản lượng và đầu tư là ổn định, thực tế đại lượng x luôn biến động do sự
tác động của nhiều nhân tố khác; và thực chất lý thuyết này đã xem xét sự biến
động của đầu tư thuần chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự thay đổi
của sản lượng.
1.5. Mối quan hệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế:
Trong quá trình đầu tư để tạo sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thì yếu tố
vật chất có tính tiền đề không thể thiếu được đó là vốn. Vốn là nhân tố đặc biệt
quan trọng, là chìa khóa của sự thành công về tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Vốn phải được đầu tư và sử dụng có hiệu quả, nó sẽ đóng góp rất quan trọng
đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khi nói vốn phải được đầu tư và sử dụng


19

có hiệu quả có nghĩa là đã bao hàm chính sách sử dụng vốn và đội ngũ nguồn nhân
lực để thực hiện.
Việc tạo ra vốn cho phát triển kinh tế là vấn đề hết sức khó khăn, nhưng khi
có vốn mà không có chính sách đầu tư sử dụng hiệu quả thì đất nước sẽ rơi vào
tình trạng nợ nần chồng chất, kinh tế không cải thiện.
Sự phát triển của nền kinh tế phải đặt trong sự tương quan chặt chẽ với phát
triển cơ sở hạ tầng. Để gia tăng sự phát triển kinh tế, nền kinh tế nhất thiết phải có
vốn để tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Khi nền kinh tế phát triển cao thì cơ sở
hạ tầng cần phải phù hợp với sự tiến triển của nhu cầu. Vì vậy, nền kinh tế cần
phải tạo lập vốn với quy mô lớn để đáp ứng. Vốn chính là nhân tố đặc biệt quan
trọng để khai thác các nguồn lực tiềm năng như nhân lực, vật lực,…Nên tùy theo
điều kiện phát triển trong từng thời kỳ, mỗi nền kinh tế xác lập cơ cấu kinh tế hợp
lý, thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngòai nước để đẩy nhanh nhịp độ tăng

trưởng và phát triển kinh tế .
Nhà nước huy động vốn thông qua các công cụ tài chính để đáp ứng yêu cầu
đầu tư cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các công cụ tài chính sử dụng gồm
công cụ thuộc chính sách tài chính - tiền tệ (thuế, tín dụng nhà nước, các quỹ hỗ
trợ tài chính, công cụ lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối
đoái), công cụ thuộc thị trường tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu,
…). Các công cụ tài chính này được sử dụng thích hợp với phạm vi, đặc điểm hoạt
động và khuôn khổ luật pháp.
Trong hệ thống lý thuyết tăng trưởng kinh tế vào cuối những năm 30 đã xuất
hiện một học thuyết kinh tế mới, đó là học thuyết của J.Maynard Keynes. Khác
với tư tưởng của nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển, Keynes cho rằng: nền kinh
tế có thể đạt tới và duy trì sự cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên,
ông cũng nhận thấy xu hướng phát triển của nền kinh tế là đưa mức sản lượng thực
tế càng gần đến mức sản lượng tiềm năng càng tốt. Để có được sự chuyển dịch này
thì đầu tư đóng vai trò quyết định.


20

Trong những năm 1940, các nhà kinh tế Roy Harrod (người Anh) và Evsey
Domar (người Mỹ) đã đưa ra những lý thuyết để giải thích mối quan hệ giữa tăng
trưởng và thất nghiệp trong xã hội tư bản. Sau đó được các nước đang phát triển
xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu tư bản.
Mô hình Harrod - Domar được dùng rộng rãi trong các nước đang phát triển,
được coi như là một phương pháp đơn giản để xem xét mối quan hệ giữa tăng
trưởng và nhu cầu tư bản, mô hình này cho chúng ta biết đến hệ số ICOR. Mô hình
cho rằng đầu ra cho bất kỳ một đơn vị kinh tế nào sẽ phụ thuộc vào tổng tư bản
đầu tư cho đơn vị đó. Để tăng trưởng kinh tế cần đầu tư mới vào vốn dự trữ.
Mô hình Harrod – Domar :


i
s
g=k =k
Trong đó:
g:

tốc độ tăng trưởng (g = ∆Y/Y, Y là tổng sản phẩm đầu ra).

i: tỷ lệ đầu tư (i = I/Y).
s: tỷ lệ tiết kiệm (s = S/Y).
I: đầu tư.
S: tiết kiệm.
k: hệ số ICOR – Hệ số gia tăng tư bản đầu ra ( k=I/ ∆Y = ∆K/ ∆Y, K là
tổng vốn đầu tư ).
∆Y : gia tăng tổng sản phẩm đầu ra.
∆K : gia tăng vốn đầu tư.
Công thức này là công thức đơn giản của Harrod – Domar trong lý thuyết
tăng trưởng kinh tế.
Hệ số ICOR nói lên rằng vốn sản xuất được tạo ra bằng đầu tư dưới dạng nhà


21

máy, trang thiết bị là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, các khoản tiết kiếm của dân
cư và các công ty chính là nguồn gốc của vốn đầu tư. Hệ số này cũng phản ảnh
trình độ kỹ thuật sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư.
Ví dụ như nếu đầu tư 3 tỷ đồng dưới dạng xây dựng nhà máy mới và trang bị
mới làm cho xí nghiệp có khả năng gia tăng đầu ra thêm 1 tỷ đồng/năm trong vòng
một năm tới thì hệ số gia tăng vốn đầu ra trong trường hợp này là 3/1.
Các nhà kinh tế sử dụng ICOR như một chỉ số cơ bản để xem xét hiệu quả sử

dụng vốn đầu tư, liên quan chặt chẽ tới tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Mô hình tăng trưởng cuả Harrod - Domar chỉ ra sự tăng trưởng là do kết quả tương
tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế.
Nhưng trên thực tế, tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra không phải vì lý do tăng đầu
tư, hoặc ngược lại, nếu đầu tư không có hiệu quả vẫn có thể dẫn đến không có sự
tăng trưởng. Kể cả trong trường hợp đầu tư có hiệu quả thì sự gia tăng tỷ lệ tiết
kiệm cũng chỉ có thể tạo nên gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn
chứ không thể đạt được trong dài hạn.
Từ những lập luận trên, năm 1956, Robert Solow đã xây dựng nên mô hình
tăng trưởng mang những ý tưởng mới, còn được gọi là mô hình tăng trưởng Solow.
Nếu như mô hình Harrod - Domar chỉ xét đến vai trò của vốn sản xuất (thông
qua tiết kiệm và đầu tư) đối với tăng trưởng, thì mô hình Solow đã đưa thêm nhân
tố lao động và tiến bộ công nghệ vào phương trình tăng trưởng và ông cho rằng
tiến bộ kỹ thuật là nhân tố quyết định đến tăng trưởng kể cả ngắn hạn và dài hạn.
Mô hình này cho biết: tiết kiệm, tăng dân số và tiến bộ công nghệ có ảnh hưởng
như thế nào tới mức sản lượng và tốc độ tăng trưởng của một nền kinh tế theo thời
gian.
Riêng tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế, Solow đã lý giải như sau:
Nếu Y là sản lượng, K là vốn, L là lao động. Ta xét một dạng hàm tổng sản


22

xuất Cobb-Douglas giản đơn:
Y=KL
Với y = Y/L (thu nhập bình quân/công nhân).
Và k = K/L (mức vốn bình quân/công nhân).
Nếu tính mức sản lượng bình quân đầu người thì phương trình trên sẽ còn là:
y=k
Từ mô hình tăng trưởng cuả Harrod - Domar ta có I = s.Y

I

là đầu tư cuả nền kinh tế và s là tỷ lệ tiết kiệm quốc gia. Nếu chia cả 2 vế

phương trình này cho L, ta được mức đầu tư bình quân cho một công nhân i bằng:
i = s.y
Tại mỗi thời điểm, lượng vốn là yếu tố quyết định sản lượng của nền kinh
tế, nhưng lượng vốn có thể thay đổi theo thời gian, dẫn tới tăng trưởng kinh tế.
Mô hình Solow xác định hai lực lượng tác động tới sự thay đổi của lượng
vốn là đầu tư (làm tăng luợng vốn) và khấu hao (làm giảm lượng vốn), cụ thể là:
Thay đổi lượng vốn = Đầu tư – Khấu hao.
Như vậy, theo mô hình Solow, nếu tỷ lệ tiết kiệm cao thì nền kinh tế sẽ có
mức sản lượng lớn hơn (GDP cao hơn). Tuy nhiên, việc tăng tỷ lệ tiết kiệm chỉ đưa
đến tăng trưởng nhanh hơn trong một thời gian ngắn, trước khi nền kinh tế đạt đến
trạng thái ổn định. Nếu một nền kinh tế duy trì một tỷ lệ tiết kiệm cao nhất định,
nó sẽ duy trì được mức sản lượng cao nhưng không duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao. Kết luận này hoàn toàn khác với kết luận của mô hình Harrod Domar.
Theo nhà kinh tế học người Mỹ - Paul Adam Samuelson: Tăng trưởng kinh
tế là sự mở rộng GDP hay sản lượng tiềm năng, và một khái niệm rất gần gũi với
nó là mức tăng sản lượng tính trên đầu người. Về lâu dài, vận mệnh kinh tế của


một quốc gia phụ thuộc vào tăng trưởng sản lượng tiềm năng. Tăng sản lượng tiềm
năng là phải tăng năng suất. Paul Krugman, nhà kinh tế học đoạt giải Nobel đã viết:
1

"Năng suất không phải là tất cả, nhưng về lâu dài thì nó gần như là tất cả" . Theo
mô hình tăng trưởng kinh tế tân cổ điển: Để tăng năng suất trên quy mô nền kinh tế
thì cần thiết phải tăng cường vốn theo chiều sâu, là quá trình trong đó lượng vốn
tính trên đầu người công nhân tăng lên theo thời gian, là quá trình tăng cường đầu

tư máy móc thiết bị.
Những nền kinh tế thị trường tiên tiến tăng trưởng thông qua sự tăng lên cuả
vốn, lao động và thay đổi công nghệ. Vậy, sự đóng góp tương đối cuả lao động, vốn
và thay đổi công nghệ đến tăng trưởng như thế nào? Robert Solow, John

Hendrick và Edward Denison là những người tiên phong trong phân tích tăng
trưởng kinh tế bằng định lượng và đưa ra cách tiếp cận hữu ích là hạch toán tăng
trưởng. Theo kỹ thuật này, các nhà kinh tế trên đã đưa ra phương trình thể hiện mối
quan hệ giữa tăng cường vốn theo chiều sâu ảnh hưởng tới sản lượng trên đầu
người như thế nào nếu không thay đổi công nghệ.
% tăng Q/L = % tăng Q - % tăng L = ¼ (% tăng K/L) +T.C
Với Q: sản lượng.
L: lao động.
K: Vốn.
T.C: thay đổi công nghệ.
Một ví dụ cụ thể của các nhà kinh tế cho thấy sự đóng góp của lao động, vốn
và các nhân tố khác trong mức tăng trưởng.
Để tính mức tăng trưởng cuả Q/L, giả định L đã tăng 1,3% một năm, K tăng
2,5% một năm, còn Q tăng 3,1% một năm.

[Paul A samuelson, William D. Nordhalls, Kinh tế học, tập 2, NXB Thống kê,
2002, tr 555].
1

23


24

Chúng ta thấy:

% tăng Q/L = ¼ (%tăng K/L) +T.C

1,8 = ¼ (1,2) + T.C = 0,3 + 1,5
Như vậy, trong 1,8% tăng sản lượng cuả một năm trên một công nhân, do
tăng cường vốn theo chiều sâu khoảng 0,3%, do thay đổi công nghệ là 1,5%.
Có 4 thành phần trong tăng trưởng kinh tế.
Nguồn vốn (K): Chỉ có đầu tư ròng mới giúp tích luỹ thêm vốn cho nền kinh
tế. Mà vốn đầu tư ròng lấy từ tiền tiết kiệm. Cho nên muốn tăng vốn thì phải tăng
tiết kiệm. Như vậy, khi sản lượng đạt đến mức tiềm năng, muốn thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bằng yếu tố vốn thì phải khuyến khích tiết kiệm và chuyển tiền tiết
kiệm đó sang đầu tư.
-

Nguồn nhân lực (L): Chất lượng cuả nguồn nhân lực thể hiện qua: trình độ

chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng và kỷ luật lao động là yếu tố quan trọng thúc đẩy
quá trình tăng trưởng kinh tế.
-

Nguồn tài nguyên (R): Một quốc gia có các điều kiện tự nhiên thuận lợi và

có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào sẽ tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế dễ
dàng hơn. Nhưng trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay, việc sở hữu nguồn tài
nguyên không quyết định một nước có thành công hay không.
-

Thay đổi và đổi mới công nghệ (T): Trong lịch sử, tăng trưởng rõ ràng

không phải là một quá trình sao chép giản đơn, mà đó là một quá trình sáng chế và
thay đổi công nghệ không ngừng đã đem lại một bước tiến xa về khả năng sản

xuất.
Y = f(K,L,R,T)
Và thống nhất với kiểu phân tích của hàm sản xuất Cob-Douglas về sự tác
động của các yếu tố đến tăng trưởng.


×