Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện đồng xuân, tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO THỊ THÚY PHÚC

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮKLẮK - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO THỊ THÚY PHÚC

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. ĐINH THỊ MINH TUYẾT

ĐẮK LẮK - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Học viên cam đoan luận văn: "Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa
bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên" là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng học viên, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.
Đinh Thị Minh Tuyết.
Nội dung của luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin
của một số tác phẩm, tạp chí khoa học, kết quả nghiên cứu của các đề tài
khoa học.
Các số liệu trong Luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn gốc
trích dẫn cụ thể, rõ ràng.
Học viên xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình.
Học viên

Đào Thị Thúy Phúc

i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ
chuyên ngành Quản lý công, học viên nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn của
quý thầy, cô giáo công tác tại Học viện Hành chính quốc gia. Học viên xin
chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ học
viên trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, học viên xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đinh Thị

Minh Tuyết - người hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều thời gian và tâm
huyết, tận tình hướng dẫn nghiên cứu khoa học và giúp học viên hoàn thành
luận văn này.
Học viên xin trân trọng cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo, chuyên viên
Phòng Nội vụ - UBND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, gia đình, bạn bè, đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp học viên nghiên cứu và hoàn thành Luận văn
này.
Mặc dù có nhiều nỗ lực và cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng
luận văn vẫn còn một số thiếu sót, học viên mong nhận được những đóng
góp, bổ sung từ phía độc giả và hy vọng được tiếp tục nghiên cứu toàn diện
hơn, góp phần nhỏ bé vào công cuộc cải cách nền hành chính nước nhà hiện
nay.

Học viên

Đào Thị Thúy Phúc

ii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT-ATXH

An ninh trật tự - An toàn xã hội

CBCC

Cán bộ, công chức

CNXH


Chủ nghĩa xã hội

CT

Chỉ thị

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

HĐND

Hội đồng nhân dân

HĐMV

Hội đồng Mục vụ

HTCTCS

Hệ thống chính trị cơ sở

NĐ-CP

Nghị định Chính phủ

NQ

Nghị quyết


NXB

Nhà xuất bản

PGS.TS

Phó Giáo sư Tiến sỹ

PL

Pháp lệnh

QLNN

Quản lý nhà nước

TS

Tiến sỹ

TTg

Thủ tướng

TW

Trung ương

UBMTTQVN


Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBND

Ủy ban nhân dân

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội

iii


MỤC LỤC

MỞ ĐẦ ..................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN
GIÁO ........................................................................................................ 8
1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến luận văn .................................... 8
1.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước vê tôn giáo ở Việt Nam.................. 18
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo ............................................... 21
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo tại một số địa phương và bài
học kinh nghiệm cho huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ............................... 30
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN .................. 35
2.1. Khái quát về huyện Đồng Xuân .......................................................... 35
2.2. Hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ........ 40
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện
Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ......................................................................... 48

2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện
Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ......................................................................... 56
CHƢƠNG 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN............................................................................. 65
3.1. Dự báo xu hướng hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ................................ 65
3.2. Quan điểm và phương hướng của Đảng về tôn giáo………………........69
iv


3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện….
Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên…………………………………………………..77
3.4. Khuyến nghị với trung ương và chính quyền địa phương ........... ……..90
KẾT LUẬN ............................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 97

v


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Chủ thể quản lý nhà nước và các cơ quan tham tham mưu giúp
việc về tôn giáo………………………………………………………………16
Bảng 2.1. Tổng hợp tín đồ các tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng
Xuân………………………………………………………………………….41
Bảng 2.2. Hội nghị tập huấn Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012
của Chính phủ cho cán bộ chủ chốt các ban ngành, đoàn thể cấp huyện và các
xã, thị trấn……………………………………………………………………52

vi



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử. C.Mác đã nhiều lần khẳng định:
Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người. Từ
khi ra đời, tôn giáo đã trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi
theo sự biến đổi của tồn tại xã hội, nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu
tinh thần của đa số nhân loại. Tôn giáo là văn hóa và là một bộ phận cấu
thành của văn hóa mỗi quốc gia nên tôn giáo có đóng góp đầu tiên là về văn
hóa, trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các
tộc người trong một quốc gia, theo cả các chiều tích cực và tiêu cực. Những
năm gần đây, tôn giáo trên thế giới không chỉ phục hồi và phát triển, đáp ứng
nhu cầu tâm linh của con người, mà còn làm nảy sinh không ít cuộc xung đột
giữa các dân tộc trong một quốc gia, hay giữa các quốc gia với nhau.
Tôn giáo có vai trò góp phần củng cố hoà bình. GS. Han King đã từng
khẳng định: Không thể có hòa bình giữa các dân tộc trên địa cầu, nếu không
có hòa bình giữa các tôn giáo. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, số lượng
người theo tôn giáo khá đông. Do đó, việc đề ra chính sách tôn giáo đúng đắn
và thực hiện có hiệu quả chính sách đó là một vấn đề quan trọng, không
những ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp và nhu cầu chính đáng của
một bộ phận nhân dân, mà còn tác động không nhỏ đến tình hình kinh tếchính trị-xã hội của đất nước. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước ta
luôn đưa ra và thực hiện tốt chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị là một dấu
mốc quan trọng trong đổi mới nhận thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/6/2004 của ủy ban Thường vụ Quốc hội,
1


Nghị định 92/NĐ-CP, ngày 08/11/2012 của Chính phủ (thay thế Nghị định

22/NĐ-CP, ngày 01/3/2005) hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo. Những văn bản trên thể hiện những bước tiến rất quan trọng trong việc
đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về hoạt
động tôn giáo; thể hiện sự tôn trọng tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân
và đáp ứng yêu cầu của công tác QLNN về tôn giáo ngày càng chặt chẽ, hiệu
quả hơn.
Tỉnh Phú Yên nói chung, huyện Đồng Xuân nói riêng là địa phương có
nhiều tín đồ, nhiều chức sắc tôn giáo. Thời gian gần đây cùng với quá trình
đổi mới đất nước, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng
Xuân có nhiều hướng phát triển mạnh.
Quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Đồng Xuân trong những năm
qua đã đạt được một số thành tựu thể hiện quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân luôn được đảm bảo, chức sắc nhà tu hành, tín đồ tôn giáo mở
rộng giao lưu, học tập, các cơ sở thờ tự tôn giáo được xây sửa khang trang.
Nhìn chung, chức sắc nhà tu hành và tín đồ tôn giáo tin tưởng vào đường lối
của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, yên tâm phấn khởi hành đạo,
tích cực tham gia vào phong trào thi đua yêu nước ở địa phương theo phương
châm "sống tốt đời đẹp đạo", " Phật pháp Xã hội chủ nghĩa (XHCN), đồng
hành cùng dân tộc"
Mặc dù vậy, QLNN về tôn giáo còn sơ hở, một số cán bộ quản lý còn
đơn giản hóa, chủ quan và chưa thấy hết tính phức tạp, nhạy cảm của công tác
tôn giáo. Các chức sắc, chức việc, nhà tu hành của các tôn giáo lợi dụng việc
mua bán, hiến tặng, quyên góp tiền, sang nhượng đất đai để cơi nới nơi thờ tự
trái phép, việc tranh chấp, lôi kéo người dân để phát triển tín đồ của một số
tôn giáo vẫn tiếp tục diễn ra ở một số xã trên địa bàn huyện, gây khó khăn
không nhỏ cho công tác quản lý tôn giáo của các cấp chính quyền
2


Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về tôn

giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học, chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ góc độ tôn giáo học, vấn đề tôn giáo ở Việt Nam đã được một số
nhà khoa học đề cập: TS. Ngô Hữu Thảo ( 1998) “Mối quan hệ giữa chính
trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” Đề tài Phân
tích mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo theo tinh thần đổi mới tư duy.
Đánh giá thực trạng, nguyên nhân, đặt ra một số vấn đề, đề xuất một số giải
pháp cơ bản nhằm giải quyết mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo, hoàn
thiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; TS. Hoàng Minh Đô, Chủ nhiệm đề tài (2002)
“Đạo Tin lành ở Việt Nam- thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề
đặt ra hiện nay trong công tác lãnh đạo, quản lý”, thuộc đề tài độc lập cấp
Nhà nước. Công trình này đã khai thác sâu mối quan hệ trực tiếp giữa đạo
Tin lành với các lĩnh vực của đời sống chính trị, đời sống xã hội và đời sống
tâm linh ở Việt Nam hiện nay; TS. Nguyễn Đức Lữ (2003) “Đổi mới chính
sách tôn giáo và Nhà nước quản lý tôn giáo hiện nay, những bài học kinh
nghiệm và kiến nghị cụ thể”. Tác giả đã nêu được tầm quan trọng của đổi
mới chính sách Tôn giáo, đưa ra bài học kinh nghiệm và kiến nghị cụ thể
QLNN về tôn giáo; GS. Đặng Nghiêm Vạn (2003) “Lý luận về tôn giáo và
tình hình tôn giáo ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
Đây là công trình mà tác giả đi sâu phân tích nhiều vấn đề khác nhau của tín
ngưỡng, tôn giáo, như: Diễn biến của những định nghĩa về bản chất tôn giáo,
yếu tố cấu thành một hình thức tôn giáo, nhu cầu, vai trò và diễn biến tôn
giáo trong đời sống xã hội.
3


Từ góc độ QLNN, vấn đề tôn giáo ở Việt Nam được đề cập trong một

số công trình nghiên cứu: Lê Hữu Tuấn (1999) “Ảnh hưởng của tư tưởng
triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam ” Công trình
đã nêu sự hình thành và phát triển của Phật giáo, tư tưởng triết học của Phật
giáo, sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh
thần của người Việt.; PGS. TS. Nguyễn Hữu Khiển (2001) “QLNN đối với
hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền
Việt Nam hiện nay” NXB Công an Nhân dân. Công trình đã nêu lên được
tầm quan trọng của QLNN đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiên xây
dựng nhà nước pháp quyền hiện nay; TS. Nguyễn Minh Thư (2005) “Quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một yêu cầu khách quan”. Công trình
đã nêu được yêu cầu tât yếu của việc QLNN về hoạt động tôn giáo, đề xuất
các giải pháp phù hợp để QLNN về tôn giáo ngày càng tốt hơn; Võ Mộng
Thu (2001) “Vấn đề quản lý nhà nước đối với Công giáo ở Đồng Nai hiện
nay”, Luận văn cao học. Luận văn phân tích sự ra đời và phát triển của đạo
Công giáo ở tỉnh Đồng Nai và đề xuất các giải pháp QLNN đối với đạo Công
giáo được hoàn thiện hơn; Lê Minh Quang (2001) “Quản lý nhà nước đối với
tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay- vấn đề và giải pháp” Luận văn cao học. Luận
văn đã nêu rõ tầm quan trọng của tôn giáo ở tỉnh Lâm Đồng, đồng thời đặc ra
vấn đề và giải pháp để QLNN về hoạt động Tôn giáo ở tỉnh ngày càng hiệu
quả hơn; Nguyễn Thị Tươi (2014) "Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn huyện Krông Búk tỉnh Đắk Lắk" Luận văn thạc sĩ Quản lý
công. Luận văn này đã đi sâu vào phân tích các giải pháp để QLNN đối với
hoạt động Tôn giáo trên địa bàn tỉnh ĐắkLắc ngày càng đi vào chiều sâu;
Những công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của
vấn đề tôn giáo và QLNN về tôn giáo là những tài liệu tham khảo có ý nghĩa
đối với tác giả luận văn.
4


Ở huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, cho đến nay QLNN về hoạt động

tôn giáo chưa có đề tài khoa học nào được công bố, mới chỉ được đề cập ở
một số báo cáo tổng kết của Ban Dân vận Huyện ủy, của Phòng Nội vụ
huyện, của UBND huyện. Vì vậy, với đề tài đã chọn, học viên hy vọng sẽ
làm sáng tỏ hơn những bất cập trong QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện
Đồng Xuân hiện nay, đồng thời kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện QLNN về tôn giáo trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài luận văn nhằm mục đích góp phần hoàn thiện QLNN
về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan cơ sở khoa học QLNN về tôn giáo, vận dụng vào huyện
Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên;
- Nghiên cứu thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng
Xuân, tỉnh Phú Yên;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về tôn giáo trên địa bàn
huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động QLNN về tôn giáo ở
cấp huyện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: hoạt động tôn giáo và QLNN về tôn giáo trên
địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
- Phạm vi về thời gian: nghiên cứu thực trạng từ năm 2009 đến nay và
đề xuất giải pháp cho thời gian tới.
5


- Phạm vi nội dung: tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng các nội

dung QLNN về hoạt động tôn giáo trên địa bàn cấp huyện.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận về phép biện
chứng duy vật và lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh;
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài, Học viên đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp (desk-study).
Phương pháp này chủ yếu tập trung nghiên cứu, tham khảo, phân tích các
văn bản, tài liệu, công trình khoa học, các số liệu khoa học đã được công bố
ở trong nước và nước ngoài có liên quan đến luận văn để hình thành cơ sở lý
luận.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Để đảm bảo tính khoa học, khách quan, trung thực trong đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân và tính
khả thi của giải pháp, học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã
hội học sau đây:
+ Phương pháp thống kê, mô tả: thống kê, xác định số lượng chức sắc
tín đồ tôn giáo thông qua thống kê từ số liệu báo cáo.
- Nhóm phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong quá trình nghiên cứu kinh
nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân qua đó
lựa chọn, xác định những nội dung, vấn đề có thể áp dụng vào điều kiện,
6


hoàn cảnh cụ thể của huyện Đồng Xuân.

- Nhóm phương pháp xử lý thông tin số liệu
Phương pháp này phân tích, tổng hợp, so sánh, dùng phần mềm tin
học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hóa cơ sở khoa học quản lý nhà nước về tôn giáo, vận dụng
trong quản lý các hoạt động tôn giáo ở huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Phân tích, đánh giá thực trạng từ đó xác định được những hạn chế và
nguyên nhân thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân,
tỉnh Phú Yên;
- Đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả QLNN về tôn
giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên thời gian tới;
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các nhà khoa học quản lý, trong nghiên cứu, học tập, giảng dạy
môn học QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân trong giai đoạn
hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về tôn giáo.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện
Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

7


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO
1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến luận văn
1.1.1. Tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm
Theo quan điểm của các nhà triết học duy tâm thì, tôn giáo - một hình
thái ý thức xã hội, đã ra đời và vẫn có cơ sở để phát triển trong suốt chiều dài
lịch sử nhân loại, từ cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ cho đến tận bây giờ.
Còn một số nhà duy vật lại có quan điểm khác, trong tác phẩm Chống
Duyhrinh, Ăngghen đã đưa ra những nhận định quan niệm tôn giáo “Mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người của
những lực lượng bên ngoài chi phối đời sống hàng ngày của họ, chẳng qua
chỉ là sự phản ánh trong đó lực lượng ở trần thế đã mang hình thức siêu trần
thế” [20, tr.437].
Tôn giáo là sản phẩm của con người, con người tạo ra tôn giáo để thỏa
mãn nhu cầu về đức tin- niềm tin tôn giáo, khi mà họ rơi vào trạng thái bất lực,
bế tắc. Tôn giáo đem lại cho họ niềm vui tinh thần theo kiểu “đền bù hư ảo”.
K.Marx viết “sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo
nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không
có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [20, tr.570].
Từ góc độ của khoa học QLNN, chúng ta có thể định nghĩa tôn giáo có
tổ chức như sau: Tôn giáo là một tổ chức, đại diện cho một tập thể người có
chung một niềm tin theo một giáo chủ hoặc một giáo lý và có một cấu trúc
nhất định thường gọi là giáo hội hay hội thánh.
8


1.1.1.2. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, một cách nhận thức về thế giới
nhưng đó là cách nhận thức hoang đường, hư ảo, trên cơ sở đức tin tôn giáo.
Tôn giáo chia thế giới thành hai phần và cho rằng thế giới hiện thực đầy rẫy
những đau khổ, bất hạnh, còn thế giới thần linh là thế giới của lòng nhân ái,
yêu thương và cưu mang con người. Là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo
phản ánh hoang đường hiện thực khách quan, lấy cái thứ yếu để thay thế cho
cái chủ yếu, lấy cái ít phổ biến để thay thế cho cái phổ biến.
Tôn giáo là sản phẩm của con người
Con người tạo ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo tạo ra con người.
Tôn giáo do con người tạo ra để thỏa mãn nhu cầu về đức tin tôn giáo, để xoa
dịu nỗi đau của con người trước những bất hạnh trong cuộc sống. Tôn giáo là
sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân mình
hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa. Nhưng con người không phải
là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là
thế giới con người, là nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra
tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược, vì bản thân chúng là thế giới lộn ngược.
Tôn giáo là lý luận chung của thế giới ấy, là cương yếu bách khoa của nó, là
logic dưới hình thức phổ cập của nó, là căn cứ phổ biến mà nó dựa vào để an
ủi và biện hộ.
Tôn giáo là một hình thức nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con
người
Nếu như Triết học ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người về
nhận thức quy luật chung của thế giới, Đạo đức học thỏa mãn nhu cầu về cách
đối nhân xử thế, Thẩm mĩ học thỏa mãn nhu cầu chân-thiện-mĩ thì tôn giáo
thỏa mãn nhu cầu về “niềm tin - đức tin” tôn giáo.
9


Tôn giáo xoa dịu nỗi đau của con người bằng thứ thuốc an thần và bù
đắp sự thiếu hụt của hiện thực bằng hư ảo. Thông qua đó, tôn giáo làm cho

con người cảm thấy được an ủi, được rũ bỏ những gì gọi là khổ hạnh nơi trần
thế, tìm kiếm cho mình những niềm vui tinh thần hư ảo. Đến với tôn giáo, con
người cảm thấy mình được gần gũi với đấng thiêng liêng, giải tỏa được những
phiền muộn trong cuộc sống hằng ngày của họ. Họ cảm thấy được chở che,
được bao dung, được dẫn dắt và họ thấy rằng tinh thần được siêu thoát.
1.1.1.3. Nguồn gốc hình thành tôn giáo
Nguồn gốc kinh tế-xã hội
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy do trình độ của lực lượng sản xuất
và điều kiện sinh hoạt vật chất còn thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối,
bất lực trước tự nhiên. Về sau, bên cạnh những sức mạnh tự nhiên lại xuất
hiện những sức mạnh xã hội. Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, giai cấp hình thành, đối kháng giai cấp nảy sinh. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp, các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp và con người ngày
càng chịu tác động của nhiều yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, may rủi, bất ngờ với
những hậu quả khó lường nằm ngoài ý muốn và khả năng điều chỉnh của
mình. Một lần nữa, con người lại bị động, bất lực trước lực lượng tự phát nảy
sinh trong lòng xã hội.
Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của những
bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất lực trong cuộc đấu tranh của
giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định thì sự nhận thức của con người về tự
nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Chức năng của khoa học
là tìm hiểu, khám phá ra những điều mà nhân loại chưa biết, vận dụng các tri
thức đã biết để tiếp tục nhận thức và cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con
10


người ngày một tiến bộ hơn.
Song ở thời kỳ lịch sử cụ thể thì khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết”

vẫn tồn tại, điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó chỉ được giải
thích một cách hư ảo qua các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa
học chứng minh nhưng trình độ dân trí thấp kém vẫn là mảnh đất màu mỡ cho
tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển.
Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Theo các nhà vô thần cổ đại thì “sợ hãi sinh ra thần linh Lênin viết:
“Sự sợ hãi trước những thế lực mù quáng của tư bản, mù quáng vì
quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó là thế lực bất cứ lúc nào
trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ, cũng đe dọa đem lại cho
họ và đang đem lại cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”,
làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần cùng,
một gái điếm và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của
tôn giáo hiện đại” [52, tr.520].
Thế giới hiện đại càng diễn ra những cuộc vật lộn, chà sát, bon chen...
đôi khi còn bất chấp cả đạo lý, bỏ qua nghĩa tình thì con người càng có nhu
cầu đến với tôn giáo. Ở đấy, người ta cảm thấy phần nào rũ bỏ được những
bụi bặm của cuộc sống trần tục để tiếp cận với thế giới xa lạ, huyền ảo nhưng
thanh cao và đầy hấp dẫn.
Tôn giáo còn làm giảm bớt nỗi lo sợ của con người trước bệnh tật và
cái chết. Nguyện vọng chung của con người là kéo dài sự sống, không ở kiếp
này thì ở kiếp sau. Người ta không muốn kết thúc sự tồn tại của mình bằng cái
chết thể xác. Đáp ứng tâm lý ấy, các tôn giáo đã chỉ ra một thế giới huy
hoàng, đẹp đẽ, thánh thiện và vĩnh hằng sau cái chết. Chính điều này đã giúp
con người chấp nhận cái chết thể xác một cách nhẹ nhàng, thanh thản hơn.
Thực ra, không chỉ có những tình cảm tiêu cực như sự sợ hãi, thất
11


vọng, bất lực mới hình thành và nuôi dưỡng niềm tin tôn giáo, mà ngay cả
những tình cảm tích cực như sự thỏa mãn, lòng kính trọng, biết ơn, kể cả

những ước vọng vươn tới chân, thiện, mĩ cũng khuyến khích người ta tìm đến
tôn giáo.
1.1.1.4. Vai trò của tôn giáo
- Mặt tích cực của tôn giáo
Tôn giáo xoa dịu nổi đau của con người khi con người rơi vào đau khổ,
bất hạnh. Đức tin tôn giáo giúp con người có thêm nghị lực để sống cho dù
đó chỉ là “sự đền bù hư ảo”. Con người hướng đến đấng siêu nhiên, tuyệt đối
hóa các đối tượng tín ngưỡng, tin tưởng và cầu mong được đấng thần linh cứu
cánh.
Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước. Tôn giáo đề cao tinh thần nhân ái, yêu thương
con người, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn, hướng con người đến
“chân-thiện-mĩ”, như Hồ Chủ tịch từng nói:
Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa
Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật
Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với đất nước ta. Họ đều
muốn mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu
hôm nay còn sống trên đời, nếu họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ chung sống
với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm học trò
nhỏ của các vị ấy [50, tr.152].
Một số sản phẩm tôn giáo là những công trình văn hóa có giá trị của
nhân loại và đất nước. Nhiều công trình như đền thờ, kinh sách, nơi thờ tự
của các tôn giáo trên thế giới là di sản văn hóa thế giới, kể cả hoạt động sinh
hoạt tôn giáo như lễ Phật Đản của Phật giáo, ở nước ta, nhiều đền chùa, nhà
12


thờ là những công trình có giá trị văn hóa nghệ thuật cao.
- Mặt tiêu cực của tôn giáo

+ Tôn giáo mang lại cho con người niềm tin mù quáng, niềm tin về
một thế giới hoang đường nơi mà chỉ có hạnh phúc và sự bác ái. Tôn giáo dẫn
con người đến khả năng bị hủy diệt, thậm chí hủy diệt hàng loạt. Tôn giáo chỉ
là “hạnh phúc hư ảo” của nhân dân, là “vòng quang thần thánh” trong cái biển
khổ của nhân dân, là “những bông hoa tưởng tượng” trên xiềng xích của con
người, là “mặt trời ảo tưởng” xoay quanh con người.
+ Tôn giáo mang tính bảo thủ và sức ỳ rất lớn. vốn là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh hoang đường thế giới khách quan và vì ý thức xã hội
luôn luôn biến đổi chậm hơn tồn tại xã hội cho nên tôn giáo có tính bảo thủ,
từ đó làm thui chột động lực cá nhân, con người trở nên thụ động, ỷ lại. Họ
luôn trông chờ vào sự giúp đỡ của những lực lượng siêu nhiên, không tự nổ
lực giải thoát mình bằng hành động cụ thể mà chỉ dừng lại ở “tư tưởng”. Tôn
giáo hạn chế sự phát triển tư duy duy vật, khoa học, làm cho con người có
thái độ nhẫn nhục, khuất phục, không tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc
tạo dựng hạnh phúc thật sự nơi trần gian mà lại hi vọng hạnh phúc ở một cuộc
sống sau khi chết mà theo cách gọi của họ thì đó là “thiên đường”.
+ Tôn giáo tham gia vào chính trị hoặc bị lợi dụng vào chính trị gây
mất ổn định chính trị, an ninh quốc gia.
Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng
để thực hiện ý đồ chính trị. Nhiều khi tôn giáo là thứ rượu mạnh, men say làm
cho người ta có thái độ mù quáng và hành vi cuồng tín. Tôn giáo cũng bị một
số người lợi dụng cầu lợi. Họ biến các không gian tôn giáo thành không gian
linh thiêng, thành nơi có thể “buôn thần bán thánh”.
1.1.1.5. Hoạt động tôn giáo

13


Hoạt động tôn giáo: Là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.

Hoạt động tôn giáo bao gồm 3 loại hoạt động cơ bản: Hoạt động hành
đạo, hoạt động quản đạo, và hoạt động truyền đạo.
Hoạt động hành đạo: chủ thể các hoạt động hành đạo là người tín đồ
hoặc người chức sắc, hoặc của một cộng đồng hay một tập thể chức sắc. Mục
đích của hoạt động hành đạo là nhằm thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân
hoặc của cả cộng đồng.
Hoạt động quản đạo: về cơ bản là hoạt động quản lý của đội ngũ chức
sắc tôn giáo nhằm đảm bảo cho giáo luật được thực thi trong nội bộ giáo hội.
Hoạt động truyền đạo: về bản chất là hoạt động tuyên truyền, phổ biến,
giới thiệu, bồi dưỡng cho người ngoài tôn giáo biết, hiểu và đồng ý gia nhập
vào tôn giáo của mình.
1.1.2. Quản lý nhà nước về tôn giáo
1.1.2.1. Khái niệm
QLNN về tôn giáo thực chất đó là QLNN đối với hoạt động tôn giáo là
quá trình sử dụng quyền lực nhà nước để tác động, điều hành, điều chỉnh các
quá trình hoạt động tôn giáo của các pháp nhân tôn giáo và các thể nhân tôn
giáo để hoạt động của các tôn giáo diễn ra theo đúng quan điểm của Đảng;
chính sách, pháp luật của nhà nước. Bởi vậy, QLNN về tôn giáo được hiểu
như sau:
Nghĩa rộng, là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật để
tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn
giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được
mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp, là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước, là quá
14


trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan
trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi

hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của
pháp luật.
Đối tượng QLNN về tôn giáo bao gồm hoạt động của các tín đồ, chức
sắc, nơi thờ tự, đồ dùng việc đạo, cơ sở vật chất và xã hội của tôn giáo và địa
điểm sinh hoạt.
1.1.3.2. Đặc điểm
Quản lý nhà nước về tôn giáo là chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng các hoạt động
tôn giáo phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ và phục vụ sự nghiệp xây
dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nhà nước quy định bằng pháp luật các hoạt
động tôn giáo nhằm bảo đảm quyền bình đẳng giữa các công dân, các tổ chức
xã hội trước pháp luật, hình thành khung pháp lý, làm cơ sở để các tôn giáo
thực hiện hoạt động của mình trong khuôn khổ pháp luật.
Quản lý nhà nước được thực hiện trên nhiều cấp độ, nhiều bộ phận
khác nhau (Chính phủ, Bộ, Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo tỉnh,
thành, Phòng Nội vụ huyện, thị xã, quản lý theo chiều dọc và chiều ngang).
Đại diện cho các cấp độ và các bộ phận cấu thành của QLNN đối với
hoạt động tôn giáo là chủ thể cầm quyền tương ứng (Chính phủ có Ban Tôn
giáo Chính phủ, tỉnh, thành có Ban Tôn giáo tỉnh, thành).
Chủ thể cầm quyền là nhân dân nhưng đại diện lãnh đạo là Đảng, quản
lý là Nhà nước.
1.1.2.3. Chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo bao gồm các cơ quan nhà nước
thuộc hệ thống hành pháp gồm: Chính phủ, UBND các cấp ngoài ra có các cơ
15


quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền quản lý như Bộ
Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường, Ban Tôn giáo Chính

phủ.
Theo Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức Chính quyền địa phương
2015 hiện nay quy định thì chủ thể tham gia quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo hiện nay gồm:
Bảng 1.1. Chủ thể quản lý nhà nước và các cơ quan tham mưu giúp việc về
tôn giáo
Cơ quan/chủ thể trực tiếpCấp hành
Cơ quan/chủ thể trực tiếp
chính tham mưu giúp việc

quản lý
Trung ương

Bộ Nội vụ (Ban Tôn giáo

Chính Phủ

Chính phủ)

UBND tỉnh
Cấp tỉnh

(Phó chủ tịch phụ trách

Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo)

Văn hóa - Xã hội)

Cấp huyện


Cấp xã

UBND huyện(Chủ tịch
UBND huyện)

Phòng Nội vụ (Phó trưởng
phòng phụ trách) hoặc
phòng Tôn giáo
Công chức Văn hóa - Xã

UBND xã

hội hoặc công chức VPTK

(Nguồn: tác giả tổng hợp)
1.1.3.4. Đối tượng quản lý
Đối tượng của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bao gồm:
tín đồ, tu hành, chức sắc, chức việc, các tổ chức tôn giáo và các hoạt động của
họ. Là công dân Việt Nam, các tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo vừa
mang những đặc điểm chung của người Việt Nam, vừa mang những đặc điểm
riêng của từng tôn giáo của người có đạo.
16


- Tín đồ tôn giáo, Họ là những người tin theo một tôn giáo và được tổ
chức tôn giáo thừa nhận. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, với
số lượng tín đồ tôn giáo chiếm 20% dân số cả nước. Vì vậy quản lý nhà nước
phải thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân thực hiện nhu cầu đó.
Ở nước ta đa số tín đồ tôn giáo là nông dân và nhân dân lao động. Họ là
những con người cần cù, sáng tạo trong lao động, anh hùng, gan dạ trong

chiến đấu. Trong thời kỳ đổi mới, đồng bào có đạo luôn gắn bó với Đảng,
Nhà nước, thực hiện "sống tốt đời đẹp đạo", cùng đoàn kết xây dựng mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Nhà tu hành, chức sắc, chức việc tôn giáo
Nhà tu hành, là tín đồ tôn giáo tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp
sống riêng mà giáo lý, giáo luật của tôn giáo đó quy định.
Chức sắc tôn giáo, là những tín đồ tôn giáo có chức vụ, phẩm sắc
trong tôn giáo, được các tổ chức giáo hội đào tạo, bổ nhiệm, tấn phong vào
các chức vụ, chức vị có thẩm quyền trong tổ chức tôn giáo. Họ là những
người lãnh đạo, hướng dẫn cho các tín đồ tôn giáo hành đạo theo pháp luật và
giáo lý, giáo luật.
Chức việc tôn giáo, là những tín đồ tôn giáo được chỉ định hoặc tập thể
tín đồ bầu vào các chức vị trong tổ chức cơ sở.
- Nơi thờ tự, là nơi tôn thờ thần tượng, nơi giảng bài kinh, thuyết pháp,
sinh hoạt của các tôn giáo. Nơi thờ tự có sự thống nhất giữa: vật chất, sự tôn
nghiêm, trụ sở và sinh hoạt tôn giáo.
- Đồ dùng việc đạo, bao gồm kinh, sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, cờ, đồ
tế khí, mỗi đồ dùng có vai trò và vị trí khác nhau, sử dụng trong từng nghi lễ
khác nhau trong sinh hoạt tôn giáo. Trong đó, kinh, sách, tượng, bài vị, đồ tế
khí là quan trọng nhất.
- Các cơ sở vật chất khác, bao gồm khuôn viên khu thờ tự, nhà cửa,
17


×