Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Ảnh hưởng phật giáo trong phong tục tang ma của người dân thị xã đông triều, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.87 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
------------

TRẦN THU HÀ

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO
TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,
TỈNH QUẢNG NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: TRIẾT HỌC
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY
KHÓA: QH-X-2014

Hà Nội, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
------------

TRẦN THU HÀ

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO
TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,
TỈNH QUẢNG NINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: TRIẾT HỌC
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY


KHÓA: QH-X-2014

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. PHẠM HOÀNG GIANG

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các thông tin
và số liệu được sử dụng là trung thực và ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả khóa luận

Trần Thu Hà


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành bài báo cáo khóa luận tốt nghiệp về đề tài “Ảnh
hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị xã Đông triều, tỉnh
Quảng Ninh” là một quá trình đòi hỏi sự dày công tìm tòi, khám phá, nghiên
cứu tài liệu và thăm hỏi khảo sát tại chùa. Ngoài sự nỗ lực của bản thân, em xin
được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy TS. PHẠM HOÀNG GIANG –
giảng viên khoa Triết học trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – người
đã hướng dẫn, tạo điều kiện cung cấp cho em những tư liệu và ý kiến đóng góp
quý báu.
Tuy nhiên do những hạn chế về cả mặt thời gian và kiến thức, bài báo cáo
của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong quý thầy cô cùng
bạn đọc đóng góp ý kiến để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2019
Sinh viên thực hiện


Trần Thu Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ NGHI LỄ
TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH .................. 6
1.1

Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và tình hình Phật giáo tại

xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .................................................................... 6
1.1.1

Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ........................................... 6

1.1.2

Tình hình Phật giáo tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .......... 12

1.2

Mối liên hệ giữa quan niệm về cái chết của Phật giáo và phong tục

tang ma của người Việt .................................................................................. 15
1.3

Nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh 18


1.3.1

Nguồn gốc và bản chất của phong tục tang ma ............................... 18

1.3.2

Một số đặc điểm nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều,

tỉnh Quảng Ninh............................................................................................ 23
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 27
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT
GIÁO TRONG PHONG TỤC TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,
TỈNH QUẢNG NINH ....................................................................................... 30
2.1

Nội dung ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại thị

xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh .................................................................. 30
2.1.1

Ảnh hưởng đến hình thức tổ chức tang lễ ........................................ 30

2.1.2

Ảnh hưởng của Tăng Ni và cư sĩ Phật tử trong đám tang ............... 34

2.1.3

Ảnh hưởng đến việc lập bàn thờ Phật trong tang lễ ........................ 39


2.1.4

Ảnh hưởng của Kinh Phật dùng trong phong tục tang ma .............. 42


2.1.5

Ảnh hưởng đến việc làm lễ cầu siêu cho người quá cố ................... 45

2.2.6

Ảnh hưởng đến nghi lễ cúng dường, bố thí, từ thiện sau tang ma ... 50

2.2

Đánh giá sự ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma tại

thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh từ góc độ triết học ............................ 54
2.2.1

Thế giới quan.................................................................................... 54

2.2.2

Nhân sinh quan................................................................................. 57

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 60
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 64
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 67



MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Qua hàng nghìn năm, tư tưởng Phật giáo đã du nhập, truyền bá và ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân nước ta. Đông Triều
là một vùng đất cổ, xưa gọi là An Sinh, là trung tâm Phật giáo đời Lý Trần, là
cái nôi của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền mang bản sắc Phật giáo
riêng của Việt Nam do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Những nền tảng
Phật giáo đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hóa tinh thần, phong tục
tập quán của người dân nơi đây, trong đó phải kể đến những ảnh hưởng của Phật
giáo trong phong tục tang ma.
Con người sinh ra, lớn lên, học hành, đỗ đạt, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ
cái rồi cũng có ngày trút hơi thở cuối cùng, xa rời cuộc đời. Có người chôn sau
mấy thước đất, có người trở thành một nắm tro tàn, cát bụi lại trở về với cát bụi.
Họ sống một cuộc sống bình thường như mọi người cho đến khi nhắm mắt xuôi
tay, để lại niềm thương tiếc cho những người còn sống. Theo thời gian, tang ma
là một trong số rất nhiều các phong tục tập quán chịu ảnh hưởng của tôn giáo,
trong đó chiếm phần lớn là Phật giáo. Khi du nhập vào nước ta, Phật giáo đã gạt
bỏ phần triết lý xa xôi, khó hiểu, trở về với cuộc sống trần thế hằng ngày. Những
quan điểm về đạo hiếu, lòng từ bi, bác ái, về linh hồn, thuyết luân hồi, nghiệp
báo… đã trở nên rất phù hợp với lối sống nông thôn, tình làng nghĩa xóm của
người Việt thông qua những nghi thức tiễn đưa một con người về nơi an nghỉ
cuối cùng.
Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân thị xã Đông Triều ngày càng được nâng cao. Tang ma cùng

những nghi thức của nó càng được coi trọng, đó là nơi thể hiện tấm lòng, sự tận
tụy của người sống đối với người đã khuất. Nhìn dưới góc độ văn hoá, phong
tục tang ma là một hiện tượng văn hoá xã hội phản ánh đặc trưng văn hoá tộc
1


người. Xét về mặt khoa học, nghiên cứu tang ma là hướng tiếp cận để tìm hiểu
những giá trị văn hoá truyền thống tộc người, góp phần vào quá trình giữ gìn và
phát huy văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, ở thị xã Đông
Triều, tỉnh Quảng Ninh chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính
chuyên khảo riêng về sự kết nối giữa Phật giáo và phong tục tang ma của người
dân địa phương nơi đây. Nghiên cứu tang ma của người dân Đông Triều là một
hướng tiếp cận nghiên cứu nhằm làm rõ những nét độc đáo, những giá trị văn
hóa – xã hội truyền thống của người Việt và những biến đổi trong tang ma dưới
tác động của tôn giáo và quá trình giao lưu văn hóa.
Trong bối cảnh hầu hết các chùa ở Việt Nam đều theo Tịnh Độ Tông và các
tín đồ có niềm tin Phật giáo đều mong muốn có nghi lễ cầu nguyện của Phật
giáo trong lễ tang của người thân, người viết xin được đề cập về “Ảnh hưởng
Phật giáo trong phong tục tang ma của người dân thị xã Đông Triều, tỉnh
Quảng Ninh” làm đối tượng để khảo cứu, qua đó nhận định được mức độ ảnh
hưởng của Phật giáo trong đời sống tâm linh của người dân địa phương. Nghiên
cứu tang ma của người dân thị xã Đông Triều vừa góp phần bảo lưu văn hóa tộc
người truyền thống vừa góp phần giúp cho các cán bộ quản lý văn hóa, các cơ
quan chức năng tiếp tục bảo tồn những giá trị tốt đẹp của phong tục tang ma
cũng như có những biện pháp thích hợp trong việc quản lý tôn giáo, tín ngưỡng,
hoạch định các chính sách đối với cộng đồng dân cư.
2.

Tình hình nghiên cứu


Phật giáo là một tôn giáo lớn nhất nước ta do vậy đã luôn được quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu các công trình tiêu biểu như: “Phật giáo nguyên thuỷ
đến thế kỉ XIII” của Trần Văn Giáp; “Việt Nam Phật giáo sử học” của Thích
Mật Thể; “Phật giáo Việt Nam” của nhiều tác giả do giáo sư Nguyễn Tài Thư
chủ biên, hay “Lược sử Phật giáo Việt Nam” của Thượng toạ Thích Minh
Tuệ… các công trình này đã tổng kết khái quát tiến trình lịch sử Phật giáo tại
Việt Nam. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả về Phật
2


Giáo ở Việt Nam như: “Tư tưởng Phật Giáo” của Nguyễn Duy Hinh đã đi sâu
nghiên cứu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Đặc điểm Phật giáo Việt
Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có tiếp
thu tôn giáo ngoại nhập. Còn nhiều tác giả như Thiền sư Đinh Lực và Cư sĩ Nhất
Tâm trong công trình “Phật giáo Việt Nam và Thế giới” đã mô tả Phật giáo và
những vấn đề cơ bản của Phật, Pháp, Thiền. Tôn giáo hiện hành và sự ảnh
hưởng của nó tới văn hoá, kinh tế, chính trị của các quốc gia, các dân tộc.
Tuy có các cách tiếp cận và sự cảm nhận khác nhau nhưng các tác phẩm
trên đã khám phá rất cặn kẽ và rành mạch về Phật giáo thế giới cũng như Phật
giáo Việt Nam – một thực thể tinh thần đã tồn tại hàng nghìn năm và không phải
với tư cách một tôn giáo ngoại nhập, mà đã được bản địa hóa từ rất lâu và vẫn
thường xuyên được bản địa hóa để trở thành một phần tâm linh của dân tộc Việt
Nam.
Nghiên cứu về phong tục tang ma có các công tình tiêu biểu như: Ngô
Bạch (2011) “Tục ma chay cưới hỏi”; Nguyệt Hạ (2005) “Phong tục hôn lễ
tang lễ tế lễ Việt Nam”; Hoàng Tuấn Phổ (2010)“Nguồn gốc – ý nghĩa tang lễ
người Việt”; Nhất Thanh (2016)“Đất lề quê thói”; Đào Duy Anh (2010)“Việt
Nam văn hóa sử cương”; Toan Ánh (2005) “Tín ngưỡng Việt Nam”; Hoàng
Quốc hải (2005) “Văn hóa phong tục”; Phan Kế Bính (2011) “Việt Nam phong
tục”...

Những tác phẩm này đã nghiên cứu các vấn đề phong tục, tập quán nói
chung và phong tục tang ma nói riêng. Các cuốn sách đã chỉ ra nguồn gốc, sự
hình thành các nghi lễ và ý nghĩa của chúng còn lại cho đến ngày nay, khẳng
định sự phong phú đa dạng của nền văn hóa nước ta. Ở đây, các cuốn sách đã
nhắc tới sự có mặt của Phật giáo trong tang lễ, song chỉ xuất hiện với tư cách
yếu tố tôn giáo đan xen vào phong tục tập quán và nền văn hóa bản địa, mà chưa
phải là một công trình nghiên cứu chuyên sâu.

3


Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tôn giáo và phong tục tập quán, tín
ngưỡng dân gian Việt Nam có các công trình tiêu biểu như: Trần Quốc Vượng
(2003) với “Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm”; Nguyễn Đăng Duy (1999)
với cuốn sách “Phật giáo với văn hóa Việt Nam”; Nguyễn Bá Hoàn (2007) với
cuốn sách “Phật giáo và cuộc sống: Chân dung và đối thoại”…
Liên quan đến đề tài khóa luận, cho đến nay chưa có một công trình nghiên
cứu nào chuyên sâu và cụ thể về sự ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tang
ma của người Việt dưới góc độ tôn giáo, triết học. Là một người dân Đông
Triều, tôi muốn đi sâu nghiên cứu để làm rõ sự ảnh hưởng của Phật giáo tới
phong tục tang ma tại địa phương mình qua một số biểu hiện cụ thể: Hình thức
tổ chức, thực hành tang lễ; Sự xuất hiện của yếu tố Phật giáo như Tăng Ni Phật
tử, bàn thờ Phật, kinh Phật, lễ cầu siêu, nghi lễ cúng dường … Qua đó, nêu lên ý
nghĩa triết học về thế giới quan cũng như nhân sinh quan của Phật giáo với
phong tục tang ma.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Khóa luận phân tích làm rõ những ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục
tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ:
Một là, khái quát về Phật giáo ở Việt Nam và nghi lễ tang ma tại thị xã
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Hai là, nghiên cứu những nội dung ảnh hưởng của Phật giáo trong phong
tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Ba là, đưa ra đánh giá ảnh hưởng của Phật giáo đối với phong tục tang ma
tại địa phương.
4


4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu
Những ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục tang ma.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu sự ảnh hưởng của Phật giáo đến phong tục tang ma
tại thị xã Đông Triều – tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ngày nay (cụ thể là nghiên cứu chủ yếu tại địa bàn thị xã Đông
Triều và một số chùa trên địa bàn như chùa Kỉnh, chùa Linh Ứng, chùa Tế, chùa
Chạo Hà, chùa Đồn Sơn, chùa Thiên Trúc…)
5.

Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng các phương pháp: phân tích – tổng hợp, phương pháp so

sánh – đối chiếu, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống – cấu trúc,
phương pháp liệt kê, phương pháp điều tra khảo sát bằng bảng hỏi, phương pháp
phỏng vấn…
Ngoài ra, khoá luận có tham khảo một số công trình nghiên cứu của các
học giả liên quan đến các vấn đề có trong đề tài này.
6.

Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khoá
luận gồm có 2 chương và 5 tiết.

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ NGHI LỄ
TANG MA TẠI THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH
1.1

Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và tình hình Phật giáo

tại xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
1.1.1

Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam

Phật giáo là một trào lưu triết học – tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế
kỷ thứ 6 TCN ở bắc Ấn Độ. Người sáng lập ra hệ thống triết học – tôn giáo này
là Tất Đạt Đa (Siddhatha) (khoảng 563 – 483 TCN), thái tử của vua Tịnh Phạn

(Suddhodana) thuộc bộ tộc Sakiya. Vị thái tử này đã từng theo học các tu sĩ Bà
La Môn từ năm lên bảy, kết hôn năm 16 tuổi, mười ba năm sau đó sống trong
cuộc đời vương giả, nhưng trong một đêm tháng Hai năm vừa tròn 29 tuổi, đã
lặng lẽ rời hoàng cung đi tìm chân lý. Trải qua sáu năm với những phương pháp
tu luyện ép xác nhưng không đạt được chánh đạo, nhưng chỉ sau 48 ngày nhập
định, Tất Đạt Đa ngộ rõ căn nguyên sinh thành, biến hóa của vũ trụ, căn nguyên
của những khổ đau, và đề ra phương pháp diệt trừ nỗi khổ đó cho chúng sinh,
bằng học thuyết “Nhân duyên sinh” và triết lý “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân
duyên”, “Bát chánh đạo”. Con người này đã đưa ông trở thành đức Phật Thích
Ca đầy uy nghiêm tinh thần trong đời sống của người phương Đông hết thế hệ
này đến thế hệ khác.
Giáo lý nhà Phật tuy có nhiều tông phái khác nhau, nhưng tựu trung những
điểm được đề cập sau đây vẫn là những nền tảng cơ bản.
Thế giới, vũ trụ, theo quan niệm Phật giáo, là luôn vận động, biến đổi, các
biến đổi diễn ra nhanh như chớp mắt, và thế giới thì không có trước, không có
sau, vô thủy, vô chung. Đó cũng chính là lẽ vô thường, tức không có gì là tồn tại
cố định, mà có đó, mất đó. Con người cũng thuộc dòng chảy không ngừng đó,
nên không gì là bản thân ta cả, tức vô ngã. Những biến đổi này, nói theo ngôn
6


ngữ hiện đại, là do tự thân vận động, không xuất phát từ bên ngoài, mà từ
lẽ nhân duyên, theo luật nhân quả, nghiệp báo. Tùy thuộc vào nghiệp báo mà
biến đổi của các sinh linh diễn ra trong cõi phàm và siêu phàm, hoán chuyển từ
cõi này sang cõi kia, đó là luân hồi.
Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ quan niệm cho rằng đời là bể khổ,
và nguyên nhân của nó là sinh, lão, bệnh, tử, là những ham muốn nhục dục, xuất
phát từ sự che lấp trí tuệ bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức), làm cho ta cố
chấp trong việc phân biệt cái ta và cái khác ta, dẫn đến thái độ “ngã chấp”, trọng
cái ta, khiến con người ta vô minh. Muốn thoát khỏi bể khổ thì phải diệt dục,

nhẫn nhục, từ bi, hỉ xả, hy sinh, đi theo con đường của bát chánh đạo: chánh
kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mệnh, chánh tinh tiến,
chánh niệm, chánh định. Những giáo lý mang nặng tính triết lý, đạo đức này đã
có một ảnh hưởng sâu rộng lên phong tục, tập quán, văn hóa, văn minh của
nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam ta.
Đạo Phật được truyền ra ngoài biên giới rất sớm theo hai hướng chính: Một
về phương Nam, hình thành nên phái Nam Tông (Phật giáo Tiểu Thừa), một về
phương Bắc hình thành nên phái Bắc Tông (Phật giáo Đại Thừa). Tiểu Thừa hay
Đại Thừa được coi như những cỗ xe đưa chúng sinh đến nơi thanh tịnh, đến giải
thoát, nhưng nếu Tiểu Thừa như “cỗ xe nhỏ”, ngụ ý chỉ chở một người thì Đại
Thừa như “cỗ xe lớn”, ngụ ý chở nhiều người. Tuy công năng của Phật giáo
Tiểu Thừa và Phật giáo Đại Thừa có sự khác nhau nhưng cả hai phái đều tôn
trọng những tư tưởng cơ bản về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích
Ca Mâu Ni.
Vào đầu công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với
Trung Đông, và gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một nguồn
cung cấp nguyên vật liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ giong buồm,
theo gió mùa tây nam mà đi về đông. Họ đến Giao Chỉ, rồi có thể từ Giao Chỉ
mà lại theo tiếp đường biển (đường gia vị) hay đường bộ (con đường Tơ lụa qua
7


thảo nguyên) vào trong nội địa Trung Hoa. Trong khi đợi gió mùa đông bắc để
quay về Ấn, sự lưu trú của số thương gia này đã lan truyền dần những nét văn
hóa Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng Phật, tụng kinh… Những tăng sĩ mà các
thương nhân đem theo trên thuyền buôn nhằm làm công việc cầu khấn sự phù
trợ của đức Phật, là những người đã trực tiếp truyền bá Phật học và lập nên trung
tâm Phật giáo Luy Lâu (Bắc Ninh). Du nhập vào nước ta, Phật giáo đã dung hòa
được với hệ tư tưởng, phong tục tập quán và tín ngưỡng của dân tộc, vì vậy nó
nhanh chóng tìm được chỗ đứng và có những ảnh hưởng nhất định với đời sống

văn hóa tinh thần nước ta.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ)
được phiên âm trực tiếp thành “Bụt” [16,27] từ đó chữ "Bụt" được dùng nhiều
trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Phật
giáo nam truyền được địa phương hóa, Bụt được dân gian hóa coi như một vị
thần cứu giúp người tốt. Sau này, vào thế kỷ thứ IV – V, do ảnh hưởng của Phật
giáo nhà Hán, Trung Quốc mà từ “Bụt” bị thay thế dần bởi từ “Phật”.
Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành “Phật đà”, “Phật đồ” rồi được
rút gọn thành “Phật”.
Vào thế kỷ II, sự thâm nhập của Phật giáo đã ở vào một giai đoạn mới, hình
thành tăng đoàn, công việc hành đạo từ đó mà cũng đi vào tổ chức, các tăng sĩ
bắt đầu dịch kinh, sáng tác, chùa chiền cũng đã được xây cất. Ở thế kỷ này, sự
hành đạo cũng gặp một ít trở ngại từ phía những người ủng hộ Khổng, Lão. Tuy
nhiên, điều đó không thể ngăn cản được ảnh hưởng của Phật giáo vì nó đã thâm
nhập vào dân gian.
Tinh thần hòa đồng giáo lý là nét nổi bật trong sự du nhập và định hình
Phật giáo Giao Châu trong thế kỷ thứ hai này. Phật giáo thâm nhập vào đây một
cách êm thấm, không có sự chống đối của tín ngưỡng dân gian. Tuy Phật giáo
cũng phải có một ít nỗ lực trước giới cai trị Hán tộc, nhưng không bằng sự phản
kháng, mà bằng sự hòa đồng. Điều này xuất phát từ tinh thần cởi mở của Phật
8


học, và Phật tử thì sẵn sàng học hỏi, đối thoại với những tư tưởng khác. Kết quả
của tinh thần này là không những đã sử dụng được từ ngữ Nho, Lão để truyền bá
Phật giáo, mà còn làm cho nghững người theo Khổng, Lão thấy được chiều sâu
của Phật học.
Sang thế kỷ V – VI, lại có thêm luồng Phật giáo đại thừa Bắc Tông từ
Trung Quốc tràn vào. Vào thế kỷ thứ VI, nước ta là một quốc gia có sự phát
triển hưng thịnh của Phật giáo. Từ Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được

truyền vào Việt Nam: Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông. Tuy nhiên, khi
truyền vào nước ta thì không có sự tách biệt rạch ròi, mà là sự tổng hợp các tông
phái cùng với phong tục tập quán, tín ngưỡng bản địa, vì vậy không có tông phái
nào là thuần khiết.
Thiền Tông lấy thiền định làm pháp tu (tu thiền: yên lặng mà suy nghĩ) chủ
trương của Thiền Tông là không câu nệ vào sách vở mà chủ yếu dựa vào thiền
định để giác ngộ Phật tính cho mình. Thiền Tông quan niệm Phật tại tâm, Phật
có ở mọi nơi, giáo lý của Thiền Tông gần gũi với chúng sinh, làm cho con người
tin vào mình, tin vào công lao tu dưỡng để thành công trong công việc tiếp nhận
chân lý. Ngoài ra, Thiền Tông còn có một số yếu tố khác dễ thu hút nhiều người
theo như lấy việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành, chấp nhận sự bần khổ và
xem lao động cũng là cách tu chân chính. Quan niệm như vậy đã làm cho Thiền
Tông dễ dàng đi sâu vào tầng lớp quần chúng lao động.
Tịnh Độ Tông do nhà sư Tuệ Viễn sáng lập ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ
IV, Tông phái này chủ trương thờ Tam Bảo (A Di Đà, Quan Thế Âm, Đại Thế
Chí) và niệm Phật, dựa vào Phật lực để giải thoát là chủ yếu, chủ trương dựa vào
sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu chúng sinh thoát khỏi đau khổ, đó là việc hướng
họ đến một cõi niết bàn cụ thể, gọi là cõi Tịnh Độ. Đây là tông phái mang tính
phổ quát, dân giã nên thu hút đông đảo tín đồ, tông phái này có những nét gần
gũi với người dân lao động. Với trình độ tư duy có hạn, người dân không hiểu
được sự cao siêu của giáo lý Phật giáo, bằng tấm lòng thành kính, họ mong được
9


Phật chứng giám để phù hộ, che chở, giúp đỡ họ có được sức mạnh, niềm tin để
có thể chiến thắng được những trở ngại trong cuộc sống.
Mật Tông (Chân Ngôn Tông) do một nhà sư Ấn Độ khai lập khoảng thế kỷ
thứ II sau Công Nguyên. Mật Tông được hình thành trên nền tảng tư tưởng của
Phật giáo Đại Thừa, nhưng cách tổ chức, tu tập lại mang màu sắc của Ấn Độ
giáo, có tính chất huyền bí, nặng về ẩn chú phù phép, lễ thức thờ phụng tương

đối phức tạp. Mật Tông đề cao vai trò của người xuất gia tu hành. Phật giáo Mật
Tông đáp ứng được nhu cầu tâm linh luôn đặt niềm tin vào sự che chở của thánh
thần, cầu mong có những bùa phép để chế ngự ma quỷ, đem lại yên bình cho
cuộc sống của người dân nước ta lúc đó. Đây là phái chủ trương sử dụng những
phép tu huyền bí để thu hút tín đồ và mau chóng hòa vào dòng tín ngưỡng dân
gian với những truyền thống cầu đồng, dùng pháp thuật…
Tới thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh.
Những người thâm thúy về đạo Phật như Từ Đạo Hạnh, Khổng Lộ, Mẫn Giá, Lư
Ân đều là những bậc danh nho. Chùa chiền được xây tại khắp trong nước, dân
chúng tô tượng, đúc chuông, sùng bái đức Phật Thích Ca.
Sang thời Hậu – Lê, nhà nước lấy Nho giáo làm chủ đạo tinh thần nên Phật
giáo dần suy giảm. Nói vậy không phải đạo Phật không còn ảnh hưởng với dân
chúng nữa, đạo Phật vẫn được dân chúng theo và tin nhưng song song với đạo
Phật là đạo Nho và đạo Lão. Trong thời kỳ này, tại miền Bắc, thuộc ảnh hưởng
của Chúa Trịnh, đạo Phật đi vào con đường suy giảm, thì ở miền Trung, thuộc
ảnh hưởng của chúa Nguyễn, Phật giáo lại bắt đầu thịnh đạt. Chính chúa
Nguyễn Hoàng đã cho xây dựng chùa Thiên Mụ vào năm 1601 tại Thuận Hóa.
Khi Pháp sang đô hộ Việt Nam, Phật giáo đi vào chỗ suy kém. Người Pháp
đã tận tình nâng đỡ Công giáo nên chèn ép đạo Phật. Đi vào chỗ suy kém, nhưng
Phật giáo không bao giờ bị diệt vong tại Việt Nam vì tín đồ đạo Phật, mặc mọi
hoàn cảnh hình thức bên ngoài, luôn luôn tin ở đạo, vì đạo càng bị chèn ép thì
lòng tin tưởng của tín đồ lại càng mạnh mẽ hơn. Vào những thập niên đầu thế kỷ
10


XX, do ảnh hưởng phong trào chấn hưng Phật giáo trên thế giới, Phật giáo Việt
Nam cũng chuyển mình phục hưng, khởi đầu từ các đô thị miền Nam rồi miền
Trung với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện
Chiếu. Cho đến năm 1964, các hội đoàn Phật giáo miền Nam Việt Nam đã thống
nhất dưới một mái nhà chung là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và

sau 17 năm hoạt động giáo hội này đã ngưng mọi sinh hoạt vào năm 1981. Sau
khi hai miền Nam Bắc thống nhất vào năm 1975, năm 1981 chín tổ chức Phật
giáo trong cả nước đã tổ chức đại hội, thống nhất làm một và lấy danh hiệu là
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Cho tới ngày nay, nhân dân một phần lớn theo đạo Phật, và bất cứ ở đâu
trong thời bình, ta cũng được nghe thấy tiếng chuông chùa văng vẳng thu không
lúc tinh sương cũng như buổi chiều tà. Mỗi làng, mỗi xóm đều có ít nhất một
ngôi chùa. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2009, có
6.802.318 tín đồ Phật giáo [37], còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình
Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm
Phật đường… [38]
Phật giáo Ấn Độ và nhiều nước khác không chủ trương nhập thế mà là một
tôn giáo xuất thế. Trong lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng có thời
kỳ như vậy, nhưng nhìn chung, Phật giáo nước ta là Phật giáo nhập thế. Phật
giáo xuất thế nhấn mạnh “đời là bể khổ” và con đường thoát khỏi bể khổ là tu
tập kiên trì để đạt tới cõi Niết bàn không còn đau khổ và bất công. Phật giáo
Việt Nam nhấn mạnh nguyên nhân của nỗi khổ là do chính con người và xã hội
nên Phật giáo Việt Nam thường coi việc đạo chính là cuộc đời. Con đường thoát
khổ là con đường đấu tranh diệt ác, tu nhân tích đức thành người lương thiện và
khuyến khích con người làm việc thiện dưới nhiều hình thức phù hợp với hoàn
cảnh của mỗi người.

11


Dù Phật giáo bị thăng trầm, truân chuyên theo vận nước, nhưng Phật
giáo đã hoà vào lòng dân tộc, tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt
Nam. Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc, đã đồng cam cộng khổ với dân
tộc, cùng dân tộc đi qua bao khúc quanh của lịch sử, chịu đựng bao nỗi thăng

trầm của thời cuộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Điểm này chúng
ta dễ dàng nhận thấy qua những thời đại cực thịnh của đất nước đều là những
lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh như thời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần v.v...
Tuy quyện mình vào lòng dân tộc nhưng giáo lý chứa đựng trong ba tạng
kinh điển của Phật giáo vẫn giữ được vẻ tinh khiết vốn có của nó và dòng
thiền Trúc Lâm đã được khôi phục vào cuối thế kỷ thứ XX, tiếp nối mạng mạch
của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
1.1.2

Tình hình Phật giáo tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh

Đông Triều – Triều đình phía Đông, tên gọi địa danh này được đặt từ đời
vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369), xưa kia gọi là An Sinh – là quê gốc của nhà
Trần – một trong những triều đại hùng mạnh nhất lịch sử Việt Nam. Nếu Kinh
đô Thăng Long và Thiên Trường Nam Định là hai trung tâm chính trị, thì Đông
Triều là một trung tâm văn hóa đặc sắc của nhà Trần với những chùa tháp nổi
tiếng, là nơi nhiều vị quốc sư tu hành đắc đạo. Đông Triều có các dấu tích chùa,
tháp độc đáo qua suốt các thời kỳ Lý – Trần – Lê, đóng góp to lớn vào việc khai
sinh, hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – tông phái Phật
giáo Việt Nam duy nhất, phát triển thành công nhất trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam.
Thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258 – 1368) khai sáng với
ba Thiền sư kiệt xuất là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Vua Trần
Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, một Thiền sư
cư sĩ nổi tiếng đời Trần. Sau khi xuất gia, vào năm 1299, với đạo hiệu là Trúc
Lâm Đầu Đà, Ngài lên tu ở núi Yên Tử (nay thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh
Quảng Ninh) và tại đây, lập ra Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền Việt Nam
12



đầu tiên, mang tính chất độc lập Việt Nam với sự kết hợp hài hòa của Phật giáo
Ấn – Hoa. Lập ra Thiền phái Trúc Lâm này, Trần Nhân Tông đã thống nhất
được ba Thiền phái tồn tại trước đó là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và
Thảo Đường, đồng thời thu toàn bộ Giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.
[30,16].
Nối tiếp Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa (Đồng Kiên Cương, 1284 –
1330). Qua hơn hai mươi năm lãnh đạo, Pháp Loa đã cho sang khắc bộ Đại
Tạng kinh với hơn 5.000 quyển, xây dựng hàng trăm ngôi chùa như Báo Ân,
Quỳnh Lâm, Thanh Mai và trực tiếp giảng dạy giáo lý, có tới ba nghìn đệ tử đến
cầu pháp và đắc pháp. Ông để lại các tác phẩm khuyên người xuất gia chăm lo
việc tu đạo, khuyên mọi người hiểu sâu con đường tu thiền chân chính bằng việc
học giới luật, thiền định và trí tuệ, chỉ rõ cách học cần sáng tỏ.
Người cuối cùng trong số ba vị tổ Trúc Lâm là Huyền Quang (Lý Đạo Tái,
1254 – 1334), hơn Pháp Loa tròn ba mươi tuổi nhưng lại tu hành muộn hơn,
từng làm quan trong triều đình rồi mới từ chức đi tu.
Nhìn chung Thiền Phái Trúc Lâm là một dòng Thiền tổng hợp được ba yếu
tố đặc thù của xã hội. Trần Nhân Tông đại diện cho quý tộc, Pháp Loa đại diện
cho nông dân và Huyền Quang đại diện cho Nho sĩ. Sự Tổng hợp đó đã tạo nên
nét đặc thù của Thiền phái Trúc Lâm mà các Thiền phái trước đó không có
được, kể từ đó, đạo Phật đi vào xã hội với tinh thần nhập thế cụ thể, giáo hội tổ
chức chặt chẽ, củng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc, xây dựng đất nước phồn
vinh. Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không những mang ý nghĩa rất
lớn về tính tự chủ của dân tộc ta từ kinh tế, chính trị, văn hóa mà đến cả tôn giáo
cũng không bị lệ thuộc vào các dòng thiền trước ảnh hưởng từ Trung Hoa. Từ
mô hình tổ chức đến nội dung tu tập hành trì thể hiện bản sắc dân tộc của nước
Đại Việt.
Nằm trên địa bàn thị xã Đông Triều, gắn với sự ra đời của Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử là khu di tích lịch sử nhà Trần với quần thể khu lăng mộ, nơi thờ
13



cúng và dấu tích những ngôi chùa, tháp, am… được xem là trung tâm Phật giáo
của nước Đại Việt thời bấy giờ. Trên đất Đông Triều hiện nay có ba di tích chùa
nổi tiếng liên quan trực tiếp đến sự phát triển của tông phái Trúc Lâm là chùa
Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên và đặc biệt là am và chùa Ngoạ Vân.
Chùa Quỳnh là ngôi chùa hoàng gia to lớn, do Quốc sư Nguyễn Minh
Không xây dựng dưới thời vua Lý Thần Tông (1116 – 1138). Đến thời Trần,
dưới sự trụ trì của Pháp Loa, chùa đã trở thành một trung tâm truyền bá bậc nhất
của Thiền phái Trúc Lâm, cho xây dựng thành Quỳnh Lâm viện, làm nơi giảng
kinh, đào tạo các đệ tử, in kinh Phật truyền bá đi các nơi. Nhiều vua Trần và các
vương hầu quý tộc, danh sĩ thường đến chùa và cúng ruộng đất hay tiền của cho
chùa. Sư Pháp Loa còn cho đúc nhiều tượng, trong đó có tượng Di Lặc nổi tiếng,
là một trong “An Nam tứ đại khí”. Đầu thế kỷ XV, khi giặc Minh vào xâm
chiếm nước ta, chúng tàn phá tự viện Quỳnh Lâm, tượng Di Lặc để đúc súng.
Đó là lý do vì sao tu viện Quỳnh Lâm to lớn dưới thời Trần nay chỉ còn là
những phế tích nằm sâu dưới lòng đất. Vào thế kỷ XVI – XVIII, cùng với sự
phục hồi của Phật giáo, chùa được đại trùng tu và tiếp tục giữ vai trò là trung
tâm Phật giáo của xứ Đông. Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, thiền sư Chân
Nguyên chọn chùa Quỳnh Lâm là nơi khởi xuất việc khôi phục lại dòng Thiền
Trúc Lâm. Tiếp nối sự nghiệp đó, đệ tử của Ngài Chân Nguyên là Thiền sư Như
Hiện đã tiếp tục xây dựng, tôn tạo trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm. Năm 1730,
dưới sự hỗ trợ của triều đình Lê – Trịnh mà trực tiếp là chúa Trịnh Giang, toàn
bộ chùa đã được xây dựng lại. Triều đình đã huy động đinh tráng của các huyện
Đông Triều, Chí Linh và Thủy Đường trong nhiều năm để tham gia xây dựng.
Trong thế kỷ XX, chùa bị nhiều tai họa, nhất là vụ cháy chùa năm 1910, vụ máy
bay quân Pháp ném bom năm 1947. Từ năm 1997, huyện Đông Triều đã thường
xuyên cho trùng tu lại chùa như hiện nay. [30,34-35]
Chùa Hồ Thiên (cõi Tiên an lạc) nằm trên núi Trù Phong được Pháp Loa
cho xây dựng vào năm 1327. Theo tương truyền Hồ Thiên là nơi các vị cao tăng
14



tu luyện sau khi hoàn thành xuất sắc khóa học tại Quỳnh Lâm viện như một sự
tiếp nối và biểu trưng cho kết quả khổ luyện, tu hành, cho cõi Niết bàn đối với
những người đi theo con đường của Trúc Lâm Tam tổ. Dưới thời Lê Trung
Hưng, cùng với các chùa Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm, chùa Hồ Thiên được triều
đình nhà Lê cho đại trùng tu và tôn tạo. [29,41-42]
Chùa, am Ngọa Vân là một quần thể kiến trúc chùa tháp lớn của Thiền phái
Trúc Lâm trên dãy Yên Tử, nơi Đức vua, Phật hoàng Trần Nhân Tông tu hành
và hóa Phật. Cũng bởi thế, nơi đây là thánh địa của Phật giáo Trúc Lâm. Tháng
8 năm 1299 Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia vào núi Yên Tử tu hành
khổ hạnh. Sau một thời gian, Ngài xuống núi, đi khắp xóm làng, dậy dân chúng
phá bỏ dâm từ và thực hành thập thiện, ban thuốc chữa bệnh cho dân nghèo.
Tháng 05 năm 1307, Ngài lên tu tại một am trên Ngọa Vân. Tháng 11, năm
1308 Ngài an nhiên nhập Niết Bàn. Trong hành trình tu luyện và nhập diệt của
Phật hoàng, Yên Tử là nơi Ngài tu luyện, giảng pháp, độ tăng và Ngọa Vân là
nơi kết thức trọn vẹn quá trình tu luyện và thành Phật của Ngài. Sau khi Phật
hoàng hóa Phật, nhờ sự giúp đỡ của vua Trần Anh Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa đã
xây dựng và mở rộng thánh địa Ngọa Vân thành một quần thể chùa tháp lớn.
Công tác chăm lo cho sự hưng thịnh của Phật giáo còn được thị xã Đông Triều
quan tâm trùng tu và tôn tạo chùa cho đến ngày nay. [29,21]
Có thể nói, An Sinh – Đông Triều là một trung tâm văn hóa tín ngưỡng,
tâm linh tôn giáo, giữ vai trò bồi đắp bệ đỡ tinh thần cho xã hội và nhân dân cả
nước trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xứng đáng là kinh đô Phật giáo nước
Đại Việt đời Lý – Trần. Ngày nay song song với Công giáo, đạo Phật là tổ chức
tôn giáo có tư cách pháp nhân và được hoạt động tại thị xã Đông Triều theo quy
định của pháp luật, phân bố ở 21 xã, phường, thị trấn.
1.2

Mối liên hệ giữa quan niệm về cái chết của Phật giáo và phong


tục tang ma của người Việt

15


Trong y học, chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống. Cái chết có thể được
chia làm hai loại: chết lâm sàng và chết thật (khi các mô không còn hoạt động
được nữa và bắt đầu phân hủy). Theo quan niệm của Phật giáo, sống chết là lẽ
thường nhiên. Trong Kinh có ghi “Tử hoàn toàn không đáng sợ, vì Tử là bắt
đầu của Sanh (Nên biết sanh sanh, tử tử là Luật Nhân Quả. Cần niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ).
Người Phật Tử coi cái chết là một trong 4 khâu của định luật “thành, trụ,
hoại, diệt”. Bất cứ sự vật nào thuộc thế giới hiện tượng, nghĩa là có hình có
tướng, đều phải trải qua bốn giai đoạn của hiện hữu: Thành (từ chưa có trở nên
có), Trụ (tồn tại một thời gian), Hoại (bị hư hoại, yếu dần, suy thoái), và Diệt
(cuối cùng bị tiêu diệt, mất đi, không còn tồn tại nữa). Theo định luật này, phàm
cái gì có sinh thì phải có diệt. Chết chính là khâu cuối cùng của 4 giai đoạn hiện
hữu trên cho mọi vật sống, mọi chúng sinh, là giai đoạn từ có trở về không. Vì
thế, Phật giáo không thể chấp nhận một linh hồn đã được sinh ra mà sau đó lại
tồn tại vĩnh cửu, hay một thể xác sống lại để rồi tiếp tục sống mãi. Nếu có một
linh hồn bất tử, thì linh hồn đó ắt phải có từ trước muôn đời không do ai sinh ra
cả.
Như vậy, con người sinh ra rồi chết đi có phải là hết không? Thưa không,
vì cái chết theo quan niệm Phật giáo nó không phải sự đối nghịch với sự sống
mà chỉ là sự ngược chiều của sự sinh. Nếu như sự sống là xuôi dòng thì cái chết
là ngược dòng, nó làm thành một chu kỳ ngược xuôi bất tận. Nhưng suy cho
cùng cái chết hay của con người hay những chúng sinh khác đều phụ thuộc vào
sự xoay vòng của vũ trụ. Con người sinh ra chết đi ở kiếp này rồi lại sinh ra và
chết đi ở kiếp sau. Như vậy, trước kiếp hiện tại ta đang sống, thì ta cũng đã từng

sống hằng hà sa số kiếp, và sau kiếp sống này, ta còn sống hằng hà sa số kiếp
sống khác nữa. Đó chính là luân hồi.
Thực tế nhà Phật quan niệm rằng có 10 cảnh giới: Phật, Thanh văn, Duyên
giác, Thiên, Nhân, Atula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh… Trong 10 cảnh giới
16


đó, 4 cảnh giới trên sẽ không phải chịu luân hồi, còn 6 cảnh giới dưới bao gồm:
Thiên, Atula, Nhân, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh thì vẫn phải chịu luân hồi, nếu
hết phúc thì có thể bị đọa. Hơn thế nữa, việc vong linh được nương vào vào 4
cảnh giới trên hay 6 cảnh giới dưới còn tùy thuộc vào hạnh nguyện của người đã
mất. Người nào kiếp trước làm nhiều tội ác thì khi chết xuống Âm phủ sẽ bị tội
rồi lại phải đầu thai vào kiếp súc vật, hoặc bị đày đọa nơi cõi quỷ hay địa ngục.
Những người làm điều lành sẽ trở lại kiếp người, hoặc được lên cõi trời, cõi
Phật.
Người Việt Nam quan niệm chết không phải là cái họ nghĩ như một hiện
tượng tự nhiên mà đó là một sự chuyển khiếp từ trạng thái ý thức này sang trạng
thái ý thức khác. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ sống, chu kỳ
này được biểu hiện bằng một vòng tròn sự sống, cái chết là nhịp cầu chuyển tiếp
giữa cõi âm và cõi dương, giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Người
Việt luôn tin tường vào tổ tiên của mình rất linh thiêng. Dù những người thân
của họ đã qua đời nhưng họ vẫn luôn quan niệm ông bà tổ tiên vẫn đang sống
cạnh con cháu, phù hộ con cháu khi gặp khó khăn, chia vui khi thành đạt,
khuyên giải nhắc nhở con cháu khi làm điều sai trái.
Tư tưởng của Phật giáo về sự sống và cái chết đã có ảnh hưởng lớn đến đời
sống tâm linh của người Việt. Cuộc sống là bể khổ, muốn thoát khổ thì phải tích
thiện, để khi chết được đầu thai vào kiếp người. Trong cuộc sống phải từ bi bác
ái, phải hiếu kính với cha mẹ để“ở hiền rồi sẽ gặp lành”. Tư tưởng của đạo Phật
về cái chết làm cho quan niệm về cái chết của người Việt không còn nặng nề,
chết là sự chuyển hóa, để tiếp tục sinh sôi nảy nở. Chết chỉ là sự tiêu tan của thể

xác, còn linh hồn vẫn hiện hữu và trở về với gia đình. Chết chẳng qua chỉ là một
cuộc trơ về gặp ông bà tổ tiên, và Phật là người cứu độ, chỉ đường cho tổ tiên
được giải thoát về cõi “sinh tử luân hồi”. [36,65-67]
Tôn giáo, dù nhất thần, đa thần hay thậm chí vô thần, đều ít nhiều hướng
dẫn các cách thức trợ giúp người chết ra đi một cách thanh thản và gia quyến
17


của họ. Tuy nhiên, khi mới thành lập Phật giáo không dạy một nghi thức cầu
nguyện nào về lễ tang, ngoại trừ những bài kinh để giúp người sắp chết ra đi nhẹ
nhàng theo nghiệp; nhưng khi Phật giáo được truyền sang các nước có nền văn
hóa Khổng, Lão như ở Trung Quốc và Việt Nam… thì việc cầu nguyện cho
người chết trở nên không thể thiếu.
Nghi thức ma chay theo Phật giáo được rút trong quyển “Tam giáo Chánh
Độ” (có lẽ xuất phát từ nghi lễ của cung đình, không rõ tác giả), được Bách Tổ
Trượng (ở núi Qui – Trung Quốc) rút lượt và sáng chế ra. Trong quyển Bách
Trượng Thanh Quy có nói: “Tổ Bách Trượng dựng Tòng lâm, lập quy củ, chế ra
thanh quy để ổn định và chấn quy phong của thiền gia…” Trong đó có nghi thức
dành cho chư tăng khi viên tịch, bởi ngài nghĩ không lẽ chết rồi cứ bó lại đem
chôn hay hoặc có làm thì mỗi người theo mỗi cách, nên ngài mới lập ra các nghi
thức dành cho người sau khi chết như nghi nhập quan, nghi trà tỳ… Nội dung
các nghi thức này là dùng pháp niệm Phật để hóa độ. [36,68] Tồn tại cùng với
nền văn hóa bản địa ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, các tôn giáo ngoại nhập
buộc phải thích nghi để tồn tại và một trong những thích nghi quan trọng là nghi
lễ cầu nguyện. Mặc dù vậy, nghi lễ Phật giáo lại không hoàn toàn đóng vai trò
nòng cốt trong một lễ tang của tín đồ Phật tử Việt Nam mà nó chỉ chiếm một
phần quan trọng trong nhiều yếu tố pha trộn bao gồm tôn giáo, tập tục và tín
ngưỡng dân gian.
1.3


Nghi lễ phong tục tang ma tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng

Ninh
1.3.1

Nguồn gốc và bản chất của phong tục tang ma

Bất cứ một xã hội nào đều có những phong tục riêng biệt, được hình thành
từ những tập quán đã trải qua hàng ngàn năm và được xã hội chấp nhận.
Theo Phan Kế Bính: “Mỗi nước có một phong tục riêng, phong tục ấy kỳ
thủy hoặc bởi một vài người mà bắt trước nhau rồi thành ra thói quen hoặc bởi
phong thổ và cách chính trị, cách giáo dục trong nước mà thành ra. Hoặc bởi cái
18


phong trào ở ngoài tràn vào mà rồi dần dần tiêm nhiễm thành tục. Nhưng đại để
tục gì cũng vậy phải trải qua lâu tháng lâu năm mới thành được, mà trong những
tục ấy, cũng có tục hay cũng có tục dở. Duy chỉ bởi tai mắt người đã quen, lòng
người đã tín dùng, thì dẫu có người biết là dở mà cũng không sao đổi ngay
được”. [12,6]
Như vậy, có thể nói phong tục chính là một quy ước đạo lý bất thành văn
mà người trong xã hội ấy phải tuân thủ, là toàn bộ những hoạt động sống của
con người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được
cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không
mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện
như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối
bền vững và tương đối thống nhất. Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương,
tầng lớp xã hội hay thậm chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của
văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng
đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ,

lên lão và chết đi… Tuy nhiên, vì phong tục mỗi thời đại lại thay đổi dần theo
nền dân trí, đồng thời với nền văn minh loài người, lại tùy theo quan niệm riêng
từng người hoặc theo từng hoàn cảnh mà tăng giảm nên trở thành “tam sao thất
bản”, làm cho người đời sau muốn giữ lại nét phong hóa đặc thù của dân tộc
nhiều khi cũng băn khoăn, không biết thực hành như thế nào cho đúng và dần
dần mai một đi, thậm chí vì quá tin tưởng mà đi đến mê tín dị đoan. Cùng với lễ
cưới, lễ tết…tang ma là một trong những phong tục quan trọng của người Việt
được truyền giữ bao đời nay.
Nếu như “quan” có nghĩa là đánh dấu sự trưởng thành của người nam
(theo tục xưa), thì “tang” lại là sự kết thúc một kiếp người và thường biểu hiện
qua sự sầu đau, khổ não. Đám tang hay còn gọi tang lễ, tang ma là phong tục
tiễn đưa của người sống thực hiện với người vừa mất, từ lúc hấp hối cho đến khi
chôn cất, nhằm thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với người đã khuất. Sinh
19


×