Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với việc Mĩ triển khai hoạt động “Ngoại giao tam giác” với Liên Xô và Trung Quốc giai đoạn 1969-1972

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.06 KB, 9 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE

Social Sci., 2011, Vol. 56, No. 2, pp. 18-26

TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN TRANH VIỆT NAM ĐỐI VỚI
VIỆC MĨ TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG “NGOẠI GIAO TAM GIÁC”
VỚI LIÊN XÔ VÀ TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 1969-1972

Phạm Thị Thu Hương

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

1.

Mở đầu

Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) không chỉ là cuộc kháng chiến chống Mĩ,
giải phóng và thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam mà còn là bộ phận điển
hình của cuộc Chiến tranh Lạnh giữa hai cường quốc Xô – Mĩ trong nửa cuối thế
kỉ XX. Tuy nhiên cuộc chiến này không hoàn toàn bị chi phối bởi các nước lớn theo
quy luật thường thấy trong quan hệ quốc tế. Ở một chừng mực nhất định, cuộc
chiến đã có tác động mạnh mẽ đến chiến lược và chính sách của các nước lớn. Đặc
biệt, trong quá trình Mĩ triển khai hoạt động “ngoại giao tam giác” với Liên Xô và
Trung Quốc giai đoạn 1969 – 1972, chuyển từ quan hệ đối đầu gay gắt sang quan hệ
hoà dịu, chiến tranh Việt Nam đã đóng vai trò như là một động lực và chất xúc tác
quan trọng mặc dù sự đảo chiều của các mối quan hệ này thực tế chịu tác động của
nhiều yếu tố khác nhau. Vậy, những cơ sở nào để chiến tranh Việt Nam có thể trở
thành một nhân tố tác động tới việc triển khai hoạt động “ngoại giao tam giác” của
Mĩ với Liên Xô và Trung Quốc trong giai đoạn 1969 – 1972, và nó đã có tác động
cụ thể như thế nào? Đó là những vấn đề cơ bản bài viết này muốn làm sáng tỏ.


2.
2.1.

Nội dung nghiên cứu
Khái quát về sự thiết lập quan hệ “ngoại giao tam giác” Mĩ
- Xô - Trung đến năm 1972

Quan hệ “ngoại giao tam giác” là mối quan hệ tay ba với đặc thù quan hệ giữa
hai chủ thể này có ảnh hưởng đến hoặc bị ảnh hưởng bởi quan hệ của một trong
hai chủ thể đó với chủ thể thứ ba còn lại. Điều này xuất phát từ sự tồn tại đồng
thời các quan hệ vừa đối đầu, vừa hợp tác lại vừa kiềm chế lẫn nhau giữa các chủ
thể. Trong quan hệ ngoại giao tam giác Mĩ – Xô - Trung, Mĩ và Liên Xô là hai lực
lượng cũ, vốn là hai “cực” của Chiến tranh Lạnh hình thành từ sau Chiến tranh
Thế giới thứ hai. Còn Trung Quốc đại diện cho lực lượng thứ ba mới vươn lên từ
thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc. Về cơ bản, đó là kết quả của sự cân
18


Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với việc Mĩ triển khai hoạt động...

bằng chiến lược Xô - Mĩ và sự vươn lên của Trung Quốc, đồng thời là kết quả của
sự đồng thuận về lợi ích và mục tiêu chiến lược giữa các cặp quan hệ Mĩ - Trung,
Mĩ – Xô, Xô – Trung trong tình hình mới.
Trước khi “ngoại giao tam giác” hình thành, giữa các nước chỉ tồn tại quan hệ
ngoại giao tay đôi, đó là ngoại giao Xô - Mĩ (từ 13/12/1933), ngoại giao Xô - Trung
(từ 1950). Riêng Mĩ và Trung Quốc do bất đồng về ý thức hệ ngay khi nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời (1949) nên chưa thiết lập quan hệ ngoại giao. Đến
trước nhiệm kỳ của Tổng thống Nixon (1969-1972), quan hệ Mĩ - Xô và Mĩ - Trung
mặc dù có không ít các cuộc tiếp xúc, hội đàm nhưng tất cả chỉ như “cuộc đối thoại
của những người điếc”, không thể tìm thấy tiếng nói chung trong lập trường của các

bên, do đó, không đạt được bất cứ thỏa thuận nào.
Từ cuối thập niên 50 của thế kỉ XX, quan hệ Xô - Trung bắt đầu rạn nứt do
bất đồng về tư tưởng và đường lối, sau trở thành những tranh chấp chủ quyền căng
thẳng dọc biên giới, đỉnh cao là xung đột trên đảo Trân Bảo (hay Damansky theo
cách gọi của Liên Xô) vào tháng 3/1969 [2;202]. Sau sự kiện này, mức độ căng thẳng
trong quan hệ Xô - Trung có giảm đi, nhưng ngoại giao giữa hai nước trở nên “đóng
băng” dù thực tế chưa bao giờ bị cắt đứt. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều lo sợ và
muốn kiềm chế lẫn nhau.
Từ năm 1969, sau những thương lượng bất thành với Liên Xô và tận dụng sự
phân liệt Xô - Trung, Mĩ bắt đầu tìm kiếm cách thức đối thoại với Trung Quốc để
gây sức ép với Liên Xô. Năm 1970, Mĩ nới giảm các hạn chế về du lịch và thương mại
với Trung Quốc. Sau những hồi đáp dè dặt, Trung Quốc đã chính thức bày tỏ thiện
chí mở đầu bằng việc mời đội tuyển bóng bàn Mĩ tới thi đấu giao hữu vào tháng
4/1971. Sự kiện này cùng với việc Mĩ ủng hộ Trung Quốc gia nhập và trở thành ủy
viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tháng 10/1971 đã mở đường
cho chuyến viếng thăm đầy bất ngờ của Tổng thống Nixon đến Trung Quốc vào
tháng 2/1972. Nixon trở thành tổng thống Mĩ đầu tiên đặt chân lên Trung Quốc
khi hai nước chưa hề thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Hai bên đã đạt được
một số đồng thuận thể hiện trong bản Thông cáo chung Thượng Hải (17/2/1972),
trong đó lập trường chung là chống lại bất cứ lực lượng nào muốn bành trướng ở
châu Á - Thái Bình Dương mà thực chất là ám chỉ Liên Xô.
Trước những chuyển biến của quan hệ Mĩ - Trung, từ đầu năm 1972, do muốn
trung lập hóa quan hệ Mĩ - Trung, Liên Xô đẩy mạnh đàm phán với Mĩ. Tháng
5/1972, Nixon thăm Moscow. Hai bên đạt được nhiều thỏa thuận thể hiện trong
“Thông cáo chung Xô - Mĩ” ngày 31/5/1972. Ngoài ra, Mĩ - Xô còn ký kết “Hiệp
ước về việc hạn chế hệ thống phòng, chống tên lửa” (ABM) và “Hiệp định tạm thời
về một số biện pháp trong lĩnh vực hạn chế vũ khí tiến công chiến lược” (SALT I)
ngày 26/5, hình thành thế cân bằng chiến lược quân sự giữa hai bên.
Như vậy, với quá trình thiết lập quan hệ Mĩ - Trung, hòa dịu hóa quan hệ Mĩ
- Xô và Trung - Xô hướng tới mục tiêu vừa hợp tác lại vừa kiềm chế lẫn nhau, đánh

19


Phạm Thị Thu Hương

dấu bằng các sự kiện viếng thăm cấp cao và các văn bản ngoại giao quan trọng được
ký kết, quan hệ tay ba giữa Mĩ, Trung Quốc và Liên Xô chính thức hình thành vào
đầu thập niên 70 của thế kỉ XX. Từ tiến trình thiết lập quan hệ ngoại giao tam giác
trên đây, có thể thấy rõ, quan hệ Mĩ – Xô – Trung đi tới hoà dịu chịu tác động của
nhiều yếu tố khác nhau. Vậy, Chiến tranh Việt Nam đã tác động đến chủ thể Mĩ
như thế nào khi đi tới mối quan hệ này và ở mức độ nào?

2.2.

Tác động của Chiến tranh Việt Nam đối với sự thiết lập
quan hệ ngoại giao tam giác Mĩ – Trung – Xô giai đoạn
1969-1972

Chiến tranh Việt Nam chưa bao giờ là vấn đề trọng yếu nhất trong chiến lược
toàn cầu của Mĩ. Tuy nhiên, với vị trí là cuộc chiến tranh mà Mĩ đã dốc sức tiến
hành theo phương thức gián tiếp của chủ nghĩa thực dân mới, cuộc chiến này đã tác
động toàn diện và sâu sắc tới tình hình nước Mĩ và trở thành mối quan tâm hàng
đầu của chính quyền và dân chúng Mĩ vào thập niên 60, 70 của thế kỉ trước.
Mĩ bắt đầu tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới đối với
Việt Nam ngay sau thắng lợi của nhân dân Việt Nam đối với thực dân Pháp vào
năm 1954. Mĩ lo sợ sự sụp đổ của Việt Nam sẽ kéo theo sự sụp đổ của các nước Đông
Dương, Đông Nam Á và Nam Á theo “hiệu ứng đô-mi-nô”. Vì thế, Mĩ muốn biến
Nam Việt Nam trở thành một chốt phòng thủ chiến lược quan trọng trong vành đai
phòng vệ từ xa của Mĩ ở châu Á – Thái Bình Dương, nối dài “con đê” ngăn chặn
làn sóng cộng sản, từ Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan xuống Philippin. Trên

cơ sở đó, Mĩ sẽ tiếp tục kiềm chế các đối thủ Liên Xô, Trung Quốc cũng như các
đồng minh phương Tây, giữ vững vị thế và tiếp tục phát huy ảnh hưởng ở khu vực
chiến lược này, đồng thời góp phần hạn chế tác động từ thắng lợi của phong trào
giải phóng dân tộc Việt Nam đối với thế giới, làm bàn đạp để Mĩ tấn công phong
trào cách mạng thế giới. Như vậy, Việt Nam trở thành một bộ phận rất căn bản
phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mĩ. Đó là lý do khiến Mĩ theo đuổi cuộc chiến
tranh xâm lược dài ngày và tốn kém nhất đối với Việt Nam. Tuy nhiên, sự sa lầy
kéo dài của Mĩ trong cuộc chiến tranh này và những hậu quả của nó đã buộc Mĩ
phải đi đến tìm kiếm những phương pháp mới nhằm thoát ra khỏi cuộc chiến này.
Sau gần 15 năm dính líu đến chiến tranh Việt Nam, 2 chiến lược toàn cầu, 1
chiến lược can thiệp và thống trị, 2 chiến lược chiến tranh của Mĩ đã từng bước bị
phá sản kéo theo sự đổ bể sự nghiệp chính trị của 3 đời tổng thống cùng với một
hệ thống các chiến lược gia và các tướng lĩnh quân sự hàng đầu. Khoảng nửa triệu
quân Mĩ và nhiều đơn vị quân đồng minh của Mĩ đã được huy động tham gia cuộc
chiến lúc cao điểm nhất. Tính cả năm 1969, chi phí chiến tranh trực tiếp của Mĩ đã
lên tới hơn 150 tỉ đôla, chưa tính viện trợ quân sự cho chính quyền Sài Gòn [1;500].
Nhưng những tổn thất đó vẫn chưa đáng kể so với gánh nặng chính trị và xã
hội mà Mĩ phải trả giá cho những thất bại chiến lược nặng nề ở Việt Nam. Đó là
20


Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với việc Mĩ triển khai hoạt động...

sự sụt giảm mạnh về uy tín trên trường quốc tế, nhất là với các đồng minh, khiến
cho một số đồng minh nghi ngờ sức mạnh Mĩ. Một số đồng minh nhân cơ hội tìm
cách thoát ra khỏi ảnh hưởng của Mĩ, cải thiện quan hệ với Liên Xô (như Pháp và
CHLB Đức). Điều này tạo ra nguy cơ suy giảm vị thế và sự ủng hộ đối với Mĩ ở
châu Âu. Những chi phí khổng lồ và những thất bại về chiến lược trong chiến tranh
Việt Nam cũng khiến cho Mĩ bị giảm sút sức mạnh quân sự trong cuộc chạy đua
với Liên Xô và để cho các nước đồng minh của Mĩ như Nhật Bản và các nước Tây

Âu có cơ hội vươn lên cạnh tranh với Mĩ.
Chiến tranh Việt Nam đã tạo ra sự rạn nứt cực kỳ sâu sắc và đa tầng trong
chính nội bộ nước Mĩ, từ các phe phái trong chính giới Mĩ đến mâu thuẫn giữa quần
chúng nhân dân với chính quyền, nhất là từ sau khi Tổng thống Johnson triển khai
quân Mĩ sang tham chiến trực tiếp tại Việt Nam. Phong trào phản chiến diễn ra
sôi sục trên khắp nước Mĩ, gây mất ổn định cho nền chính trị - an ninh Mĩ và tạo
ra sức ép lớn đối với giới cầm quyền. Cuộc chiến cũng là một nhân tố dẫn đến sự
thiếu hụt ngân sách trầm trọng đối với Mĩ trong các năm từ 1966 đến 1969 và đẩy
nhanh tình trạng lạm phát và thất nghiệp trong nền kinh tế Mĩ [1;520-522]. Chiến
tranh Việt Nam thực sự trở thành cuộc chiến “gặm mòn” nước Mĩ.
Tất cả những thiệt hại to lớn do cuộc chiến tranh Việt Nam gây ra khiến Mĩ
cần đến một giải pháp để rút ra khỏi cuộc chiến tranh này nhưng vẫn phải đảm bảo
những lợi ích cơ bản, vẫn giữ được danh dự nước lớn cho Mĩ và lòng tin của đồng
minh đối với Mĩ. Vì vậy, nhiệm vụ chính yếu của Mĩ lúc này là “tìm lối thoát ra khỏi
cuộc chiến tranh ở Việt Nam với những điều kiện có thể chấp nhận được và ít đau
đớn nhất” [4;324]. Giải quyết được vấn đề Việt Nam sẽ giúp Mĩ thoát được các sức
ép chính trị trong nước, ngăn chặn tình trạng chia rẽ trong nội bộ đất nước, đánh
lạc hướng dư luận và loại bỏ sự bùng nổ của tâm lý chống chiến tranh.
Để chấm dứt sự sa lầy, kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam mà vẫn bảo toàn
lòng tin và danh dự nước lớn, vẫn duy trì những quyền lợi cơ bản ở khu vực, ngay
khi lên cầm quyền (1969), Tổng thống Nixon đã đề ra chiến lược “ba gọng kìm”: (1)
thực hiện “Việt Nam hóa” chiến tranh nhằm rút quân Mĩ ra khỏi cuộc chiến, trao lại
trách nhiệm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa; (2) kết hợp đe dọa leo thang ở miền
Bắc Việt Nam; (3) triển khai hoạt động ngoại giao “qua đầu Việt Nam dân chủ cộng
hòa”, tức là tiến hành thương lượng với các đồng minh Liên Xô và Trung Quốc của
Việt Nam [6]. Tại sao Liên Xô và Trung Quốc, những đối thủ tưởng “không thể đội
trời chung”, trở thành đối tượng thương lượng của Mĩ?
Ngay từ đầu cuộc chiến, ngoại giao đã là một mặt trận quyết liệt. Trong khi
Mĩ ra sức tập hợp lực lượng quốc tế chống lại Việt Nam hoặc sử dụng các loại lực
lượng trung gian để giúp Mĩ thực hiện ý đồ uy hiếp hoặc thăm dò đối phương thì

Việt Nam cũng đã đẩy mạnh ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ đồng tình của nhân
dân tiến bộ thế giới đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của mình. Kết quả là cho
đến năm 1969, nền ngoại giao của Việt Nam đã “đạt mức tinh vi cao, cả về lý thuyết
21


Phạm Thị Thu Hương

lẫn thực tiễn” [6;478] và đã cô lập được Mĩ trên phạm vi quốc tế thông qua việc
thiết lập được một mặt trận nhân dân thế giới chống chiến tranh xâm lược của Mĩ
ở Việt Nam, đã làm cho chiến tranh Việt Nam trở thành cuộc chiến tranh có thể
làm “rung động người ngoài đường phố, tạo nên một tâm lý toàn cầu, một sự công
phẫn của cả loài người trong một thời gian dài” [7;257]. Thành quả ngoại giao này
đã tạo nên sức mạnh chính trị to lớn cho Việt Nam và gây ra sức ép lớn cho Mĩ.
Khi đi tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam, Mĩ đã nhận ra rằng Việt Nam thực
sự là một nước nhỏ yếu nhưng có thể chiến đấu chống Mĩ kiên cường trong suốt
thời gian dài là do có sự viện trợ bên ngoài, chủ yếu là từ Liên Xô và Trung Quốc,
trong đó “sức ép nặng cân nhất đối với Hà Nội là Liên Xô” và coi “Liên Xô là chìa
khóa cho vấn đề chấm dứt chiến tranh Việt Nam vì 80 đến 85% vũ khí hạng nặng
của Việt Nam là do Liên Xô cung cấp” [3;67]. Còn Trung Quốc không chỉ trực tiếp
viện trợ mà còn là tuyến đường trung chuyển hàng viện trợ từ các nước khác cho
Việt Nam. Liên Xô và Trung Quốc lại đang mâu thuẫn (nhất là sau sự kiện quân
đội hai bên xung đột ở đảo Trân Bảo đầu năm 1969). Nếu Mĩ khai thác được mâu
thuẫn này để chia rẽ họ với Việt Nam thì sẽ giảm được một phần sức mạnh vật chất
và tâm lý của Việt Nam. Nixon tin rằng: “Nếu không có sự tiếp tục viện trợ với số
lượng lớn của hai nước cộng sản khổng lồ thì các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam không
có khả năng tiếp tục cuộc chiến tranh trong vài tháng nữa” [5;376].
Ngoài ra, từ năm 1968, trước các thất bại trên chiến trường và sức ép rút ra
khỏi cuộc chiến tranh, Mĩ chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán thương lượng với Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tuy

nhiên, ngay từ những ngày thương thảo đầu tiên, người Mĩ đã nhận ra không thể
trông chờ gì ở những đối tác bên kia bàn đàm phán, vì phía Việt Nam tỏ ra quá
cứng rắn và kiên định với các mục tiêu của mình.
Trong số các đồng minh của Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc là hai đồng
minh lớn nhất. Nhưng từ chính kinh nghiệm của mình, Mĩ hiểu rằng các đồng minh
có thể giúp sức nhưng cũng có thể tạo ra sức ép. Mĩ đã luôn tạo sức ép cho các
đồng minh để phục vụ lợi ích của mình. Kinh nghiệm từ thời Hội nghị Geneve cũng
cho Mĩ thấy Việt Nam phải chịu sức ép như thế nào từ phía đồng minh Liên Xô và
Trung Quốc. Tính đến thời điểm đó, việc Trung Quốc cắt giảm viện trợ cho Việt
Nam để phản đối việc Việt Nam đồng ý đàm phán với Mĩ ở Paris càng củng cố thêm
nhận định của Mĩ cho rằng “vấn đề mấu chốt giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam
nằm trong tay Matxcơva và Bắc Kinh hơn là trong tay Hà Nội” [5;375-376]. Vì vậy,
triển khai quan hệ ngoại giao tam giác, Mĩ muốn đẩy gánh nặng ngoại giao về phía
Việt Nam. Mĩ tin rằng với việc nhượng bộ một số quyền lợi ở những nơi khác trên
thế giới theo quan điểm “tạo ra những điều khích lệ hoặc những sức ép ở nơi này của
thế giới để ảnh hưởng đến những sự kiện ở nơi khác” [6;484], Mĩ có thể hòa hoãn
với Liên Xô và Trung Quốc, từ đó “mặc cả” với hai nước này về vấn đề Việt Nam.
Đây thực sự là một thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt của Mĩ mà tác giả là Nixon và
Kissinger hòng tranh thủ chính những đồng minh của đối phương để gây sức ép cho
22


Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với việc Mĩ triển khai hoạt động...

đối phương.
Trên thực tế, mỗi chủ thể khi tham gia vào “ngoại giao tam giác” đều được
thúc đẩy bởi những động cơ riêng, xuất phát từ lợi ích và các mục tiêu chiến lược
của mình. Nhưng trong ba chủ thể, Mĩ luôn thể hiện vai trò chủ động, bởi với Mĩ,
chiến tranh Việt Nam là động cơ trọng yếu khiến Mĩ cần thiết đi đến hòa dịu với
Liên Xô và Trung Quốc. Một chính khách vào thời điểm đó khẳng định rằng: “Điều

bận tâm của Nixon và Kissinger trong suốt năm 1969 và tới năm 1972 không phải
là cuộc họp thượng đỉnh với Matxcơva bàn về sự hòa hoãn mà là việc tìm ra cách
rút lui trong “danh dự” khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam, cải thiện các mối quan hệ
với Liên Xô và có thể tương tự dàn xếp với Trung Quốc vào thời điểm đó” [4;382].
Điều này thể hiện rõ hơn khi xem xét lại tiến trình quan hệ Mĩ – Xô – Trung. Phải
nói rằng từ cuối những năm 60 - đầu những năm 70, Mĩ - Xô - Trung đã xuất hiện
nhiều vấn đề làm cơ sở cho việc các bên có thể đàm phán với nhau (ví dụ như việc
đồng thuận trong các lợi ích chiến lược hay sự thay đổi tính chất bạn - thù trong
mối quan hệ giữa các nước. . . ). Nhưng dụng ý lớn của Mĩ là nhằm mua chuộc hai
đồng minh lớn nhất để gây áp lực với Việt Nam, giúp Mĩ thoát khỏi cuộc chiến
tranh trong danh dự. Điều này giải thích tại sao Mĩ đã chủ động thúc đẩy những
mối quan hệ vốn không có hy vọng tiến triển (thể hiện rõ trong những năm 60) trở
nên chuyển biến cực kỳ mạnh mẽ, nhất là trong thời điểm năm 1972. Chính nhu
cầu giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam theo hướng có lợi cho Mĩ là nhân tố thúc
đẩy Mĩ đi đến những hành động nhanh chóng và quyết đoán trong quan hệ hòa dịu
với Liên Xô và Trung Quốc.
Mục tiêu cơ bản của Mĩ khi tiến gần đến Liên Xô và Trung Quốc trong vấn
đề Việt Nam là:
- Hạn chế viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc cho Việt Nam (tức là khiến
Xô - Trung lùi ra xa Việt Nam và lấy đó làm điều kiện để Mĩ sẽ rút ra khỏi Việt
Nam), làm cho Việt Nam không thể đánh mạnh và buộc phải chấp nhận đàm phán
với Mĩ trên thế yếu;
- Tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc, buộc Việt Nam chấp nhận
giải pháp đàm phán “giữ nguyên trạng” do Mĩ đưa ra (dừng lại ở vĩ tuyến 17, không
đánh mạnh, kết thúc chiến tranh bằng hòa đàm, như kiểu Triều Tiên và Geneve
trước đây);
- Khiến Liên Xô và Trung Quốc “làm ngơ” hay ít nhất giữ thái độ trung lập
trước các hành động leo thang quân sự của Mĩ ở Việt Nam, đặc biệt là việc ném
bom phá hoại miền Bắc, để tạo ra thế mạnh trên bàn đàm phán đi tới kết thúc
chiến tranh theo hướng có lợi cho Mĩ.

Như vậy, một trong những mục tiêu căn bản của Mĩ khi thúc đẩy ngoại giao
tam giác với Trung Quốc và Liên Xô là nhằm giải quyết sự sa lầy của Mĩ trong
chiến tranh Việt Nam, muốn rút ra khỏi Việt Nam nhưng vẫn đảm bảo sự tồn tại
của một miền Nam riêng biệt, không ảnh hưởng cộng sản và thân Mĩ, trên cơ sở cô
23


Phạm Thị Thu Hương

lập và tạo thêm những sức ép lớn hơn từ phía các đồng minh cho Việt Nam.
Để giành được sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc, thực hiện những mục
tiêu trên, Mĩ đã chấp nhận nhượng bộ khá nhiều quyền lợi của mình ở những khu
vực khác. Đáng kể là cam kết cân bằng sức mạnh hạt nhân với Liên Xô, mở đường
cho Liên Xô thiết lập quan hệ với các đồng minh phương Tây, cùng Liên Xô giải
quyết vấn đề Trung Đông và đặc biệt là vấn đề Đức. Với Trung Quốc, Mĩ chấp nhận
dỡ bỏ cấm vận, trao đổi thương mại và khoa học - kĩ thuật, giúp Trung Quốc gia
nhập Liên Hợp Quốc và thay thế Trung Hoa dân quốc ngồi vào vị trí ủy viên thường
trực của Hội đồng Bảo an. Mĩ cũng hứa hẹn với Trung Quốc về vấn đề Đài Loan
nếu những căng thẳng ở Việt Nam được giảm bớt (ám chỉ việc kết thúc chiến tranh
Việt Nam với giải pháp đàm phán và giữ nguyên trạng). Về phía Trung Quốc và
Liên Xô, dù không phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu như Mĩ, nhưng chiến tranh Việt
Nam là điều kiện căn bản để hai nước này “chơi bản nhạc ngoại giao” với Mĩ. Chiến
tranh Việt Nam đã đem đến cho Liên Xô và Trung Quốc nhiều lợi ích hơn mong
đợi, giúp hai nước có điều kiện thương lượng với Mĩ và qua đó, thực hiện các lợi ích
chiến lược lớn hơn của mình. Vì cả hai đều hiểu thấu chiến tranh Việt Nam là điểm
yếu nhất của Mĩ trong thời điểm đó, nên cả Liên Xô và Trung Quốc đã đều tìm
cách lợi dụng chính sách ngoại giao của Mĩ để phục vụ lợi ích của mình. “Thực tế là
mỗi bên đều muốn tìm cách đẩy Mĩ chống lại bên kia khi có thể làm được, hoặc ít
nhất là làm cho Mĩ trung lập. Mỗi bên đều lợi dụng chiến tranh Việt Nam làm đòn
bẩy cho mối quan hệ bao trùm đó” [6;509]. Vì thế, Việt Nam trở thành công cụ để

giữ thế cân bằng lực lượng giữa các cường quốc đối với các vấn đề ở Đông Nam Á
và thế giới.
Tuy nhiên, những nỗ lực tuyệt vời nhằm tranh thủ đồng minh Liên Xô và
Trung Quốc để gây sức ép cho Việt Nam đã không giúp Mĩ có được những gì Mĩ
thực sự muốn. Trong khi Liên Xô và Trung Quốc đạt được phần lớn ý đồ của mình
thì những diễn biến của chiến tranh Việt Nam lại khiến Mĩ “thất thế” trong “ngoại
giao tam giác”, nhất là trong mục tiêu giải quyết êm đẹp vấn đề chiến tranh Việt
Nam. Những hoạt động “ngoại giao tam giác” do Mĩ chủ động tạo ra đã không tạo
ra sức ép quá lớn cho Việt Nam. Điều này xuất phát từ những đánh giá sai lầm của
Mĩ về khả năng của Việt Nam. Mĩ không hiểu được đối thủ của mình có một nền
ngoại giao độc lập đến mức cả những đồng minh lớn nhất như Liên Xô và Trung
Quốc cũng khó có thể điều chỉnh khuynh hướng của nó, mặc dù thái độ hoà hoãn
của Liên Xô và Trung Quốc với Mĩ có tạo ra những áp lực nhất định cho Việt Nam.
Mặt khác, cả Liên Xô và Trung Quốc một mặt thương lượng với Mĩ nhưng mặt khác
vẫn tiếp tục viện trợ cho Việt Nam ngay trong thời điểm hòa hoãn đỉnh cao nhất
của “ngoại giao tam giác”. Viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam năm
1972 tăng gấp đôi năm 1971. Viện trợ vũ khí của Liên Xô cho Việt Nam cũng tăng
gấp đôi. Cả hai nước mặc dù mâu thuẫn nhau nhưng vẫn đồng thuận với nhau trong
việc viện trợ cho Việt Nam. Trung Quốc vẫn đồng ý để hàng cung cấp của Liên Xô,
chủ yếu là vũ khí hạng nặng, chuyên chở bằng đường xe lửa qua Trung Quốc để
24


Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với việc Mĩ triển khai hoạt động...

phá vỡ tình trạng Mĩ phong tỏa biển Bắc Bộ [6;509]. Thậm chí, những hoạt động
ngoại giao tam giác của Mĩ đối với Liên Xô và Trung Quốc còn đem lại cho phía
Việt Nam những lợi ích nhất định. Nó thúc đẩy Việt Nam đấu tranh mạnh mẽ và
nhanh chóng hơn trên mặt trận quân sự để làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho
mình vì những kinh nghiệm xương máu mà Việt Nam có được từ Hội nghị Geneve.

Điều đó giải thích tại sao khi Nixon bắt tay Chu Ân Lai rồi bắt tay Brezhnev là khi
tại miền Nam Việt Nam, cuộc tiến công chiến lược 1972 sắp và đang diễn ra ác liệt.
Việt Nam cũng đã tiến đến Hội nghị Pari đầu năm 1973 trên tư thế của người chiến
thắng với trận “Điện Biên Phủ trên không” hiển hách cuối năm 1972. Những điều
này chứng tỏ sự chủ động và tính độc lập, ngay cả với các nước đồng minh, của nền
ngoại giao Việt Nam.
Ngoài ra, cuộc chiến tranh Việt Nam còn tác động đến việc tạo ra một môi
trường chính trị thuận lợi để chính quyền Nixon triển khai các hoạt động “ngoại
giao tam giác”. Để tiến tới hòa dịu với Trung Quốc, Liên Xô, một nước có tinh thần
chống cộng sản điển hình như Mĩ với chủ nghĩa McCarthy không phải dễ dàng.
Nhưng điều kiện thuận lợi cho Mĩ từ thời điểm năm 1969 là lúc này cường độ chống
cộng sản trong nước đã giảm xuống. Vì vậy, chính giới Mĩ có thể chấp nhận và hợp
tác với các chính phủ cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, để thực hiện chính sách mà
Mĩ gọi là “ngăn chặn mà không cô lập” (khác trước ngăn chặn bằng cách cô lập).
Điều này lại là hệ quả trực tiếp từ những thất bại trong chiến tranh ở Việt Nam.
Mặc dù không đạt được những lợi ích mong muốn trong việc giải quyết vấn
đề chiến tranh Việt Nam khi thúc đẩy quan hệ ngoại giao tam giác với Liên Xô và
Trung Quốc, nhưng Mĩ cũng đã giành được một số thắng lợi nhất định. Đáng kể
là việc đạt được những thoả thuận hoà hoãn quan trọng với cả Liên Xô và Trung
Quốc, góp phần bù lại những thất bại ở khu vực Đông Nam Á, ổn định dư luận
trong nước, tạo điều kiện cho Nixon có thêm thế và lực để tiếp tục ứng cử và giành
thắng lợi thêm một nhiệm kỳ nữa. Về mặt chiến lược, hoạt động ngoại giao tam
giác của Mĩ đã góp phần kiềm chế sức mạnh và phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô và
Trung Quốc, khai thác và tiếp tục làm phân ly một cách mạnh mẽ quan hệ Xô –
Trung, góp phần làm suy yếu hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.

3.

Kết luận


Trong suốt tiến trình “ngoại giao tam giác”, Mĩ luôn thể hiện vai trò khởi động,
chủ động và năng động hơn nhiều so với Liên Xô và Trung Quốc. Hy vọng tìm kiếm
một giải pháp kết thúc chiến tranh Việt Nam trong danh dự là động lực chủ yếu
thôi thúc Mĩ tìm đến cứu cánh hòa hoãn với Liên Xô và thỏa hiệp với Trung Quốc.
Với Liên Xô và Trung Quốc, chiến tranh Việt Nam không phải là vấn đề mấu chốt,
nhưng lại giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược của cả hai nước và đã được sử
dụng như là điều kiện căn bản để trao đổi với Mĩ. Cả Mĩ - Xô - Trung đều muốn
thông qua vấn đề Việt Nam để gây sức ép và kiềm chế lẫn nhau, trong điều kiện
25


Phạm Thị Thu Hương

cố tránh để bị lôi cuốn vào một cuộc đụng độ trực tiếp với nhau. Riêng đối với Mĩ,
điều này khẳng định vị trí quan trọng của vấn đề Việt Nam trong việc thúc đẩy Mĩ
thiết lập quan hệ “ngoại giao tam giác”. Chính vấn đề Việt Nam đã khiến Mĩ chủ
động đẩy mạnh quan hệ hòa dịu với Trung Quốc và Liên Xô, cũng khiến Mĩ chịu
nhượng bộ quyền lợi ở những khu vực khác để đổi lấy thỏa thuận của Trung Quốc
và Liên Xô về vấn đề Việt Nam, đồng thời trở thành vấn đề khiến Mĩ bị thất thế
trên bàn đàm phán ngoại giao của các nước lớn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, 2000. Chiến tranh cách mạng Việt Nam, thắng
lợi và bài học. Nxb Chính trị Quốc gia.
[2] Báo Tin tức (TTXVN), 2008. Lật lại những trang hồ sơ mật. Nxb Thông tấn.
[3] Bộ Ngoại giao, 2007. Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam.
Nxb Chính trị Quốc gia.
[4] Anatôli Đôbrưnhin, 2001. Đặc biệt tin cậy. Nxb Chính trị Quốc gia.
[5] Ilya V. Gaiduk, Trần Quý Thắng, Trần Văn Liên (dịch), 1998. Liên bang Xô viết
và Chiến tranh Việt Nam. Nxb Công an Nhân dân.
[6] Gabriel Kolko, 2003. Giải phẫu một cuộc chiến tranh. Nxb Quân đội Nhân dân.

[7]. Lưu Văn Lợi, 2004. Ngoại giao Việt Nam. Nxb Công an Nhân dân.
ABSTRACT
The effect of Vietnam on promoting the US to establish
“triangular diplomacy” with the Soviet Union and China from 1969 to 1972
American-Soviet-Sino triangular diplomacy was a strange but inevitable phenomenon in the context of the Cold War and the rise of China in terms of strategy
in the 1960s and 1970’s in the 20th Century. For the United States, one of the motivations for promoting improved American relationships with the Soviet Union and
People’s Republic of China (PRC) towards détente in a triangular diplomacy was
the Vietnam War.
Vietnam played an important role in the US strategy. In the 1960s and 1970s,
the war caused by the US in Vietnam had a negative effect on politics and the
society in the US.
Because of getting bogged down in Vietnam and understanding that the Soviet
and PRC were the biggest allies of Vietnam, the US arranged actively with the Soviet
Union and PRC in order to pressurize Vietnam into negotiating and following the
solutions given by the US, especially the status quo of South Vietnam. To win
the support of the Soviet Union and China on the issue of Vietnam, the U.S. made
many concessions of its benefits in other areas. However, the independent diplomacy
policies of Vietnam made the US fail in its objects in the issue of the Vietnam war.
26



×