Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bước đầu nhìn lại quá trình sưu tầm và phân loại truyện cổ tích Chăm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.01 KB, 8 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE

Social Sci., 2012, Vol. 57, No. 2, pp. 43-50

BƯỚC ĐẦU NHÌN LẠI QUÁ TRÌNH SƯU TẦM
VÀ PHÂN LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH CHĂM

Đặng Thế Anh

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
E-mail:
Tóm tắt. Trong bài báo này, tác giả đánh giá các bộ sưu tập và giới thiệu các câu
chuyện cổ tích của người Chăm (Việt Nam) trong hơn một thế kỷ qua, được chia
thành 3 giai đoạn: trước năm 1954; 1954-1975 và từ năm 1975 cho đến nay. Có ba
nguồn thu thập các câu chuyện cổ tích của người Chăm, ba loại tài liệu được xuất
bản trong ba ngôn ngữ với ba đối tượng người thu thập và ghi lại câu chuyện cổ
tích của người Chăm: Chăm, Pháp, Việt. Trong những năm gần đây, phân loại bắt
đầu thu hút nhiều sự chú ý.
Từ khóa: truyện cổ tích Chăm, sưu tầm, phân loại, đánh giá...

1.

Mở đầu

Trong bức tranh toàn cảnh của 54 dân tộc sinh sống trên dải đất hình chữ S này,
cho đến nay, dân tộc Chăm và nền văn hóa Chămpa vẫn còn chứa đựng rất nhiều điều bí
ẩn. Như hoa Chơ-re có trăm hương nghìn sắc nổi lên giữa biển, dân tộc Chăm và văn hóa
Chăm đã thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả với hàng ngàn công trình, ấn
phẩm trong và ngoài nước. Nhưng, đúng như Inrasara nhận định: “Các thành tựu hãy còn
quá khiêm tốn! Văn học Chăm vẫn còn như một mảnh rừng nhiều gỗ quý đang giấu mình.
Nó cần phải tự giới thiệu với đám đông công chúng khuôn mặt thực của nó” [1;24]. Trong


bài viết này, chúng tôi chỉ trình bày những thu hoạch bước đầu về vấn đề sưu tầm truyện
cổ tích Chăm và về cơ bản, chúng tôi sẽ trung thành với các tư liệu hiện có.

2.

Nội dung nghiên cứu

Giống với nhiều thể loại khác thuộc bộ phận văn học dân gian Chăm, truyện cổ tích
nói chung, truyện cổ tích thần kì Chăm nói riêng được lưu truyền trong nhân dân bằng ba
con đường: ẩn (trong trí nhớ người già) - hiện (trong quá trình truyền miệng) - lưu (bằng
văn bản chữ Chăm cổ, bằng chữ quốc ngữ, bằng Pháp ngữ. . . ). Nói vậy thì chắc rằng việc
ghi chép, sưu tầm những truyện cổ Chăm đã được tiến hành khá sớm kể từ khi có chữ
viết (ngay từ thế kỷ thứ IV). Do đó, truyện cổ tích Chăm được sưu tầm, ghi chép từ ba
nguồn chính: - Một là, văn bản truyện được chép trong các sách Chăm cổ hoặc các bia ký
Chăm... - Hai là, từ các bản kể do người già truyền lại, các nhà sưu tầm - điền dã ghi lại
43


Đặng Thế Anh

cho đời sau. - Ba là, từ hai loại trên, các nhà sưu tầm, nghiên cứu (Chăm, Pháp, Việt) kể
lại trong các bài viết của họ, tiếp đó được xuất bản chính thức.
Việc sưu tầm, ghi chép, và công bố truyện cổ tích Chăm chỉ thực sự bắt đầu từ năm
1886 (mặc dù trước đó có thể phải lưu tâm đến văn bản truyện Dạ Thoa Vương được Trần
Thế Pháp chép trong Lĩnh nam chích quái từ thế kỷ XIV. Hiện nay, chúng tôi chưa tìm
được bản kể gốc (nguyên văn) bằng tiếng Chăm của truyện này. Nhưng có thể khẳng định
văn bản Dạ Thoa Vương trong Lĩnh nam chích quái chính là “kênh trung gian” chuyển
dịch cốt truyện của Sử thi Ấn Độ Ramayana vào truyện dân gian Việt Nam). Từ năm 1886
đến nay, quá trình sưu tầm và công bố truyện cổ tích Chăm có thể chia thành ba giai đoạn.


2.1.

Giai đoạn từ năm 1886 đến năm 1954

Trước năm 1945, trong tình hình chung của khoa nghiên cứu văn học nước nhà, văn
học Chăm cũng như văn học của các dân tộc thiểu số khác chưa được chú ý, quan tâm
đúng mức. Vì vậy, văn học dân gian Chăm chủ yếu được lưu giữ trong những làng, bản
của người Chăm. Đến thời Pháp thuộc, để phục vụ nhu cầu cai trị hoặc truyền đạo của
một số quan lại và giáo sĩ hoặc do nhu cầu giới thiệu, tìm hiểu văn học dân tộc thiểu số
của các học giả người Pháp, văn học Chăm bước đầu được sưu tầm, ghi chép và công bố
bằng tiếng Pháp. Trong đó, truyện cổ tích chính là thể loại đầu tiên được quan tâm đến.
Năm 1886, cuốn truyện cổ tích Chăm đầu tiên ra đời với cái tên Contes Tjames
-Truyện kể Chăm do A.Landes sưu tầm và viết bằng tiếng Pháp, in tại Sài Gòn (có 16
truyện: Sự tích quả dừa, Kađốp - Kađoek, Tabong lười biếng...). Một năm sau, cuốn sách
này được A.Landes cho in và giới thiệu tại Pháp với tiêu đề: Contes Tjames traduits et
annotés, Excursion et Reconnaissances XIII, Paris.
Năm 1898, người Pháp lại được biết đến hai văn bản truyện Chiếc giầy vàng (Huyền
thoại về bà Bếp Chăm)” và Prang - Iyang (Huyền thoại Pnong) do A.Leclère công bố trong
bài viết Deux contes indochinois: La sandale d’or (conte Cham de Cendrillon, Prang Iyang [conte Pnong]), Paris (Leroux).
Sau A.Leclère 14 năm, năm 1912, E.M.Durand lại công bố một văn bản truyện Sự
tích Bà Bếp Chăm trong bài Le conte de Cendrillon, B.E.F.E.O XII.
Như vậy, từ năm 1886 đến năm 1912, với những việc sưu tầm và công bố truyện
cổ tích Chăm bởi người Pháp, đã có gần hai chục văn bản truyện cổ tích Chăm được giới
thiệu bằng tiếng Pháp. Trong khi đó, mãi đến năm 1943, một văn bản truyện cổ tích Chăm
bằng tiếng Việt mới được đăng trên tạp chí Tri tân, số 99 - Chuyện xưa Chàm: Ca-đốp và
Ca-Dock do Mãn Khánh Dương Kị giới thiệu.

2.2.

Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975


Từ năm 1954 là giai đoạn mà các trí thức Việt Nam, bao gồm cả những trí thức
người Chăm lẫn trí thức người Việt “dấn thân” vào việc sưu tầm, ghi chép văn học Chăm
dưới ánh sáng của đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì thế, truyện cổ tích
Chăm bắt đầu xuất hiện rộng rãi.
44


Bước đầu nhìn lại quá trình sưu tầm và phân loại chuyện cổ tích Chăm

Ở miền Nam, giai đoạn này, truyện cổ tích Chăm được công bố chủ yếu trên các tạp
chí đương thời.
Trên tạp chí Văn hoá Nguyệt San, nhiều văn bản truyện cổ tích Chăm được giới
thiệu bởi các tác giả Nguyễn Khắc Ngữ, Bố Thuận, Thái Văn Kiểm: Năm 1955, Thái Văn
Kiểm công bố văn bản truyện Sự tích đức bà Thiên-y-a-na trên số 7. Từ năm 1957-1960,
Nguyễn Khắc Ngữ công bố liên tiếp 5 truyện cổ tích Chăm: năm 1957, truyện Pô Mê số 20 và Pô Klong Garai - số 22; năm 1958, truyện Thuỷ Liêm thần nữ - số 11; Năm
1959, truyện Thần lửa - số 38; Năm 1960, truyện Bà Xá-Y-nư (tức Bà Ba Tranh) - số 51.
Đến năm 1960, Nguyễn Khắc Ngữ cùng với Bố Thuận còn giới thiệu thêm truyện Tại sao
người Chàm Bà Ni kiêng thịt heo và thịt nhông - số 53.
Trên tạp chí Bách khoa, nhà sưu tầm Bố Thuận công bố truyện Sự tích vua Klong
Garai hay Sự tích tháp Chàm, số 52/ 1959.
Tạp chí Phổ thông đăng tải 4 văn bản truyện cổ tích Chăm từ năm 1960 đến năm
1964. Hai truyện do Parichàm công bố: Mối tình của công chúa Nai Neh (1963) - số 99
và Sự tích bà Bìa Mơhik (1964) - số 140 và hai truyện do Jaya Panrang giới thiệu - Cọp
tranh hùng với Kênh Kênh (1960) - số 74 và Trạng tí hon hay Rajakar Aneh (1969) - số
217.
Đến năm 1969, Trung tâm văn hóa Chăm được thành lập ở Phan Rang, do cố linh
mục Moussay phụ trách. Trung tâm này đã tiến hành sưu tầm và công bố ba truyện cổ tích
Chăm: Chàng Ếch và nàng Út con vua; Nàng bàn tay; Thằng mặc khố (Ja Bilaot) trên tập
Khảo lục nguyên cảo Chàm vào năm 1974.

Năm 1972 trên Nội san Phan Rang, số 1, trang 11 và 12, nhà nghiên cứu Thiên
Sanh Cảnh công bố truyện Sự tích Pô Klong Garai (tục gọi là vua Lác).
Ngoài ra thời gian này cũng còn phải kể đến công trình Việt Nam Văn học toàn thư
của tác giả Hoàng Trọng Miên có đưa vào 12 truyện cổ tích Chăm trong phần Cổ tích
Chiêm thành (gồm: Thằng gáo dừa, Anh chàng sức mạnh, Chuyện anh chàng mê gái. . . ).
Phần này bắt đầu từ trang 391 đến trang 435 trong ấn phẩm Việt Nam Văn học toàn thư do
Văn Hữu Á Châu xuất bản tại Sài Gòn, năm 1959 và bắt đầu từ trang 619 đến trang 667
trong ấn phẩm Việt Nam Văn học toàn thư do Tiếng Phương Đông xuất bản tại Sài Gòn,
năm 1973.
Trong khi đó, ở miền Bắc truyện cổ tích Chăm được biên soạn chủ yếu trong các
công trình hợp tuyển riêng và chung.
Năm 1961, hơn 15.000 cuốn Người đàn bà tóc trắng của Phạm Xuân Thông - ấn
phẩm dành riêng cho việc giới thiệu ba truyện cổ tích của dân tộc Chiêm Thành: Người
thợ cày và tên chúa đất; Chuyện Trạng và Người đàn bà tóc trắng được Nhà xuất bản Phổ
thông tại Hà Nội phát hành. Năm 1962, cuốn Hợp tuyển thơ văn Việt Nam - Văn học dân
tộc thiểu số, do Nông Quốc Chấn chủ biên (nhà xuất bản Văn hóa - Hà Nội) có đưa vào
3 truyện cổ tích Chăm: Chiếc hài vàng, Phò mã Sọ Dừa và Hoàng tử khoẻ. Năm 1964,
tổ Văn học dân gian các dân tộc, Viện Văn học đã tuyển 5 truyện cổ tích Chăm vào cuốn
Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam - tập III, Nhà xuất bản Văn học - Hà Nội. Năm
1972 tác giả Võ Quang Nhơn kể lại truyện Hoàng tử khoẻ trong cuốn Chàng Đăm Thí,
45


Đặng Thế Anh

Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội. Năm 1973, sau 12 năm kể từ khi cuốn truyện mỏng
Người đàn bà tóc trắng được xuất bản, Phạm Xuân Thông tiếp tục giới thiệu tập truyện
dân gian Chăm - Hoa Bơ-nga Chơ-re (gồm 7 truyện cổ tích), Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà
Nội.
Ngoài ra, trên tạp chí Văn học số 6/1961, tác giả Đinh Văn Thành có giới thiệu

Truyện chàng Gẫy cưa. Và đặc biệt, trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam gồm 5 tập
xuất bản từ năm 1957 đến năm 1982, mặc dù Nguyễn Đổng Chi chỉ tập hợp truyện cổ tích
của người Việt, song ông cũng đưa các văn bản truyện của các dân tộc thiểu số vào phần
khảo dị trong đó truyện cổ tích Chăm có khoảng hai chục văn bản truyện.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975, truyện cổ tích Chăm đã được
sưu tầm, công bố phổ biến nhiều và rộng rãi hơn. Toàn bộ các văn bản truyện đều đến với
người đọc bằng tiếng Việt. Bước đầu đã có những ấn phẩm riêng về truyện cổ tích Chăm
song số lượng chưa được nhiều. Một vài truyện quen thuộc xuất hiện nhiều lần trong các
tuyển tập như Chiếc giầy vàng, Truyện Sọ Dừa... cho thấy đây là những truyện nổi tiếng
nhất trong kho tàng truyện cổ tích Chăm.

2.3.

Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay

Kể từ sau năm 1975, có rất nhiều tuyển tập truyện cổ tích Chăm dày dặn được giới
thiệu. Do đó, chúng tôi xin không bàn tới những công trình hợp tuyển truyện cổ tích của
nhiều dân tộc khác nhau mà chỉ liệt kê những tuyển tập riêng. Có thể kể ra một số những
công trình nổi bật như:
- Cuốn Truyện cổ Chàm có 26 truyện (Phạm Xuân Thông, Thiên Sanh Cảnh, Nông
Quốc Thắng, Lục Ngư, Nxb Văn hóa Dân tộc, H, 1978).
- Cuốn Truyện cổ dân tộc Thuận Hải có 15 truyện (Đỗ Kim Ngư, Phạm Xuân
Thông, Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Thị Bạch Cúc sưu tầm và biên soạn, Ty Văn hoá
Thông tin Thuận hải xuất bản, 1982).
- Cuốn Truyện cổ dân tộc Chăm có 14 truyện (Phạm Xuân Thông sưu tầm và biên
soạn, Nxb Trẻ, Tp.HCM, 1986).
- Cuốn Truyện cổ Chăm có 15 truyện (Trịnh Thị Hồng Lam, Nguyễn Thị Tư, Anh
Đức sưu tầm, Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình xuất bản, 1986).
- Cuốn Trái tim nàng Palí có 12 truyện (Đỗ Kim Ngư, Nguyễn Hữu Dũng sưu tầm
và biên soạn); cuốn Nàng bàn tay có 23 truyện (Hồ Phú Diễn, Đỗ Kim Ngư sưu tầm và

biên soạn); cuốn Bò Thần Kapin có 16 truyện (Đỗ Kim Ngư sưu tầm và biên soạn). Ba ấn
phẩm này đều do Hội Văn học nghệ thuật Thuận Hải xuất bản lần lượt qua các năm 1986,
1987, 1988.
- Cuốn Nữ thần Pô Naga có 17 truyện (Trần Việt Kỉnh sưu tầm và biên soạn, Nxb
Văn hóa Thông tin, H, 1989).
- Cuốn Chàng Rắn có 10 truyện (Đỗ Kim Ngư biên soạn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh, 1993).
- Cuốn Truyện cổ dân gian Chăm, tập I có 58 truyện (Trương Hiến Mai, Bạch Cúc,
46


Bước đầu nhìn lại quá trình sưu tầm và phân loại chuyện cổ tích Chăm

Sử Văn Ngọc, Nxb Văn hóa Dân tộc và Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm Ninh Thuận,
2000).
- Cuốn Ông tướng gầy có 8 truyện (Vĩnh Trường tuyển chọn, Nxb Thanh Hóa,
2004).
- Cuốn Con dâu nhà trời có 9 truyện (Nxb Kim Đồng, H, 2006).
Ngoài ra có thể kể đến một số công trình khác như: Luận án tiến sĩ Khảo sát truyện
cổ dân tộc Chăm của tác giả Nguyễn Thị Thu Vân có 9 truyện ở phần phụ lục 4 do tác giả
sưu tầm được từ quá trình điền dã. Và chuyên luận Truyện kể dân gian các dân tộc Nam
Đảo ở Việt Nam có 15 truyện ở phần Phụ lục 3 (Phan Xuân Viện, Nxb Đại học Quốc gia
Tp Hồ Chí Minh, 2007)...
Như vậy là, từ năm 1975 đến nay, hoạt động sưu tầm, ghi chép và phát hành các ấn
phẩm về truyện cổ tích Chăm đã khởi sắc hẳn lên. Đặc biệt là sự xuất hiện của hàng loạt
tuyển tập riêng về truyện cổ Chăm. Đó là kết quả điều tra, điền dã bằng phương ngữ tại
các địa phương có người Chăm sinh sống. Trong đó, trí thức người Chăm giữ vai trò quan
trọng. Có thể chỉ ra hai lý do: Thứ nhất, như Inrasara nói “Dân tộc Chăm là một dân tộc
yêu văn chương và nghệ thuật” nên họ tâm huyết với việc giữ gìn và tôn vinh các giá trị
văn hoá của dân tộc họ; Thứ hai, không ai khác ngoài người Chăm chính là “kẻ môi giới”

(chữ dùng của N.Konrat - Viện sĩ, nhà phương Đông học nổi tiếng Nga) thành công nhất
trong việc giới thiệu văn hoá, văn học dân tộc của họ đến với mọi người.
Công đoạn tiếp theo của việc sưu tầm, công bố sẽ là việc hệ thống và phân loại làm tiền đề cho việc nghiên cứu truyện cổ tích Chăm. Sự phân loại thành ba nhóm: truyện
cổ tích loài vật - truyện cổ tích thần kỳ - truyện cổ tích sinh hoạt đã là phổ biến, có thể áp
dụng ngay cho truyện cổ tích Chăm, tuy nhiên trong từng nhóm lại cần có sự phân loại chi
tiết hơn, đặc biệt với nhóm truyện có số lượng lớn nhất là truyện cổ tích thần kỳ Chăm.
Điều này, mãi gần đây mới thực sự được chú ý bởi hai nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thu
Vân và Phan Xuân Viện.
Nguyễn Thị Thu Vân tiến hành phân loại truyện cổ Chăm ở cấp độ thể loại (thần
thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích) và cấp độ tiểu loại đối với riêng truyện cổ tích thần kỳ
Chăm (theo tiêu chí phân loại nội dung đề tài). Tác giả đã thống kê được 72 truyện cổ tích
thần kì trên tổng số 107 đơn vị truyện cổ tích Chăm và chia thành 6 đề tài - cốt truyện:
1- Cốt truyện về người xấu xí mà có tài; 2- Cốt truyện về người nghèo hoặc xấu xí gặp
may mắn; 3- Cốt truyện về người khoẻ; 4- Cốt truyện thuộc kiểu truyện Tấm Cám; 5- Cốt
truyện về anh cả - em út; 6- Cốt truyện về hôn nhân, và 13 mô típ cơ bản ở các đề tài - cốt
truyện [3].
Tác giả Phan Xuân Viện không chỉ phác hoạ bức tranh toàn cảnh về các tộc người
Nam Đảo ở Việt Nam từ góc độ văn học dân gian mà còn phân loại và rút ra những nhận
xét bước đầu về đặc điểm truyện kể dân gian của người Chăm, Churu, Êđê, Gialai, Raglai.
Ông phân chia 107 truyện cổ tích thần kì trên 179 đơn vị truyện cố tích Chăm thành 4
nhóm đề tài - cốt truyện: 1- Truyện về nhân vật chàng trai khoẻ - dũng sĩ; 2- Truyện về
nhân vật bất hạnh (mồ côi, con riêng, em út...); 3- Truyện về nhân vật lốt thú, đội lốt xấu
xí; 4- Truyện về các mối quan hệ trong gia đình, ngoài xã hội và thế giới khác [4].
47


Đặng Thế Anh

Ngoài hai tác giả kể trên thì cho đến nay chưa có thêm một công trình nào đi sâu
vào việc phân loại truyện cổ tích thần kỳ Chăm. Các công trình của hai tác giả cũng chỉ

tập trung thống kê, phân loại truyện cổ tích thần kì Chăm trên phương diện đề tài - cốt
truyện và các mô típ tiêu biểu. Đến lượt mình, ở bài viết này, chúng tôi góp thêm một cách
phân loại tiếp cận từ phương diện nhân vật chính. Bởi, từ việc định danh được các kiểu
nhân vật chính sẽ “gợi ra mối quan hệ gia đình hoặc xã hội của nó” [2;36] - tức hiện thực
được phản ánh trong tác phẩm; căn cứ vào hành động của nhân vật chính thì “người ta lập
nên sơ đồ diễn biến của số phận nhân vật - tức kết cấu cốt truyện” [2;42]; hoặc dựa vào sự
di chuyển của nhân vật chính cho người ta thể thấy sự phong phú và đa dạng của không thời gian trong truyện cổ tích thần kì... Như vậy, việc phân loại theo tiêu chí nhân vật là
điều cần thiết phải làm. Bên cạnh đó, có thể còn có một vài tiêu chí phân loại khác. Chẳng
hạn như phân loại truyện từ kiểu kết thúc (kết thúc có hậu hay không có hậu); phân loại
truyện từ góc độ không gian - thời gian (không - thời gian trần thế hay phi trần thế hoặc
không - thời gian tự nhiên, không - thời gian xã hội). . .
Như chúng ta đều đã biết: với một thể loại lớn về số lượng, phức tạp về nội dung,
đa dạng về đề tài như truyện cổ tích thì mọi sự nghiên cứu cần được bắt đầu từ khâu phân
loại. Bởi trên cơ sở phân loại, nhà nghiên cứu bắt tay vào phân tích tiểu loại, rồi đó sẽ ghép
“các mảnh rời” để thành một nhận xét toàn cảnh thể loại. Hi vọng rằng, rồi đây chúng tôi
sẽ có dịp công bố số lượng truyện cổ tích thần kì Chăm (mà chúng tôi may mắn đã có
trong tay) và việc phân loại chúng. Dưới đây, chúng tôi xin trích lược kết quả khảo sát và
phân loại truyện cổ tích thần kì Chăm của chúng tôi dựa trên các tiêu chí trên:
Chú giải: (1): Người xấu nhưng có tài; (2): Người bất hạnh gặp may mắn; (3):
Người khoẻ; (4): Người lười; (5): Người con riêng; (6): Người em út; (7): Người mồ côi
(mồ côi cả cha lẫn mẹ); (8): Kết thúc có hậu; (9): Kết thúc không có hậu; (10): Không thời gian trần thế; (11): Không - thời gian phi trần thế.
Bảng 1. Kết quả khảo sát
và phân loại truyện cổ tích thần kì Chăm [tác giả]

T
T

Tên truyện

1


Bảy chàng trai khỏe
Bốn người con gái muốn
lấy vua
Bong Lah
Cái ná chín rãnh
Cậu gạo
Cậu Xoài
Chà Rô
Chàng dũng sĩ
Chàng Ếch và nàng Út
con vua

2
3
4
5
6
7
8
9

48

Kiểu nhân vật

(1)

(2)


(3)


(4)

(5)

(6)

(7)











Kết
thúc
(8) (9)


Không gian
thời gian
(10)
(11)





























Bước đầu nhìn lại quá trình sưu tầm và phân loại chuyện cổ tích Chăm


10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
...

3.


Chàng Gù
Chàng lười
Chàng lười Ta-bong
Chàng Rắn
Chiếc cầu vong hoá đá
Chiếc hài vàng
Chuyện về chị em cô gái
bẫy chim
Cô út xấu xí lấy chồng
hoàng tử
Con dâu nhà trời
Đáng đời kẻ gian tham
Dũng sĩ diệt chằn tinh
Hoàng tử khoẻ
Hoàng tử Tềwa Mừnô
Nai Đa Kiêng
Năm người thất nghiệp
Nàng bàn tay
Nàng Út
Nàng Út lấy chồng trăn
Người em tốt bụng
Núi cười
Ông tướng gầy
Rể trăn
Sự tích con khỉ
Sự tích trái bí đao
Thằng gáo dừa
Thằng lười
...


















































































































Kết luận

3.1. Cho đến nay, quá trình sưu tầm, ghi chép và giới thiệu truyện cổ Chăm nói
chung, truyện cổ tích Chăm nói riêng đã diễn ra hơn 120 năm. Người Pháp là người đi
tiên phong trong lĩnh vực này.
3.2. Hoạt động sưu tầm, ghi chép và giới thiệu văn bản truyện cổ Chăm được thực
hiện trên một số thể loại chính như thần thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích (tuy nhiên
ranh giới thể loại còn có tính tương đối). Bước đầu khảo sát những tư liệu sưu tầm truyện
cổ Chăm, không kể những văn bản truyện trùng lặp, qua các tuyển tập chúng tôi nhận thấy
có trên 200 văn bản truyện cổ tích Chăm, trong số đó, truyện cổ tích thần kì chiếm hơn
một nửa.

3.3. Ba nguồn sưu tầm truyện cổ tích Chăm là: văn bản truyện đã được cố định hoá
49


Đặng Thế Anh

bằng chữ viết Chăm cổ trong sách cổ hay bia ký Chăm; văn bản truyện được ghi chép do
người già kể lại; và văn bản truyện được kể lại do đối tượng tiếp nhận đã được nghe hoặc
đọc trước đó.
3.4. Ba loại văn bản được công bố bằng ba thứ ngôn ngữ ứng với ba đối tượng thực
hiện việc sưu tầm và ghi chép truyện cổ Chăm là: Chăm, Pháp, Việt.
3.5. Số lượng truyện cổ tích thần kỳ Chăm là trên 100 truyện. Với số lượng đó có
thể phân loại truyện cổ tích thần kỳ Chăm thành các tiểu nhóm nhỏ hơn dựa trên các tiêu
chí: đề tài - cốt truyện; nhân vật; kiểu kết thúc; không - thời gian... Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong việc mở ra những con đường tiếp cận hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu
đến với truyện cổ tích thần kỳ Chăm nói riêng, truyện cổ tích và văn học dân gian Chăm
nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Inrasara, 2010. Văn học Chăm - Khái luận. Nxb Trí thức, Hà Nội.
[2] Lê Trường Phát, 2000. Thi pháp Văn học dân gian. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3] Nguyễn Thị Thu Vân, 2005. Khảo sát truyện cổ dân tộc Chăm. Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
[4] Phan Xuân Viện, 2007. Truyện kể dân gian các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam. Nxb
Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
[5] Viện nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam, Phân viện miền Trung, 2002. Champa
tổng mục lục các công trình nghiên cứu. Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế.
ABSTRACT
Reviews the process collection
and introduction of the fairy tales of the Cham
In the paper, the author reviews the collection and introduces fairy tales of the Cham

(Vietnam) and he divides them into 3 time periods: before 1954, from 1954 to 1975 and
from 1975 until the present. There are three sources of Cham’s fairy tales. Three documents were published in three languages, Cham, French, Vietnamese, with three objects
which collected and recorded the Cham fairy tales. In recent years, attention is being given
to classification.

50



×