VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH THỊ THÚY VÂN
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN
BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH THỊ THÚY VÂN
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN
BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn, kết quả trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Trịnh Thị Thúy Vân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI ............................................................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi...................................................................... 7
1.2 Nguyên tắc tiến hành tố tụng khi xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18
tuổi ............................................................................................................... 17
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về thủ tục xét
xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi đến trước khi ban hành bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 ................................................................................. 23
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI ĐỊA
BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM..................................... 29
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi ........................................ 29
2.2. Thực tiễn thi hành quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
giai đoạn từ năm 2014 – 2019 ...................................................................... 33
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ............................................................................ 51
3.1 Yêu cầu .................................................................................................. 51
3.2 Giải pháp ................................................................................................ 53
KẾT LUẬN ................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 68
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
TAND
Tòa án nhân dân
THTT
Tiến hành tố tụng
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TTHS
Tố tụng hình sự
HĐXX
Hội đồng xét xử
VAHS
Vụ án hình sự
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
2.1.
Số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội tại thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014-2019
Trang
30
Số liệu thống kê cơ cấu tội phạm do người dưới 18
2.2.
tuổi thực hiện tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh
31
Quảng Nam
Người dưới 18 tuổi phạm tội tại địa bàn thị xã Điện
2.3.
Bàn, tỉnh Quảng Nam theo nhóm tuổi
31
Số liệu án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện
2.4.
trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai
33
đoạn 2014-2019
Hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
2.5.
phạm tội trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam giai đoạn 2014-2019
35
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị xã Điện Bàn là đơn vị hành chính phía Bắc tỉnh Quảng Nam là nơi
tiếp giáp với hai thành phố Đà Nẵng và Hội An, nơi có khu công nghiệp lớn
nhất nhì của tỉnh Quảng Nam. Trong những năm gần đây, kinh tế địa phương
phát triển, nhiều Công ty, Nhà máy mọc lên, dân số Điện Bàn đón thêm một
lượng lớn dân nhập cư từ các nơi về làm việc tại Khu công công nghiệp nên
tình hình xã hội ngày càng phức tạp, các loại tội phạm ngày càng nhiều và đa
dạng hơn, trong đó đặc biệt quan tâm là đối tượng phạm tội dưới 18 tuổi ngày
càng nhiều, gia tăng về tính chất cũng như mức độ nguy hiểm. Trước tình
hình trên, thị xã Điện Bàn nói riêng và cả nước nói chung vẫn từng ngày
chung tay góp sức cho việc giải quyết vấn đề về người dưới 18 tuổi phạm
tội, đây là việc làm cần thiết để giữ nghiêm ổn định chính trị và trật tự an
toàn xã hội.
Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta có quan điểm nhân đạo, nhân
văn khi giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó, vấn đề
không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó, mà
điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động
phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra.
Xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đó, việc áp dụng pháp luật tố
tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của nước ta không chỉ nhằm
mục đích giáo dục, uốn nắn, răn đe những hành vi lệch lạc mà còn giúp các
em thấy được sai lầm của mình để tự giác sửa chữa những sai lầm đó cùng
với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội để sau này thành người có
ích cho xã hội. Chính vì lẽ trên nên khi xây dựng luật các nhà làm luật cũng
đã dành một chương riêng gọi là thủ tục đặc biệt quy định tại Chương XXVIII
Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.
2
Như vậy, có thể khẳng định rằng trong các hoạt động tố tụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội cần tuân thủ đúng nguyên tắc tiến hành tố tụng,
bảo đảm thủ tục tố tụng dành cho người dưới 18 tuổi phải gần gũi, thân
thiện, và nhất là phải phù hợp với tâm sinh lý, khả năng nhận thức, tư duy
của người dưới 18 tuổi, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp tối ưu dành cho
họ. Bên cạnh đó những người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới
18 tuổi phải là người đã được đào tạo có kinh nghiệm, có hiểu biết cần thiết
về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi và một trong
các hoạt động đảm bảo theo nguyên tắc trên thì hoạt động xét sơ thẩm vụ án
có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội được quan tâm chú trọng. Đây là
một hoạt động có ý nghĩa, tác động rất lớn đến tâm sinh lý của người dưới
18 tuổi.
Thực tiễn xét xử tại TAND thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam bên cạnh
những kết quả đạt được thì cũng còn không ít những khó khăn, vướng mắc,
đặc biệt là liên quan đến công tác áp dụng pháp luật đối với người dưới 18
tuổi. Những khó khăn đó ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cũng chưa
được công trình nào nghiên cứu để có biện pháp khắc phục.
Vì vậy để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện về thủ tục tố tụng tại phiên
tòa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bản thân đang là Thẩm phán trực tiếp
giải quyết, xét xử các vụ án, trong đó có không ít vụ mà bị cáo là người dưới
18 tuổi phạm tội nên cũng có nhiều những trăn trở trong việc áp dụng pháp
luật từ những quy định trên giấy đến thực tiễn, vẫn chưa truyền tải được hết ý
nghĩa nhân văn từ quy định pháp luật vận dụng vào thực tế cho người dưới 18
tuổi được hưởng nên tôi lựa chọn đề tài: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học và cũng nhằm nghiên cứu
để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho mình khi giải quyết vụ án có đối tượng tội
phạm là người dưới 18 tuổi.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017) ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 trong đó có những quy
định mới về thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì có rất
nhiều những công trình khoa học, những bài viết nghiên cứu liên quan về lĩnh
vực trên như:
- “Pháp luật tố tụng hình sự với việc bảo đảm quyền con người của
người bị buộc tội dưới 18 tuổi” của TS Nguyễn Hải Ninh, Khoa pháp luật
hình sự, Đại học luật Hà Nội đăng trên Nghiên cứu lập pháp số 08(384)-2019.
- Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2018 (Học viện khoa học xã hội) của
tác giả Dương Ngọc Lữ “Thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo dưới 18 tuổi
từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh”.
- Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2018 (Học viện khoa học xã hội) của
tác giả Bùi Thị Dung “Thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18
tuổi từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”
- Luận văn thạc sĩ luật học 2014, Đại học quốc gia Hà Nội của tác giả
Đỗ Xuân Hồng “Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
Như vậy, nghiên cứu về vấn đề thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên phạm tội nhận được nhiều sự quan tâm. Các công trình nghiên cứu,
đề tài khoa học nói trên đều là những công trình có giá trị về mặt lý luận cũng
như thực tiễn. Tuy nhiên, liên quan đến việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam thì chưa có một công trình nghiên cứu nào. Do đó, đề tài này
không trùng với bất kỳ đề tài hoặc công trình nghiên cứu nào đã được công
bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
4
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi từ thực tiễn tại Tòa
án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; từ đó đề xuất những giải pháp
tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử đối với những bị cáo là người
dưới 18 tuổi trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với những mục đích nói trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra và phải
giải quyết đối với đề tài này bao gồm:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận như: Khái niệm thủ tục xét xử đối
với người dưới 18 tuổi; đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi.
- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Phân tích, đánh giá việc áp dụng những quy định pháp luật vào thực
tiễn xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi tại thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam; những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn
chế, từ đó đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng
xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng: Luận văn nghiên cứu về các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi và thực
tiễn áp dụng tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về thủ tục xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội,
+ Phạm vi về không gian: Luận Văn nghiên cứu thực tiễn vụ án hình sự
đối với người dưới 18 tuổi tại Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn.
+ Phạm vi về thời gian: Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2019 là phạm
vi nghiên cứu về không gian, thời gian của luận văn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật cùng với các quan điểm chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm và xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Trong quá trình
thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, thống kê để từ đó nhận xét,
đánh giá những kết quả đạt được, những nguyên nhân hạn chế và đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về thủ tục xét xử đối với bị cáo là người
dưới 18 tuổi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa góp thêm một phần lý luận về
quy định thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi cho khoa
học Luật TTHS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng là tài liệu tham khảo cần thiết trong
việc nghiên cứu, phục vụ cho công tác giảng dạy pháp luật và những người
làm công tác thực tiễn, xét xử đối với các vụ án mà bị cáo là người dưới 18
tuổi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
luận văn được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi;
Chương 2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục
xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi và thực tiễn áp dụng
tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam;
6
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
1.1.1. Khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi
Có thể khẳng định, ở xã hội nào thì con người cũng là trung tâm của
các hoạt động xã hội. Do đó, quyền con người là vấn đề được các nhà nước
quan tâm. Đặc biệt, ở chế độ xã hội chủ nghĩa thì quyền con người luôn được
chú trọng bảo đảm. Chính vì vậy mà việc xem con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực cho sự phát triển đất nước là vấn đề xuyên suốt trong đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Trong đó người dưới 18 tuổi là
nền tảng của sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước, tương lai của dân tộc. Đó
là lý do tại sao Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung năm 2011) đã khẳng định rất rõ ràng: “…Chú trọng cải
thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục
và bảo vệ trẻ em…”[]. Như vậy, người dưới 18 tuổi được Nhà nước tạo mọi
điều kiện thích hợp để phát triển toàn diện, trong đó tất yếu bao gồm cả bảo
vệ các quyền con người của người dưới 18 tuổi khỏi các hành vi xâm phạm.
Vấn đề này cũng được quy định trong đạo luật gốc của Việt Nam, theo
đó Điều 37 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận rằng: “Trẻ em được Nhà nước, gia
đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề
về trẻ em”[]. Cụ thể hóa nội dung của Hiến pháp, Điều 5 Luật trẻ em năm
2016 khẳng định: “...Không phân biệt đối xử với trẻ em. Bảo đảm lợi ích tốt
nhất của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em. Tôn trọng, lắng
nghe, xem xét, phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em...”[]. Như vậy, Nhà
8
nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các quyền con người của trẻ em, người
dưới 18 tuổi.
Ở góc độ hình sự, người dưới 18 tuổi là đối tượng thuộc nhóm dễ tổn
thương trong quan hệ pháp luật hình sự. Do đó, các chính sách của nước ta
đều tập trung hướng đến việc bảo đảm quyền cơ bản của người dưới 18 tuổi
trong hoạt động tố tụng, trong trường hợp tham gia tố tụng hoặc ngay cả khi
họ là chủ thể phạm tội. Chính sách hình sự nhân văn đối với người dưới 18
tuổi được cụ thể trong các văn bản pháp lý chuyên ngành, trong đó có Bộ luật
Tố tụng hình sự. Bộ luật này là cơ sở pháp lý quan trọng để các quyền cơ bản
của người dưới 18 tuổi được ghi nhận; đặc biệt, các cơ quan tiến hành tố tụng
với tư cách là người thực thi công vụ có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm các
quyền đó được thực hiện một cách minh bạch, chính xác. Qua đó, vừa bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi trước các hành vi xâm
hại, vừa bảo đảm hoạt động tố tụng diễn ra khách quan, việc xử lý tội phạm
công minh, tăng cường tính phòng ngừa, giáo dục tội phạm, nhất là tội phạm
là người dưới 18 tuổi để họ có điều kiện cải tạo, sửa chữa sai lầm.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về người dưới 18 tuổi. Theo
Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em (The United Nation Convention on the
Rights of the Child - CRC) đã định nghĩa “trẻ em” là bất kỳ người nào dưới
18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia có quy định khác.
Ở Việt Nam, theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1992
(sửa đổi 2004) quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Theo Bộ luật Dân sự,
Luật Hôn nhân và gia đình đều quy định người chưa đủ 18 tuổi là người chưa
thành niên.
Theo pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự trước khi ban hành BLHS năm
2015 quy định người chưa thành niên phạm tội là người trong độ tuổi từ đủ 14
đến dưới 18 tuổi. Cụ thể, theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số
9
01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 thì
người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất và tâm
thần. Thông tư liên tịch nêu rất rõ người dưới 18 tuổi thuộc đối tượng dễ bị
tổn thương, nhất là trong trường hợp họ tham gia tố tụng hình sự. Chính vì
vậy, họ cần được bảo vệ theo đúng lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu
cá nhân khi tham gia các quan hệ tố tụng hình sự. Đó là lý do mà BLHS năm
2015 (tại Chương XII) và BLTTHS năm 2015 (tại Chương XXVIII) quy định
các đường lối, thủ tục xử lý đặc biệt đối với chủ thể là người dưới 18 tuổi.
Vậy, xem xét một cách tổng quát thì khái niệm trẻ em và người chưa
thành niên tham gia vào hoạt động tố tụng của pháp luật Việt Nam hiện nay là
có sự phù hợp với nhau và độ tuổi là dưới 18 tuổi. Quy định này cũng hoàn
toàn phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền tư pháp đối với trẻ em.
- Về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi:
Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự
bắt buộc trong các vụ án hình sự. Việc đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
đối với người dưới 18 tuổi theo như những phân tích về khái niệm người dưới
18 tuổi phạm tội trên thì đây thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và cần
sự bảo vệ đặc biệt cho nhóm đối tượng này, được quy định trong luật quốc tế
và luật pháp của tất cả quốc gia. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 kế thừa
những điểm tiến bộ trong các Bộ luật trước đây, phù hợp với luật pháp quốc
tế, xây dựng thủ tục tố tụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại
Chương XXVIII. Quy định thủ tục riêng này bảo đảm tuân thủ quy định tại
Khoản 3 Điều 40 Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989 cũng như các
Công ước khác về quyền con người mà Việt Nam tham gia.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo
một trật tự quy định để tiến hành một công việc có tính chất hình thức” [35,
tr.781]. Còn “Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của
10
các Tòa án [21, tr.576]. Có nghĩa là, xét xử là hoạt động đánh giá bản
chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán quyết chính xác, khách quan
và toàn diện về bản chất, mức độ trái pháp luật của vụ việc đó. Vì lẽ đó, hoạt
động đánh giá này phải được xem xét kỹ lưỡng qua nhiều mức độ, góc độ
khác nhau. Đó là lý do BLTTHS quy định các thủ tục xét xử khác nhau như:
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Theo Từ điển luật học, “Sơ thẩm là lần đầu tiên đưa một vụ án ra xét
xử tại một tòa án có thẩm quyền” [21, tr.434]. Như vậy, về bản chất, xét xử
sơ thẩm là hoạt động xem xét, phán quyết lần đầu của cơ quan có thẩm quyền
xét xử. Nội dung này cũng được quy định rất rõ tại Khoản 1 Điều 27
BLTTHS năm 2015. Theo đó, ở Việt Nam “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
được bảo đảm”, trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm (lần đầu) của Tòa án
bị kháng cáo, kháng nghị thì thủ tục xem xét phúc thẩm (lần thứ hai) sẽ được
tiến hành. Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị trong thời hạn do BLTTHS quy định thì có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, xét xử sơ thẩm có thể hiểu là việc xét xử lần đầu do Toà án có
thẩm quyền tiến hành việc xem xét, phán quyết vụ việc cụ thể. Trong tố tụng
hình sự, đó là quá trình chuẩn bị và đưa vụ án hình sự ra xem xét, xử lý công
khai bằng một phiên tòa. Tại đó, các chứng cứ của Cơ quan điều tra, sự cáo
buộc của Viện kiểm sát, ý kiến của người bị buộc tội, người làm chứng, người
có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bào chữa,… được trình bày để Hội
đồng xét xử có điều kiện theo dõi, đánh giá và đưa ra phán quyết khách quan.
Có quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử một vụ
án hình sự ở cấp thấp nhất. Có thể thấy quan điểm này đã phần nào nêu bật
được bản chất của sơ thẩm là việc xét xử cấp đầu tiên. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng, quan điểm này phần nào đã hạ thấp giá trị pháp lý của việc xét xử sơ
thẩm. Việc xem xét sơ thẩm là giai đoạn xét xử lần đầu song nếu bản án,
11
quyết định của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì nó có hiệu lực
pháp luật và tất yếu phải được thi hành. Đó là điều mà các bản án, quyết định
ở các cấp xem xét khác cũng có chứ không riêng gì ở xét xử sơ thẩm. Cũng có
quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất của Tòa án
[30]. Qua nghiên cứu các văn bản pháp lý liên quan đến chức năng xét xử, tác
giả thấy rằng Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử tại nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc xét xử lần thứ nhất được tiến hành ở các cấp
Tòa án (cấp huyện, cấp tỉnh). Việc xét xử có thể được tiến hành ở cấp sơ
thẩm, nhưng nếu bị kháng cáo, kháng nghị thì có thể được xem xét tiếp ở thủ
tục phúc thẩm, thậm chí trường hợp xảy ra các sai sót về định tội danh, áp
dụng hình phạt,… thì bản án, quyết định của Tòa án có thể bị hủy và yêu cầu
cấp sơ thẩm xét xử lại. Như vậy, cần khẳng định xét xử sơ thẩm là hoạt động
xem xét vụ án hình sự của Tòa án cấp thứ nhất và kết quả của việc xem xét đó
là bản án, quyết định liên quan đến việc có tội hay không có tội, hình phạt
hoặc biện pháp tư pháp được áp dụng là gì.
Với tư cách là biện pháp mang tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước, pháp luật hình sự vẫn dành sự quan tâm với người dưới 18 tuổi.
Theo đó, pháp luật hình sự thực định có sự điều chỉnh đặc biệt dành riêng cho
người tham gia tố tụng hình sự, ngay cả khi họ là người phạm tội. Cụ thể hơn,
Chương XXVIII BLTTHS năm 2015 quy định thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi. Bên cạnh đó, Điều 413 BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn về
thủ tục tố tụng hình sự cho người 18 tuổi bao gồm: Người bị buộc tội, bị hại
và người làm chứng. Theo đó, người dưới 18 tuổi được ưu tiên hơn từ việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn, về điều kiện của người tiến hành tố tụng, về sự
tham gia của gia đình, xã hội vào các giai đoạn cho đến khi thi hành án. Đơn
cử như việc áp dụng biện pháp giao cho gia đình giám sát người dưới 18 tuổi
thay vì áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang tính nghiêm khắc. Hay như
12
một số hoạt động tiến hành tố tụng trong vụ án có người dưới 18 tuổi tham
gia đòi hỏi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải những hiểu biết nhất
định về người dưới 18 tuổi và được cấp chứng chỉ, chứng nhận về vấn đề này.
Các quy định này xuyên suốt trong quá trình tố tụng hình sự, trong đó thể
hiện tập trung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Điều này thể hiện
tính nhân đạo, nhân văn của Nhà nước ta ngay từ khi có người dưới 18 tuổi
tham gia quan hệ pháp lý mà ở đó, cơ quan xét xử là Tòa án sẽ xem xét, đánh
giá hành vi của người bị buộc tội bất kỳ là có tội hay không có tội, quyết định
đến số phận của những thực thể trong xã hội. Đặc biệt, khi người dưới 18 tuổi
lại chính là người bị buộc tội thì những quy trình tố tụng thân thiện sẽ là chỗ
dựa vững chắc để họ yên tâm tham gia tố tụng, tự mình hoặc nhờ người khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Qua đó, nhận thức thêm về
pháp luật nói chung, về pháp luật hình sự nói riêng và gần gũi nhất là quyền
và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng hình sự ở một tư cách cụ thể được BLTTHS
quy định.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi như sau: Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi là việc Tòa án tiến hành các
thủ tục chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của pháp
luật để xác định bị cáo là người dưới 18 tuổi có phạm tội hay không và áp
dụng hình phạt cũng như biện pháp tư pháp đối với họ nếu họ phạm tội.
1.1.2. Đặc điểm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi
Xuất phát từ tính nhân đạo của chính sách Nhà nước Việt Nam nói
chung và chính sách pháp luật hình sự nói riêng, thủ tục xét xử vụ án hình sự
đối với người 18 tuổi phạm tội có những đặc điểm riêng có. Chính vì điều đó,
thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi phạm tội là thủ tục
13
đặc biệt và được quy định thành một chương riêng của BLTTHS. Theo đó,
người tiến hành tố tụng khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi phải tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh. Các hoạt động tố
tụng, áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phải đều phải được xem
xét kỹ lưỡng và hướng đến việc tạo ra môi trường thân thiện, gần gũi mà
trong đó người dưới 18 tuổi đủ điều kiện để yên tâm thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình.
Đặc điểm về chủ thể: Trên cơ sở các đặc điểm tâm sinh lý, khả năng và
trình độ nhận thức xã hội, nhận thức pháp luật của người dưới 18 tuổi, pháp
luật TTHS có những quy định đặc biệt để áp dụng riêng đối với những trường
hợp mà người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Theo đó, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng mà cụ thể là Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm khi
tham gia xét xử vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi thì đòi hỏi phải có hiểu
biết nhất định về người dưới 18 tuổi. Họ cần phải nắm bắt các kiến thức, kinh
nghiệm về tâm lý, đặc điểm nhận thức của người dưới 18 tuổi để có thể vận
dụng các biện pháp nghiệp vụ, đưa ra các quyết định tố tụng phù hợp. Nhất là
Thẩm phán, họ là người đưa ra các phán quyết liên quan đến số phận pháp lý
của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, thì hơn ai hết, họ phải am hiểu
sâu sắc về người dưới 18 tuổi từ đó mới có thể đưa ra được các quyết định
chính xác, phù hợp.
Đặc điểm về thủ tục xét xử:
Người dưới 18 tuổi có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý, đòi hỏi thủ
tục xét xử được áp dụng đối với họ phải thân thiện, tạo cho bị cáo sự yên tâm
khi tham gia tố tụng. Đó cũng là lý do mà khoản 1 Điều 414 BLTTHS năm
2015 quy định nguyên tắc THTT là phải bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện,
phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của
người dưới 18 tuổi. Qua đó, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
14
dưới 18 tuổi và hướng đến bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi
[31]. Môi trường tố tụng thân thiện, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi tự nhận thức để thực hiện đầy đủ các quyền,
nghĩa vụ của mình.
Thủ tục TTHS thân thiện còn thể hiện qua việc pháp luật quy định theo
hướng hạn chế thấp nhất việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi. Nói cách khác, chỉ khi thật cần thiết thì
các biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn mang tính nghiêm khắc mới được áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi. Đơn cử như trước khi muốn áp dụng biện
pháp tạm giam thì các biện pháp ngăn chặn khác phải được cân nhắc, xem xét
để ưu tiên áp dụng. Khoản 1 Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLTVKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 quy định rất
cụ thể về việc trước khi quyết định áp dụng biện pháp mang tính cưỡng chế
cao như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam người
dưới 18 tuổi, người, cơ quan THTT nhất định phải xem xét kỹ lưỡng việc áp
dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế thấp hơn nhưng vẫn bảo đảm bảo
hiệu quả của hoạt động tố tụng như cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất
cảnh; giám sát tại gia đình. Không những vậy, Thông tư liên tịch còn quy
định ngay cả khi áp dụng tạm giam bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi mà có
đủ căn cứ để xem xét áp dụng bảo lĩnh hoặc biện pháp đặt tiền để bảo đảm thì
người, cơ quan THTT cần áp dụng các biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để
bảo đảm thay thế cho biện pháp tạm giam.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, môi trường xét xử thân thiện không chỉ
giúp HĐXX thuận tiện trong công tác điều hành, xét xử mà bản thân bị cáo là
người dưới 18 tuổi cũng phát huy tối đa quyền đưa ra ý kiến, tài liệu, đồ vật;
quyền tự bào chữa,... Qua đó, đảm bảo cho hoạt động bình thường của TTHS,
tạo tiền đề để HĐXX đưa ra phán quyết công minh, chính xác và thể hiện hết
được chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm
15
tội là người dưới 18 tuổi. Đó cũng chính là yêu cầu được khoản 1 Điều 91
BLHS năm 2015 ghi nhận đầy đủ. Theo đó, trong công tác xử lý người dưới
18 tuổi phạm tội phải hướng đến việc bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới
18 tuổi; mặt khác phải giúp đỡ cho họ sữa chữa sai lầm, phát triển toàn diện.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi hướng tới việc bảo đảm lợi ích tốt nhất của
người dưới 18 tuổi là quy định hoàn toàn mới của BLHS năm 2015. Hiện nay
chưa có văn bản nào hướng dẫn như thế nào là lợi ích tốt nhất nhưng đó được
hiểu là lợi ích tối ưu mà người, cơ quan THTT phải bảo đảm và nỗ lực hướng
đến. Mặt khác, xét đến cùng thì pháp luật hình sự được hình thành và áp dụng
thì cũng vì con người. Do đó, phát huy tối ưu mục đích của hình phạt là
phòng ngừa và giáo dục người phạm tội. Là đối tượng có sự hạn chế nhất định
về lứa tuổi, nhận thức thì tất yếu người dưới 18 tuổi phải càng được tạo điều
kiện hơn để tự nhận ra sai lầm và cải tạo thành người có ích cho xã hội. Và đó
cũng là những gì xã hội hướng tới, những điều mà người làm công tác áp
dụng pháp luật hình sự cần phải lưu tâm, suy xét kỹ lưỡng.
1.1.3. Ý nghĩa thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới
18 tuổi
Có thể thấy, với các đặc điểm đạc biệt về tâm sinh lý, người dưới 18
tuổi là đối tượng rất nhạy cảm. Do đó, khi rơi vào tình huống pháp lý bất lợi,
đối tượng này rất dễ bị tác động, nhất là tác động từ các quyết định, hành vi tố
tụng hình sự. Chính vì thế thủ tục tố tụng nói chung và thủ tục xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi cần phải tạo được sự niềm tin của
người dưới 18 tuổi đối với pháp luật, với CQTHTT để họ chủ động, tích cực
trong các hoạt động TTHS, đảm bảo cho việc xét xử diễn ra thuận lợi, đạt
được mục đích cuối cùng của hình phạt là vì con người. Và kết quả của bản
án chính là kết tinh của các quá trình tố tụng. Do đó, bản án phải cho thấy
được kết quả điều tra, truy tố, xét xử người dưới 18 tuổi là có căn cứ, đúng
16
quy định pháp luật song vẫn luôn mở đường cho người dưới 18 tuổi nhận thức
sai lầm của bản thân và thay đổi để hướng thiện, hòa nhập lại với xã hội. Nói
khác đi, bản án phải vừa có “lý” vừa có “tình” trong đó. Một bản án được ban
hành phải có đủ cả hai yếu tố đó thì mới đảm bảo được ý nghĩa của hình phạt.
Nó không đơn thuần là quyết định một hình phạt hoặc một biện pháp tác động
lên người dưới 18 tuổi phạm tội mà nó phải giúp bản thân người dưới 18 tuổi
phạm tội và những người khác ý thức được sự công minh của pháp luật, để từ
đó mà điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với pháp luật, không làm
ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội.
Việc tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự mà đặc biệt là ở giai đoạn
xét xử đối với người phạm tội dứoi 18 tuổi bao giờ cũng gây nên các xung đột
các lợi ích. Một là, sự xung đột lợi ích giữa một bên là số đông (xã hội) mà
đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước và nhân dân trao
quyền với bên kia là lợi ích của bị cáo dưới 18 tuổi bị tình nghi là đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo đó, bên phía các cơ quan tiến hành
tố tụng với quyền lực, vật chất là Nhà nước trao cho, cùng với đó là sự ủng hộ
từ xã hội đang chiếm thế “thượng phong” so với bên kia là bị cáo dưới 18 tuổi
với trình độ, nhận thức còn hạn chế. Hai là, CQTHTT mà cụ thể là Tòa án
được Nhà nước trao cho quyền năng rất lớn và riêng có là phán xử hành vi
của bị cáo là có tội hay không có tội. Do đó, việc lạm quyền là hoàn toàn có
thể xảy ra trong trường hợp này. Tất nhiên đi liền với hoạt động xét xử của
Tòa án thì lúc nào cũng được kiểm sát bởi Viện kiểm sát. Tuy nhiên, ở một
chừng mực nào đó, quyền xét xử lại độc lập và phụ thuộc vào nhận thức và
trách nhiệm của người Thẩm phán. BLHS luôn có một “độ rộng” trong các
khung hình phạt mà Thẩm phán có thể áp dụng. Sự tùy nghi của Thẩm phán
nếu đúng, khách quan thì không sao nhưng nếu chỉ cần một sự thiếu khách
quan trong đó thì quyền của người dưới 18 tuổi rất dễ bị xâm hại. Chính vì
17
vậy, để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của chủ thể đặc biệt – người dưới 18
tuổi mà cao hơn là quyền con người của người bị buộc tội, sự khách quan,
thận trọng của người áp dụng pháp luật hình sự cần phải được coi trọng.
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã thể hiện rất rõ trẻ em
là người còn hạn chế về thể chất và trí tuệ, do đó cần được bảo vệ, ngay cả về
mặt pháp lý [42]. Với quan điểm nhất quán về quyền của người dưới 18 tuổi,
Nhà nước Việt Nam đã thể chế hóa nhiều nội dung quan trong trong Công
ước quốc tế về quyền trẻ em sao cho phù hợp với điều kiện của đất nước.
Trong đó đáng ghi nhận là việc chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất
là pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi. Thiên hướng hoàn thiện là tạo
mọi điều kiện để giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi.
Tóm lại, việc quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thành một chương riêng biệt trong BLTTHS có ý nghĩa rất lớn trong
việc đảm bảo tối ưu các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dưới
18 tuổi để từ đó đưa các quyết định, phán quyết đúng đắn nhất đối với họ, tạo
điều kiện thuận lợi để họ thích nghi, phát triển bình thường ngay cả khi rơi
vào “vòng quay THHS”.
1.2. Nguyên tắc tiến hành tố tụng khi xét xử sơ thẩm đối với người
dưới 18 tuổi
Nguyên tắc là những điều cốt lõi được định sẵn và nhất thiết phải tuân
tuân thủ khi thực hiện một công việc cụ thể []. Như vậy, nguyên tắc THTT là
những điều được định sẵn mà người, CQTHTT phải tôn trọng và tuân thủ
chặt chẽ. Điều 414 Bộ luật TTHS năm 2015 đã chỉ ra rất rõ khi tiến hành giải
quyết vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi, trong đó có người bị buộc tội dưới
18 tuổi, phải tuân theo đầy đủ các nguyên tắc sau đây:
- Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, sao cho phù hợp với lứa tuổi, tâm
lý, mức độ trưởng thành cũng như trình độ nhận thức của người dưới 18 tuổi.
18
Bảo đảm tối ưu quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia tố tụng của người
dưới 18 tuổi. Và đặc biệt, phải bảo đảm lợi ích tốt nhất dành cho người dưới
18 tuổi.
- Bảo đảm giữ bí mật cá nhân, bí mật riêng tư của người dưới 18 tuổi.
- Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới
18 tuổi. Bảo đảm sự tham gia của Ðoàn thanh niên, Nhà trường, người có
kinh nghiệm và hiểu biết về tâm lý nơi người dưới 18 tuổi học tập, công tác.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền được trình bày ý kiến của người dưới 18
tuổi. Đây là quyền quan trọng giúp người dưới 18 tuổi chủ động bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình một cách chủ động, tích cực.
- Bảo đảm quyền bào chữa và quyền được trợ giúp pháp lý của người
dưới 18 tuổi.
- Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của BLHS đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam.
- Bảo đảm giải quyết kịp thời, chính xác các vụ án liên quan đến người
dưới 18 tuổi.
Các nguyên tắc này đã đặt người dưới 18 tuổi vào vị trí đặc biệt của
TTHS. Các hoạt động tố tụng liên quan, nhất là xét xử vụ án hình sự phải chú
ý đến các điều kiện, yếu tố có thể tác động đến người dưới 18 tuổi. Các
nguyên tắc này được xây dựng dựa trên đặc điểm đặc biệt về tâm sinh lý của
người dưới 18 tuổi. Nhưng ở góc độ nào đó, phải nhìn nhận lại, các hành vi
nguy hiểm cho xã hội do người dưới 18 tuổi thực hiện có phần trách nhiệm từ
phía nhà trường, gia đình và xã hội. Chính vì vậy, sự xem xét, cân nhắc các
yếu tố tác động làm người dưới 18 tuổi phạm tội cũng phải tính đến lỗi từ các
chủ thể khác trong xã hội, nhất là các chủ thể liên quan đến nuôi dưỡng, giáo
dục người dưới 18 tuổi.
19
Sự cấp tiến trong các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam còn thể
hiện ở góc độ, vốn dĩ các tội phạm sinh ra là đi ngược lại lợi ích chung của xã
hội, phương hại đến các điều kiện tồn tại của xã hội đó. Nhưng việc Nhà nước
áp dụng các biện pháp để ngăn chặn, phòng ngừa gây bất lợi cho chủ thể thực
hiện tội phạm cũng có chừng mực và có sự phân hóa áp dụng. Đối với người
dưới 18 tuổi, các sự kiện pháp lý bất lợi gây ảnh hưởng rất lớn đến sự hình
thành nhân cách, phát triển tư duy, thể lực. Do đó, các biện pháp mang tính
quyền tính quyền lực nhà nước, có tính cưỡng chế và nghiêm khắc cần phải
được áp dụng linh hoạt, mềm dẻo. Để đảm bảo để điều đó được thực hiện,
BLTTHS đã quy định các nguyên tắc mà người, CQTHTT bắt buộc phải thực
hiện một cách nghiêm chỉnh. Thậm chí ngay cả trường hợp áp dụng Quy
phạm pháp luật tùy nghi thì các nguyên tắc này cũng tác động để sự “tùy
nghi” nằm trong giới hạn cho phép. Suy cho cùng, tất cả các hoạt động TTHS
từ điều tra, truy tố, xét xử hay thậm chí là thi hành án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi đến cuối cùng cũng là để giáo dục, cải tạo họ. Chính vì vậy, xử
lý người dưới 18 tuổi không đơn thuần là áp dụng một hình phạt, một biện
pháp tư pháp mà phải tạo được môi trường, điều kiện và cơ hội để họ nhận
thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội để tự cải tạo, phát triển lành mạnh và
toàn diện, trở thành người tốt hay chí ít là người vô hại trong xã hội.
Bảo đảm thủ tục tố tụng “thân thiện”, sao cho phù hợp với tâm lý, khả
năng nhận thức của người dưới 18 tuổi là nguyên tắc trước tiên mà CQTHTT
cần phải tuân theo. Nguyên tắc này là nguyên tắc mang tính bao trùm, có sự
tác động và chi phối rõ rệt đối với các nguyên tắc khác. Đây cũng là nguyên
tắc cụ thể hóa và tiệm cận với quy định tại Điều 40 Công ước quốc tế về
quyền trẻ em của Liên Hợp quốc.
Đường lối, chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhất
thiết phải căn cứ vào độ tuổi. Độ tuổi khác nhau thể hiện các biểu hiện khác