VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TẤN LONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TẤN LONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số:
60. 38. 01. 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Tấn Long
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN ................................................................................................................. 6
1.1. Những vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa
thành niên .......................................................................................................... 6
1.2. Quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
chưa thành niên ............................................................................................... 17
Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 31
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............ 32
2.1. Khái quát tình hình xét xử hình sự sơ thẩm đối với người chưa thành niên
tại tỉnh Quảng Nam ......................................................................................... 32
2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên tại
tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 39
Kết luận Chương 2 .......................................................................................... 57
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XÉT XỬ SƠ THẨM ĐÚNG
VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN .................................... 58
3.1. Dự báo tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện và phương
hướng, nhiệm vụ của TAND hai cấp tỉnh Quảng Nam .................................. 58
3.2. Các giải pháp bảo đảm xét xử sơ thẩm đúng đối với người chưa thành
niên phạm tội ................................................................................................... 62
Kết luận Chương 3 .......................................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLLĐ
: Bộ luật Lao động
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
HĐXX
: Hội đồng xét xử
NCTN
: Người chưa thành niên
QĐHP
: Quyết định hình phạt
QPPL
: Quy phạm pháp luật
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân Tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1.
Tên bảng
Trang
Số lượng và tỷ lệ vụ án đưa ra xét xử sơ thẩm có bị cáo là
33
người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
2.2.
Số lượng và tỷ lệ bị cáo là người chưa thành niên bị đưa ra
34
xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
2.3.
Thống kê người chưa thành niên phạm tội theo tội danh
35
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến năm 2015
2.4.
Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa
thành niên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
39
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên biểu
Trang
So sánh tỷ lệ bị cáo là người chưa thành niên với tổng số
34
biểu
2.1.
bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam
2.2.
So sánh tỷ lệ số lượng bị cáo là người chưa thành niên
phạm các tội phổ biến trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
36
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã nói:"Thiếu niên, nhi đồng là người chủ
tương lai của nước nhà, thanh thiếu niên là bộ phận quan trọng của dân tộc".
Người xác định:"Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người".
Tư tưởng của Bác thể hiện sự quan tâm và bảo vệ thế hệ trẻ, bởi họ sẽ là chủ nhân
của đất nước trong tương lai.
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể chất
và tinh thần, họ là người đang ở giai đoạn hình thành cũng như phát triển về nhân
cách và chưa thể có suy nghĩ chín chắn khi quyết định hành vi của mình như những
người đã thành niên. Do tư duy chưa được hoàn thiện nên họ nhận thức chưa đầy
đủ, toàn diện về hệ quả và những tác động do hành vi của mình gây ra. Nhiều trường
hợp người chưa thành niên không ý thức được hành vi của mình là hành vi phạm tội.
Bởi vậy, khi hiểu ra họ rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình. Nhưng, đồng
thời đây cũng là lứa tuổi dễ bị tổn thương và thường có những phản ứng tiêu cực
trước sự tác động chủ quan và khách quan bằng những hành vi nhất thời, thiếu suy
nghĩ. Đối với người chưa thành niên phạm tội, một mặt họ là chủ thể của tội phạm,
nhưng mặt khác họ còn là nạn nhân của sự thiếu giáo dục, chăm sóc của gia đình,
nhà trường và xã hội. Chính vì lẽ đó, mà Đảng và Nhà nước ta phải có trách nhiệm
trong việc bảo vệ người chưa thành niên khi họ tham gia tố tụng hình sự thông qua
các quy định của pháp luật. Đồng thời, phải xác định mục đích chủ yếu của việc xử
lý người chưa thành niên phạm tội là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên,
các cơ quan tiến hành tố tụng, mà đặc biệt là Tòa án phải có trách nhiệm bảo vệ
người chưa thành niên theo đúng quy định của pháp luật. Thực tiễn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua cho thấy Tòa án đã thực hiện
tương đối tốt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên khi họ
1
tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp Tòa án
để xảy ra sai sót dẫn đến việc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là
người chưa thành niên trong quá trình tiến hành tố tụng. Những sai sót đó do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó có những bất cập, hạn chế của các văn bản quy
phạm pháp luật, do việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa được kịp
thời, do kinh nghiệm và trình độ nhận thức của người tiến hành tố tụng chưa đáp
ứng được yêu cầu. BLHS 2015 và BLTTHS 2015 có nhiều điểm mới quy định phù
hợp với yêu cầu xét xử tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Do đó, việc
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận cũng như thực
tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, để từ đó đưa ra các giải pháp bảo
đảm áp dụng pháp luật đúng đối với người chưa thành niên phạm tội theo BLHS
2015 và BLTTHS 2015, nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác xét xử trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam nói chung và đạt hiệu quả giáo dục phòng ngừa tội phạm do người
chưa thành niên phạm tội nói riêng. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài luận văn
Thạc sĩ cho mình là:“Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên
từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên luôn là đề tài nóng thu hút
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lý luận khoa học pháp lý và hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật. Những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã được nhiều tác giả, nhà khoa
học chọn làm đề tài nghiên cứu cho mình trong thời gian qua như “Quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội” của ThS. Nguyễn Khắc Quang đăng
trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TANDTC), số 24/2011;“Mấy vấn đề về áp dụng pháp
luật đối với người chưa thành niên phạm tội bị xử phạt tù” của tác giả Quách Thành
Vinh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TANDTC) số 6/2011...
Ngoài ra, cũng có nhiều tác giả chọn để làm đề tài luận văn Thạc sĩ cho mình
như:"Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn
2
tỉnh Quảng Nam", Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Quốc Bảo (khóa 3 - 2012), tại
Học viện khoa học xã hội; “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Quốc
Thiện (khóa 4-2015) tại Học viện khoa học xã hội ….
BLHS 2015 và BLTTHS 2015 được Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 có nhiều quy
định mới, nhiều nguyên tắc mới theo tính hướng thiện hơn trong việc xét xử người
chưa thành niên phạm tội; nhưng chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào, Luận
văn thạc sĩ nào đề cập đến, bởi tất cả các công trình nghiên cứu khoa học, Luận văn
thạc sĩ trong thời gian qua đều tập trung nghiên cứu theo quy định của BLHS 1999
và BLTTHS 2003.
Trong phạm vi đề tài của mình, tác giả đi sâu nghiên cứu cả về pháp luật Hình sự
và pháp luật Tố tụng hình sự mới ban hành năm 2015 và thực tiễn áp dụng BLHS 1999
và BLTTHS 2003 đối với người chưa thành niên trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích mà đề tài hướng đến là trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp
luật có liên quan đến việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên
và thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó tìm và phát hiện ra các quy định pháp luật mới
để áp dụng tốt hơn nhằm hoàn thiện công tác xét xử người chưa thành niên phạm tội
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, nhằm bảo vệ tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên khi họ tham gia tố tụng hình sự, góp phần vào việc
đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra là phải nghiên cứu một cách
sâu sắc, toàn diện những vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đối với người chưa thành niên, cũng như thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
3
đối với người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong 5 năm qua để tìm ra
những hạn chế, thiếu sót cần chú ý khi thực hiện theo quy định của BLHS 2015 và
BLTTHS 2015 và các giải pháp bảo đảm xét xử sơ thẩm đúng đối với người chưa
thành niên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung phân tích làm sáng tỏ những quy định đối với
người chưa thành niên phạm tội theo quy định của BLHS năm 1999, nhưng theo Bộ
luật hình sự năm 2015 là người dưới 18 tuổi phạm tội và thủ tục tố tụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS
2015, thực tiễn áp dụng trong thời gian qua.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định tại giai đoạn xét xử sơ thẩm đối
với người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) phạm tội vừa theo quy định của
BLHS 1999 và của BLTTHS 2003, vừa theo quy định của BLHS 2015 và BLTTHS
2015. Thực tiễn xét xử sơ thẩm trong phạm vi tỉnh Quảng Nam, giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2015 và những quy định mới mang tính đổi mới, tiến bộ từ BLHS
2015 và BLTTHS 2015 có liên quan đến việc xử lý người chưa thành niên phạm tội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người
chưa thành niên phạm tội và những quy định của pháp luật có liên quan đến người
chưa thành niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê hình sự...
Các phương pháp nghiên cứu này được vận dụng một cách đan xen, linh hoạt để đạt
được hiệu quả cao.
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn này là một đề tài nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận nhưng đồng
thời cũng có ý nghĩa về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đối với người chưa thành niên.
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn có thể dùng làm tài liệu giảng dạy, tuyên
truyền pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự liên quan
đến người chưa thành niên phạm tội của TAND. Đồng thời, có thể sử dụng luận
văn này để làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu
khoa học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích làm sáng tỏ những vấn đề về lý
luận sẽ góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử của
Tòa án. Do đó, luận văn này cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo, xây dựng kỹ
năng nghề nghiệp nói chung và kỹ năng cho công tác xét xử người chưa thành niên
phạm tội nói riêng cho những người làm công tác xét xử trong thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
đối với người chưa thành niên
Chương 2: Thực tiễn xét xử hình sự sơ thẩm đối với người chưa thành niên tại
tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm xét xử sơ thẩm đúng vụ án hình sự đối với
người chưa thành niên
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Những vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
chưa thành niên
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của bị cáo là người chưa thành niên
Theo Công ước của Liên Hợp Quốc năm 1989 thì "trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn" [2] Quy tắc Bắc Kinh năm 1990 về bảo vệ người chưa thành niên có
nêu "Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" [19]. Như vậy theo các văn bản
pháp lý quốc tế thì người chưa thành niên nằm trong độ tuổi trẻ em.
Theo từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được định nghĩa
như sau:“Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể
lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân” [45].
Tại Điều 1 Thông tư liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCABTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 của VKSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, hướng dẫn thi hành một số quy định
của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên, thì: "Người
chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, là những
đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết các vụ án.." [22].
Hầu hết, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước ta có liên
quan đến người chưa thành niên chỉ quy định về độ tuổi làm ranh giới để phân định
giữa người chưa thành niên với người đã thành niên và đều xác định người chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi. Ví dụ: Điều 68 BLHS năm 1999 quy định: “Người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của
6
Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này” [13]. Điều 18
BLDS năm 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên.
Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” [15]. Điều 161 BLLĐ
năm 2012 quy định:“Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18
tuổi” [16]. Như vậy, có thể khẳng định người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi. Tuỳ theo quá trình phát triển về thể chất, tinh thần hay phát triển về tâm, sinh
lý của từng dân tộc và các điều kiện phát triển về kinh tế - xã hội, môi trường sống
khác nhau mà pháp luật của mỗi quốc gia quy định độ tuổi của người chưa thành
niên khác nhau. Ví dụ: Việt Nam quy định độ tuổi thành niên là 18 tuổi, còn Hàn
Quốc là 19 tuổi và Nhật Bản là 20 tuổi....
Theo như quy định tại Điều 12 của BLHS năm 1999 thì chỉ những người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, còn
người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu TNHS. Theo đó, người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, còn người từ đủ 14 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sở dĩ, BLHS năm 1999 quy định như vậy là
do người chưa đủ 14 tuổi trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được
tính nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, chưa đủ khả năng làm chủ
được hành vi nên họ không bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng có nghĩa là không đủ yếu tố cấu
thành tội phạm nên họ không phải chịu TNHS. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi được coi là người có năng lực TNHS chưa đầy đủ. Vì vậy, họ chỉ
phải chịu TNHS về một số loại tội phạm nhất định, đó là tội rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, chứ không phải chịu TNHS về mọi tội phạm như
đối với người đủ 16 tuổi trở lên.
Theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015 cũng quy định người từ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16
tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các loại tội phạm được luật nêu cụ thể tại
khoản 2 Điều 12 Bộ luật. Như vậy, BLHS 2015 có xác định phạm vi tội phạm cụ
7
thể cho người chưa thành niên phạm tội, nhưng cũng quy định từ đủ 14 tuổi trở lên.
Điều 50 BLTTHS năm 2003 quy định: “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết
định đưa ra xét xử”. Điều 61 BLHS 2015 cũng quy định nội dung như vậy. Do đó,
không phải mọi chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đều có tư cách là bị cáo, mà tư
cách bị cáo chỉ được xác định khi Tòa án “quyết định đưa ra xét xử”. Từ đó, có thể
hiểu bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử.
Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm bị cáo là người chưa thành
niên như sau: “Bị cáo chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, được
cho là đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự và bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử”.
Có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của bị cáo là người chưa thành niên như
sau:
- Thứ nhất, về mặt pháp lý, người chưa thành niên là người chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân. Trong pháp luật Tố tụng hình sự, đặc điểm pháp lý của
bị cáo là người chưa thành niên được thể hiện thông qua địa vị pháp lý của họ khi
tham gia tố tụng, tức là những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bị
cáo là người chưa thành niên. Đặc điểm nổi bật nhất của bị cáo chưa thành niên là ở
chỗ họ được pháp luật quy định nhiều quyền hơn so với bị cáo đã thành niên, đồng
thời lại thực hiện ít nghĩa vụ hơn so với bị cáo đã thành niên. Ngoài ra, thủ tục tố
tụng đối với bị cáo là người chưa thành niên cũng được quy định chặt chẽ hơn so
với bị cáo đã thành niên. Quy định này được xây dựng dựa trên cơ sở đặc điểm về
tâm, sinh lý của bị cáo là người chưa thành niên và chính sách nhân đạo của Nhà
nước ta trong việc xử lý TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội. Và, mục
đích chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
và trở thành người công dân có ích cho xã hội.
- Thứ hai, dưới góc độ tâm, sinh lý, bị cáo chưa thành niên là người chưa phát
triển đầy đủ, toàn diện về thể chất và tinh thần, họ là người đang ở giai đoạn hình
thành cũng như phát triển về nhân cách và chưa thể có suy nghĩ chín chắn khi quyết
8
định hành vi của mình như người đã thành niên. Đây là lứa tuổi chưa có đủ những
kinh nghiệm trong cuộc sống, quá trình nhận thức còn bị hạn chế; còn chủ quan,
nông cạn khi phân tích, đánh giá hay nhìn nhận các sự vật, hiện tượng và dễ bị tác
động bởi các yếu tố của môi trường sống. Do tư duy chưa hoàn thiện nên họ nhận
thức chưa đầy đủ, toàn diện về hệ quả và những tác động do hành vi của mình gây
ra. Nhiều trường hợp bị cáo chưa thành niên không ý thức được hành vi của mình là
hành vi phạm tội, bởi vậy khi hiểu ra họ rất ăn năn, hối hận về việc làm của mình. Mặt
khác, bị cáo chưa thành niên, nhất là lứa tuổi mới lớn thường có những chuyển biến
nhanh và mạnh mẽ về tâm, sinh lý, có xu hướng muốn tự khẳng định mình, bồng
bột, hiếu thắng, thiếu tính thực tế, dễ bị dụ dỗ, kích động, lôi kéo tham gia vào
những hoạt động phạm pháp. Nhưng, đồng thời đây cũng là lứa tuổi dễ bị tổn
thương và thường có những phản ứng tiêu cực trước sự tác động chủ quan và khách
quan bằng những hành vi nhất thời, thiếu suy nghĩ. Chính những đặc điểm tâm, sinh
lý này là căn cứ quan trọng để Toà án xem xét, đánh giá khả năng nhận thức, mức
độ lỗi của bị cáo chưa thành niên khi thực hiện hành vi phạm tội, để từ đó xác định
chính xác TNHS của bị cáo trong quá trình xét xử vụ án hình sự.
1.1.2. Khái quát về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành
niên
Xét xử sơ thẩm theo nghĩa của Từ điển luật học là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét
xử tại một Tòa án có thẩm quyền. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (Đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm
2013) quy định tại khoản 1 Điều 31 như sau: "Người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [17]. Quy định này của Hiến pháp càng khẳng
định hơn nữa tầm quan trọng của hoạt động xét xử.
Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách Tư pháp đến năm 2020 đã xác định: "Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là
hoạt động trọng tâm" [4]. Như vậy, có thể thấy Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy
được vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng
9
như tầm quan trọng của hoạt động xét xử và xem đây là hoạt động trọng tâm trong
các hoạt động tố tụng. Tòa án là cơ quan duy nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có thẩm quyền xét xử và đưa ra phán quyết để kết tội một người và
quyết định áp dụng hình phạt đối với người đó thông qua hoạt động xét xử. Cho dù
một người nào đó có phạm tội quả tang, đã bị CQĐT ra Quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can và bị VKS truy tố thì họ cũng chưa bị coi là có tội nếu như chưa bị
Tòa án kết tội bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Xét xử vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng là
một giai đoạn tố tụng rất quan trọng, đây là giai đoạn có tính chất quyết định để
chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì đó là tội gì. Hoạt động
điều tra ở giai đoạn điều tra cũng nhằm mục đích chứng minh tội phạm nhưng chủ
yếu là thu thập chứng cứ, còn xét xử là hoạt động chủ yếu để kiểm tra lại những
chứng cứ do CQĐT, VKS thu thập trong quá trình điều tra, truy tố. Trong giai đoạn
xét xử, mọi chứng cứ, tài liệu mà CQĐT, VKS thu thập trong quá trình điều tra,
truy tố được xem xét một cách công khai, những người tham gia tố tụng được tranh
luận, đối đáp với nhau trước Tòa án. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có
những đặc điểm:
- Là việc Tòa án có thẩm quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ra quyết định về trách nhiệm hình sự, về tội phạm và hình phạt trong hoạt
động xét xử của Tòa án.
- Là những hoạt động được tiến hành công khai, dân chủ theo trình tự thủ tục
trên cơ sở các quy định của pháp luật mà biểu hiện tập trung nhất là tại phiên tòa cụ
thể cho từng vụ án.
- Là hoạt động nhằm xác định sự thật khách quan về tội phạm, hành vi, hậu
quả, người thực hiện tội phạm, quyết định trách nhiệm hình sự và hình phạt cùng
các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội.
Theo BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 thì thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đối với người chưa thành niên về cơ bản cũng giống như thủ tục xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự nói chung, tức là cũng bao gồm các giai đoạn: Thủ tục bắt đầu phiên
10
tòa, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Tuy
nhiên, do bị cáo là người chưa thành niên nên việc xét xử của Tòa án đòi hỏi phải
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của BLHS đối với người chưa thành niên phạm
tội như: Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, các biện pháp tư
pháp và các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội..., cũng
như những quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên
như: Thành phần HĐXX phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, bắt buộc phải có người bào chữa, việc tham gia
tố tụng của đại diện gia đình, nhà trường và tổ chức.
1.1.3. Những vấn đề cần phải xác định rõ khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
đối với người chưa thành niên
Giai đoạn xét xử vụ án hình sự sơ thẩm người chưa thành niên tại Tòa án là
một quá trình có nhiều bước chuẩn bị như: thụ lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ vụ án,
đánh giá về thủ tục tố tụng, đánh giá về chứng cứ. Tiếp đến là bước lựa chọn quy
phạm pháp luật áp dụng; quyết định về trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự (
nếu có).
Khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử tại phiên tòa và quyết định trách
nhiệm hình sự thì cần làm rõ:
- Độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của bị cáo tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội: Thông
thường, việc xác định độ tuổi của bị cáo dựa trên một số giấy tờ liên quan đến nhân
thân của bị cáo như: Giấy chứng sinh, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy chứng minh
nhân dân... Trong thực tế hiện nay, ở một số địa phương của nước ta (đặc biệt là
các vùng sâu, vùng xa), do điều kiện về kinh tế còn khó khăn, vị trí địa lý cách trở
cũng như nhận thức của người dân còn hạn chế nên việc khai sinh cho trẻ em chưa
được quan tâm đúng mức. Có nhiều trẻ em không được khai sinh hoặc có khai sinh
nhưng không chính xác về ngày, tháng, năm sinh nên việc xác định tuổi của bị cáo
gặp rất nhiều khó khăn. Từ đó, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng khi xét
xử. Khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên, bắt buộc Tòa
11
án phải xác định đúng độ tuổi của bị cáo. Theo quy định tại Điều 417 BLTTHS
2015 thì trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định
được chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị cáo thì tuổi của bị cáo được xác định
như sau:
+ Trường hợp xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác định
được ngày sinh trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày
sinh của bị cáo;
+ Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được
ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý
đó làm ngày sinh của bị cáo;
+ Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng
không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì
lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nữa năm đó làm ngày, tháng sinh;
+ Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được
ngày tháng sinh của bị cáo thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó
làm ngày, tháng sinh của bị cáo;
+ Trường hợp không xác định được năm sinh của bị cáo là người chưa thành
niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
Tòa án chỉ xét xử khi có đủ căn cứ xác định khi thực hiện hành vi phạm tội, bị
cáo đã đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS. Do vậy, việc xác định đúng độ
tuổi của bị cáo khi xét xử vụ án hình sự là hết sức cần thiết.
Ngoài việc phải xác định đúng độ tuổi của bị cáo, đòi hỏi khi xét xử Tòa án
còn phải xác định rõ trình độ phát triển về thể chất, tinh thần cũng như mức độ
nhận thức về hành vi phạm tội của bị cáo là người chưa thành niên, để từ đó đưa
ra phán quyết phù hợp, tạo điều kiện giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Mức độ phát triển về thể chất, tinh
thần có ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, trong quá
trình xét xử vụ án hình sự, Tòa án phải làm rõ tại thời điểm phạm tội thể chất, tinh
thần của bị cáo phát triển ở mức độ nào và nó có ảnh hưởng như thế nào đến việc
12
thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo. Đồng thời, cũng cần phải xác định rõ mức
độ nhận thức về hành vi phạm tội của bị cáo đến đâu, bởi lẽ ở độ tuổi chưa thành
niên họ thường có nhận thức rất hạn chế về tính chất nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra. Việc xác định rõ trình độ phát triển về thể chất, tinh thần
và mức độ nhận thức về hành vi của bị cáo là người chưa thành niên có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội và mức độ TNHS đối với bị cáo.
- Điều kiện sinh sống và giáo dục của bị cáo: Tội phạm, như mọi hành vi khác
của con người suy cho cùng là kết quả của sự tác động lẫn nhau của cá nhân và
hoàn cảnh khách quan bên ngoài [50, tr.100]. Do vậy, hành vi phạm tội không phải
tự nhiên hình thành, nó phát sinh không phải chính từ bản thân con người mà là do
sự tác động qua lại giữa môi trường sống và cá nhân con người đó. Từ thực tiễn cho
thấy, người chưa thành niên chịu sự tác động rất lớn và hầu như là chủ yếu của môi
trường sống. Sự hình thành và phát triển nhân cách của người chưa thành niên chịu
sự chi phối và quyết định bởi sự giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Họ rất
dễ bị tác động bởi những thói hư, tật xấu và dễ bị dụ dỗ, kích động, lôi kéo tham gia
vào những hoạt động phi pháp. Ngược lại, nếu họ được sinh sống, học tập trong một
môi trường lành mạnh thì sẽ có điều kiện để phát triển toàn diện và đầy đủ về thể
chất, tinh thần cũng như hoàn thiện về nhân cách để trở thành người có ích cho xã
hội. Để xác định điều kiện sinh sống và giáo dục của bị cáo là người chưa thành
niên, Tòa án cần phải xem xét, đánh giá những tài liệu, chứng cứ liên quan đến nhân
thân của họ như: hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, trình độ học vấn. Cụ thể:
+ Ai là người nuôi dưỡng, người giám hộ cho người chưa thành niên phạm tội,
trình độ, nghề nghiệp, sự tham gia hay mức độ tham gia của họ vào các quan hệ xã
hội, trong việc giáo dục con cái người giám hộ thế nào, người chưa thành niên có tài
sản hay thu nhập bằng nguồn nào, bản thân người chưa thành niên có lao động sản
xuất ra của cải vật chất không?
+ Kết quả học tập hoặc lao động sản xuất của người chưa thành niên đạt được
ở mức nào, thái độ của họ trong quá trình học tập như thế nào; nếu bỏ học thì lý do
13
bỏ học là gì? Đối với trường hợp, khi phạm tội bị cáo đang còn đi học thì cần xem
xét đến kết quả học tập và thái độ của họ trong quá trình học tập thông qua các tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hoặc thông qua việc triệu tập thầy, cô giáo của
họ, đại diện của nhà trường đến phiên tòa để xét hỏi.
+ Trước lần phạm tội này người chưa thành niên có bị truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc bị xử phạt hành chính lần nào chưa.
- Có hay không có người thành niên xúi giục: Trong thực tế cuộc sống, có
không ít trường hợp người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội là do người
đã thành niên xúi giục, kích động. Bởi do khả năng nhận thức, phân tích, đánh giá
vấn đề còn hạn chế cho nên bản thân người chưa thành niên thường chịu sự tác
động của các yếu tố ngoại cảnh. Những kẻ xấu thường lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin,
sự bồng bột, thiếu hiểu biết cùng với sự non kém về kinh nghiệm sống của người
chưa thành niên để dụ dỗ, lôi kéo, thậm chí ép buộc họ thực hiện hành vi phạm tội.
Kẻ xấu thường sử dụng những thủ đoạn rất mưu mô, xảo quyệt để đánh vào điểm
yếu của người chưa thành niên như: đe dọa, cưỡng bức, chi phối về mặt vật chất
hoặc tinh thần để buộc họ trở thành người giúp sức cho mình trong quá trình phạm
tội. Trường hợp người chưa thành niên phạm tội do sự xúi giục của người thành
niên ngày càng phổ biến, nhất là trong việc vận chuyển, mua bán trái phép các
chất ma túy, trộm cắp tài sản, cướp giật tài sản... Trong quá trình xét xử vụ án hình
sự đối với người chưa thành niên, Tòa án cần phải xác định có hay không có
người thành niên xúi giục, nhằm để giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và tránh bỏ lọt người phạm tội (đồng phạm).
- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội: Các nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm cụ thể là những nhân tố xã hội thuộc về cá nhân và những tình huống, môi
trường bên ngoài trong sự tương tác lẫn nhau của chúng quyết định sự hình thành
động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm [50, tr.102]. Môi trường sống và đặc
điểm tâm, sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên có tác động qua lại lẫn nhau một
cách biện chứng làm phát sinh tội phạm ở người chưa thành niên. Những cảnh sống
không hòa thuận của cha mẹ, những mâu thuẫn, xung đột xảy ra trong gia đình,
14
phương pháp giáo dục của gia đình không đúng đắn và sự buông lỏng, thiếu quan
tâm trong việc quản lý, chăm sóc, giáo dục con cái... Đồng thời, môi trường giáo
dục ở nhà trường chưa thật sự phù hợp, chất lượng giáo dục ngày càng bị giảm sút
và sự thiếu quan tâm, giúp đỡ của thầy cô giáo... Đây chính là một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội của người chưa thành niên.
Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh: “Con người sinh ra không phải là người phạm
tội, con người trở thành người phạm tội trong những điều kiện nhất định” [50, tr.
130]. Ngoài những nguyên nhân tác động từ môi trường bên ngoài, thì những yếu tố
chủ quan, đặc điểm về mặt tâm sinh lý của cá nhân mỗi con người là điều kiện dẫn
đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Đa số những người chưa thành
niên phạm tội thường là những người có thói quen xấu như: nghiện các chất kích
thích, nghiện các trò chơi trên internet, thích xem các văn hóa phẩm đồi trụy... Đồng
thời, họ thường là những người có thái độ coi thường pháp luật, thích đua đòi, tụ tập
ăn chơi cùng bạn bè.
Do vậy, việc làm rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội là vấn đề rất
cần thiết trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành
niên. Bởi lẽ, việc xác định rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội không những
giúp cho việc xét xử vụ án được chính xác, đúng quy định pháp luật mà còn là cơ
sở để tìm ra giải pháp phù hợp, hiệu quả trong việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm và đặc biệt là đấu tranh phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên
gây ra.
- Lựa chọn, xác định quy phạm pháp luật áp dụng: xác định tội danh là việc
rất quan trọng, được thực hiện tại giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa và quá trình
nghị án nhằm xác định bị cáo có phạm tội không, phạm tội gì? Phạm tội được quy
định tại Điều, khoản, điểm nào của Bộ luật hình sự. Lựa chọn quy phạm pháp luật
áp dụng phải chú ý đến tính chính xác về nội dung của nó. Quy phạm pháp luật đó
phải đang có hiệu lực pháp luật và có giá trị pháp lý cao nhất. Khi định tội cần
phải bám sát các dấu hiệu cấu thành tội phạm sau:
+ Khách thể của tội phạm: là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp
luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại đến.
15
+ Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện ra bên ngoài của tội
phạm, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
+ Chủ thể của tội phạm: là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội và họ có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp người chưa
thành niên phạm tội thì yếu tố chủ thể tội phạm cần được xem xét xác định chính
xác về độ tuổi và loại tội mà họ thực hiện.
+ Mặt chủ quan của tội phạm: là thái độ, diễn biến tâm lý bên trong của
người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó
gây ra, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Để xác định chính xác thái độ,
diễn biến tâm lý bên trong của người chưa thành niên phạm tội cần xác định rõ độ
tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của người chưa thành niên.
- Quy định trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự: đây là giai đoạn
quyết định hình phạt, là một nội dung áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc
Tòa án lựa chọn và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật theo một
thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội.
Khi QĐHP đối với người chưa thành niên phạm tội, ngoài việc căn cứ vào quy
định tại Điều 45 BLHS 1999 ( Điều 50 BLHS 2015), đòi hỏi Tòa án còn phải áp
dụng đúng các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội được quy
định tại Điều 69 BLHS 1999 ( Điều 91 BLHS 2015). Sở dĩ, BLHS quy định các
nguyên tắc riêng khi xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là do họ chưa
phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần nên chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện. Nhìn chung, ý thức phạm tội
của người chưa thành niên thường chưa sâu sắc bằng so với những người đã thành
niên nên họ dễ dàng tiếp nhận sự giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội để từ
bỏ con đường phạm tội, trở thành người có ích cho xã hội. Khi quyết định hình phạt
cần chú ý:
+ Căn cứ vào quy định của BLHS.
16
+ Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Tính chất và mức độ hậu quả của hành vi phạm tội. Phương pháp, thủ đoạn phạm
tội, công cụ và phương tiện phạm tội, mức độ lỗi. Tính chất của động cơ và mục
đích phạm tội.
+ Nhân thân người phạm tội.
+ Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Không phải tất cả các tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại Điều 48
BLHS 1999 (Điều 52 BLHS 2015) đều được áp dụng đối với tất cả những
người chưa thành niên phạm tội. Ví dụ: Các tình tiết tăng nặng “tái phạm, tái
phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS 1999 ( điểm h
khoản 1 Điều 52 BLHS 2015) không được áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, vì án đã tuyên đối với họ không
tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
1.2. Quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
chưa thành niên
1.2.1. Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội
1.2.2.1. Nguyên tắc xử lý
Tòa án phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành
niên phạm tội được quy định trong BLHS, ở đây cần nghiên cứu các quy định của
BLHS 1999 để có cơ sở đối chiếu với phần thực tiễn xét xử ở Chương 2 luận văn và
nghiên cứu các nguyên tắc mới bổ sung của BLHS 2015 để xác định những điểm
mới.
- Trước hết BLHS 1999 đã quy định những nguyên tắc:
+ Mục đích chủ yếu của việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công
dân có ích cho xã hội. Do vậy, trong những trường hợp cần thiết phải áp dụng hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án phải xác định rõ mục đích của
việc áp dụng hình phạt và quyết định lựa chọn loại hình phạt, mức hình phạt sao cho
đảm bảo việc giáo dục, giúp đỡ họ nhận thấy, sửa chữa những sai lầm để trở thành
17
người tốt, chứ không nhằm mục đích trừng trị như trường hợp người đã thành niên
phạm tội. Để đạt được mục đích nêu trên, đòi hỏi khi xét xử, Tòa án phải làm rõ khả
năng nhận thức của người chưa thành niên phạm tội về tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Chính từ việc
xác định rõ khả năng nhận thức của họ về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội giúp cho Tòa án lựa chọn
đường lối giải quyết sao cho phù hợp để đạt được mục đích xử lý đối với người
chưa thành niên.
+ Chỉ trong trường hợp cần thiết mới truy cứu TNHS đối với người chưa
thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ. Nếu trong trường hợp cần
thiết phải truy cứu TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội thì cũng không
nhất thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ mà có thể áp dụng các biện pháp tư
pháp mang tính giáo dục, phòng ngừa quy định tại Điều 70 BLHS.
+ Nếu người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng,
gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS và được gia đình hoặc cơ
quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục thì có thể miễn TNHS cho họ.
+ Để truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, Tòa án phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, đặc điểm về nhân
thân và yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Sau khi cân nhắc kỹ càng
các yếu tố nêu trên, nếu xét thấy thật cần thiết thì Tòa án mới áp dụng hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội, nếu không thì áp dụng các biện pháp tư pháp
hoặc có thể miễn TNHS đối với họ, nếu có đủ các điều kiện theo quy định của pháp
luật. Bởi lẽ, việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được
xem là biện pháp cuối cùng.
+ Không được áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người
chưa thành niên phạm tội. Trong trường hợp cần thiết phải áp dụng hình phạt đối
với họ thì phải cân nhắc hạn chế tối đa việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Đồng
thời, khi đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với họ thì Tòa án phải quyết định
mức hình phạt nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Ví dụ: Nếu
18