Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn thực hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn quận sơn trà, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.65 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGUYÊN THÙY MINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGUYÊN THÙY MINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HÀ THỊ THƯ

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “Thực
hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong
cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn
gốc, trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Đà Nẵng, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Trần Nguyên Thuỳ Minh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám đốc,
các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học Xã hội đã tận tình và tạo
điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến TS. Hà Thị Thư, người đã trực tiếp hướng dẫn luận văn cho tôi với tất
cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo quận ủy, Ủy ban nhân
dân quận, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Ban ngành đoàn thể của quận
Sơn Trà TP. Đà Nẵng, Phòng LĐTBXH Quận tạo điều kiện, cung cấp số liệu cho
tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng luận văn không thể

tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý
thầy, cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG ........................................................... 9
1.1. Một số lý luận cơ bản về người có công ......................................................... 9
1.2. Khái niệm và vai trò của chính sách người có công với cách mạng............. 13
1.3. Tổ chức thực hiện chính sách NCCVCM ..................................................... 17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGƯỜI
CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................................................................................. 28
2.1. Đặc điểm tình hình người có công với cách mạng ....................................... 28
2.2. Quy trình thực hiện chính sách người công công với cách mạng trên địa bàn
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng ....................................................................... 31
2.3. Kết quả thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng trên địa
bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng ................................................................ 40
2.4. Đánh giá chung việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng ... 56
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................... 61
3.1. Quan điểm, định hướng chung của Đảng bộ, chính quyền quận Sơn Trà về
thực hiện chính sách người có công với cách mạng trong thời gian tới ...... Error!
Bookmark not defined.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách người có công với
cách mạng ............................................................................................................. 61

3.3. Một số kiến nghị và đề xuất .......................................................................... 71
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 74


TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

1

BMVNAH

Bà mẹ Việt Nam anh hùng

2

BHYT

Bảo hiểm y tế

3

CĐHH


Chất độc hóa học

4

ASXH

An sinh xã hội

5

GĐCM

Gia đình cách mạng

6

HĐCM

Hoạt động cách mạng

7

HĐKC

Họat động kháng chiến

8

HĐND


Hội đồng nhân dân

9

LĐ-TB&XH

Lao động -Thương binh và Xã hội

10

NCCVCM

Người có công với cách mạng

11

NCC

Người có công

12

TBLS

Thương binh liệt sỹ

13

CSC


Chính sách công

14

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1
2.2

Tổng hợp số lượng người có công với cách mạng quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng các năm 2016, 2017, 2018, 2019
Số lượng người có công hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng
trên địa bàn Quận

Trang
29
41

Tổng hợp số lượng nhà ở hỗ trợ xây, sửa cho đối tượng
2.3


người có công với cách mạng trên địa bàn Quận Sơn Trà,

43

Đà Nẵng giai đoạn 2016- 2019
Tổng hợp số lượng đối tượng NCC trên địa bàn Quận tham
2.4

gia điều dưỡng theo các hình thức giai năm 2016, 2017,

46

2018, 2019
Tổng hợp số lượng NCC được hỗ trợ phương tiện trợ giúp,
2.5

dụng cụ chỉnh hình năm 2015, 2016, 2017 tại Quận Sơn

47

Trà, thành phố Đà Nẵng
Tổng hợp số lượng cấp phát BHYT đối tượng người có
2.6

công với cách mạng năm 2017, 2018, 2019 trên địa bàn

49

Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Tổng hợp số lượng và kinh phí quà UBND thành phố nhân

dịp tết Nguyên Đán cho đối tượng người có công với cách
2.7

mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng từ năm 2016

53

đến năm 2019

2.8

Tổng hợp số lượng mẹ Việt Nam anh hùng Quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng được phong tặng, truy tặng danh hiệu

55


vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” năm 2015,
2016, 2017

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đã có biết
bao thế hệ anh hùng hi sinh, cống hiến hết sức lực, tinh thần, trí tuệ và tài sản để
giành lại tự do, độc lập cho dân tộc. Trong số họ, có biết bao người đã ngã xuống,
những người còn lại may mắn được trở về với quê hương nhưng chịu trên mình
những thương tật, căn bệnh quái ác, ký ức đau thương không thể xoá mờ. Kế thừa
và phát huy đạo lý, truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây” của dân tộc ta từ ngàn đời nay, trong suốt quá trình lịch sử cách mạng,
Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm, ưu ái đặc biệt đối với những thương,

bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng thông qua việc ban hành và
thực hiện chính sách ưu đãi. Thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng bên cạnh việc phát triển
kinh tế, giữ vững an ninh - quốc phòng,... Pháp lệnh và các quy định về chế độ
chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng luôn được nghiên cứu, sửa
đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn, tình hình đất nước ở mỗi
thời kỳ. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương
khoá XI tại phần định hướng chính sách xã hội năm 2012 - 2020 nêu rõ quan điểm:
“Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công
và đảm bảo an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Trong suốt mấy chục năm qua,
công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM luôn được các địa phương trên cả
nước triển khai rộng rãi, nhận được sự đồng tình, hưởng ứng tích cực của nhân dân
và đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên thực tế vẫn còn tồn đọng hàng nghìn
hồ sơ chưa được giải quyết, xảy ra tình trạng khai man, giả mạo hồ sơ trục lợi chính
sách dẫn đến bức xúc gay gắt từ phía nhân dân, một số chương trình, chính sách


thực hiện ở địa phương chưa thực sự hiệu quả,... Đây là một vấn đề cấp thiết cần
được giải quyết kịp thời, nhanh chóng.
Thành phố Đà Nẵng là một trong 5 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
được lựa chọn triển khai thí điểm giải quyết hồ sơ NCCVCM tồn đọng và cũng là
một trong những thành phố đi đầu trong việc thực hiện chính sách đối với
NCCVCM.
Cùng với quận Ngũ Hành Sơn và quận Liên Chiểu, Sơn Trà là 1 trong 3
quận, huyện của thành phố Đà Nẵng có số đông NCCVCM sinh sống nhất. Với số
lượng hơn 4000 NCCVCM đã đặt ra những khó khăn trong công tác quản lý, thực
hiện chính sách NCCVCM đối với Đảng bộ, chính quyền quận Sơn Trà. Với sự
lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, nỗ lực thực hiện của tất cả các cấp, ngành, đoàn thể và
sự tham gia, hưởng ứng tích cực của các tổ chức, người dân sinh sống trên địa bàn,

trong những năm qua, quận Sơn Trà đã triển khai thực hiện tốt chính sách của
Trung ương, các chính sách bổ sung, hỗ trợ, đặc thù của thành phố (trợ cấp hằng
tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đang hưởng trợ cấp hằng tháng,
thương binh, người hưởng chính sách như thương binh có tỷ lệ thương tật từ 21%
đến 30% đang hưởng trợ cấp hằng tháng thuộc hộ cận nghèo trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng; quy định về trợ cấp thường xuyên, đột xuất đối với người có công với
cách mạng mắc bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng;…), các chương trình “5 không” không có cơ hội đói, không có người mù
chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma tuý, không có
giết người cướp của “3 có” bao gồm có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn hoá văn
minh đô thị “4 an” bao gồm: An ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm,
an sinh xã hội. Những thành tích đáng ghi nhận trong thực hiện chính sách
NCCVCM của quận Sơn Trà đã góp phần vào thành tựu to lớn trong công tác thực
hiện chính sách người có công, an sinh xã hội của thành phố Đà Nẵng. Bên cạnh
những kết quả đã đạt được, do một số nguyên nhân, tổ chức thực hiện chính sách
NCCVCM trên địa bàn quận Sơn Trà còn gặp phải những vướng mắc, hạn chế như:
Công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách chưa được thực hiện rộng rãi trong
Nhân dân. Nhận thức của một số người dân về chính sách chưa được đầy đủ, nên
còn nhiều thắc mắc về chính sách. Một số văn bản hướng dẫn chậm, thiếu đồng bộ
hoặc chưa rõ ràng. Thủ tục xét, công nhận còn rườm rà, chưa rõ ràng, gây khó khăn

2


cho các đối tượng. Việc triển khai thực hiện nhiều lúc còn chủ quan, thiếu chặt chẽ
trong quá trình xét duyệt, thẩm định nên việc xác định các đối tượng được hưởng
chế độ chính sách còn chưa đúng… những tồn tại hạn chế trong quá trình tổ chức
thực hiện chính sách, nếu không có những giải pháp kịp thời để khắc phục, hoàn
thiện, sẽ ảnh hưởng đến chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Nhằm đề
xuất biện pháp tiếp cận những cơ sở chính sách mới trong công tác thực hiện chính

sách với người có công, nâng cao chất lượng hiệu quả đồng thời hạn chế những
khuyết điểm.
Xuất phát từ những lý do trên, nên tác giả quyết định lấy tên đề tài: “Thực
hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách NCCVCM là một trong những chính sách xã hội quan trọng được
Đảng, Nhà nước quan tâm. Thực hiện chính sách NCCVCM không chỉ để đảm bảo
ổn định, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các đối tượng người có công
mà còn tạo ra môi trường xã hội ổn định để phát triển đất nước. Ưu đãi đối với
NCCVCM trở thành đề tài được nhiều người quan tâm, nghiên cứu dưới các góc độ
khác nhau.
2.1. Nhóm nghiên cứu chung về chính sách Người có công với cách mạng
Cuốn sách Một số suy nghĩ hoàn thiện Pháp luật ưu đãi Người có công, của
tác giả Nguyễn Đình Liêu [18] là kết quả công trình nghiên cứu đề tài Luận văn Phó
tiến sĩ của tác giả. Cuốn sách đã khái quát Luận văn của tác giả dưới dạng tổng quát
giúp người đọc hình dung một cách có hệ thống về chính sách người có công ở Việt
Nam từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh 20/SL về quy định chế độ tiền
lương, thương tật cho thân nhân tử sĩ.
Khoá luận tốt nghiệp “Chế độ, chính sách đối với người có công ở Việt
Nam” của tác giả Đặng Quốc Gia [8] đã phân tích các quy định của pháp luật và chế
độ, chính sách đối với người có công ở Việt Nam tại thời điểm từ khi thực hiện
Pháp lệnh ưu đãi người có công năm 1994 và những quan hệ trong lĩnh vực ưu đãi
xã hội mà một bên là Nhà nước, một bên là người có công.
Luận văn thạc sĩ đề tài “Hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai [22]. Luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận,

3



thực trạng pháp luật về ưu đãi xã hội, trong đó có phần đề cập đến pháp luật về
người có công. Trong nội dung của đề tài, tác giả đã đưa ra những nhận xét, đánh
giá thực tiễn cũng như những hạn chế của pháp luật ưu đãi xã hội, từ đó nêu lên
những kiến nghị có thể hoàn thiện hơn pháp luật về ưu đãi người có công.
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam “Chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách
mạng từ năm 1991 đến năm 2010” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hoài [12] đã trình
bày khái quát hoàn cảnh lịch sử, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam đối với thương binh, liệt sĩ và NCCVCM từ năm 1991 đến năm 2010 theo hai
giai đoạn từ 1991-1995 và 1996-2010 gắn với những kết quả cụ thể; đánh giá những
ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế từ đó đúc rút được những kinh
nghiệm của Đảng, Nhà nước đối với thương binh, liệt sĩ và NCCVCM.
“Hỏi đáp pháp luật về chính sách xã hội đối với người có công với cách
mạng” của tác giả Phạm Tiến Giang [9]. Cuốn sách tổng hợp những câu hỏi, trả lời,
giải đáp những thắc mắc liên quan đến các chế độ, chính sách NCCVCM theo quy
định của các văn bản pháp luật. Đây là tài liệu hữu ích dành cho người dân, đối
tượng thụ hưởng chính sách tìm hiểu, nghiên cứu, nắm bắt được những thông tin,
giải đáp thắc mắc về chính sách NCCVCM theo quy định pháp luật.
Ngoài những công trình nghiên cứu kể trên, còn rất nhiều công trình khác,
các bài viết liên quan đến đề tài chính sách người có công với cách mạng được đăng
trên các tạp chí như: “Quản lý nhà nước về ưu đãi người có công ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Đỗ Thị Hồng Hà [10]; Bài viết “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách
ưu đãi người có công với nước hiện nay, định hướng đến năm 2020” của Phạm Thị
Hải Chuyền [6]; Bài viết “Đẩy mạnh xã hội hoá công tác chăm sóc người có công
và hoàn thành xác nhận người có công với cách mạng” của tác giả Bùi Sỹ Lợi
[21];…
2.2. Nhóm nghiên cứu thực hiện chính sách người có công với cách mạng
“Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện
pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta hiện nay” của Phạm Hải
Hưng [14]. Từ việc tìm hiểu thực trạng ban hành và thực hiện Pháp lệnh ưu đãi

người có công ở Việt Nam, thực trạng năng lực của cơ quan hành chính nhà nước
trong việc thực hiện Pháp lệnh, vai trò và ảnh hưởng của yếu tố năng lực cơ quan

4


hành chính nhà nước có tác động đến hiệu quả, kết quả việc thực hiện Pháp lệnh ưu
đãi người có công với cách mạng, tác giả đã đề ra một số giải pháp nâng cao năng
lực của cơ quan hành nhà nước từ trung ương đến cơ sở trong quá trình thực hiện
Pháp lệnh.
“Thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất đối với người có công với cách mạng
ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh” của tác giả Hà Huy Sơn [33]. Nội dung của luận
văn, tác giả đã nêu lên sự tác động của chính sách vật chất đối với đối tượng
NCCVCM. Đồng thời cũng chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của chính sách và
nguyện vọng của các đối tượng NCCVCM trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh. Từ thực tiễn quản lý, tác giả đưa ra các giải pháp, kiến nghị chủ yếu để góp
phần nâng cao đời sống kinh tế đối với NCCVCM trên địa bàn tỉnh.
“Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ngãi” của Đào Xuân Sâm [32]. Trên cơ sở lý luận của thực hiện chính sách
NCCVCM, tác giả tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc thực hiện chính sách
NCCVCM tại tỉnh Quảng Ngãi. Qua đánh giá, phân tích những ưu điểm, hạn chế
nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách.
“Đảng bộ huyện Phú Bình (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ưu
đãi người có công với cách mạng từ năm 2006 đến 2014” của Dương Thị Huyền
[17]. Luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách NCCVCM dưới góc độ tìm hiểu
thực trạng công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình, ảnh hưởng của
vấn đề này đến kết quả thực hiện chính sách NCCVCM tại địa phương. Trên cơ sở
phân tích quá trình từ 2006 -2014, tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị thực
hiện hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Bình trong việc
thực hiện chính sách NCCVCM hướng đến hiệu quả chung của thực hiện chính

sách.
“Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng và quy trình giải quyết hồ
sơ xác nhận người có công” của Nguyễn Hữu Đại [7]. Cuốn sách đã khái quát
chung về chính sách NCCVCM ở nước ta, hệ thống lại các văn bản pháp luật được
Chính phủ, Bộ LĐ-TB&XH ban hành quy định về một số nội dung liên quan chính
sách ưu đãi, trợ cấp, phụ cấp tiền lương, bảo hiểm, hỗ trợ nhà ở đối với người có
công, quy trình giải quyết hồ sơ xác nhận người có công năm 2017 như: Quyết định
408/QĐ-LĐTBXH ngày 20/3/2017 của Bộ LĐ-TB&XH về quy trình giải quyết hồ

5


sơ tồn đọng xác định người có công; Quyết định 157/QĐ-BCĐCCTLBHXH ngày
21/3/2017 ban hành Quy chế làm việc của ban chỉ đạo cải cách chính sách tiền
lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; Nghị định 19/2017/NĐ-CP ngày
24/2/2017 của Chính phủ quy định về chế độ tiền lương của công nhân quốc phòng
và chế độ phụ cấp thâm niên đối với viên chức quốc phòng;…Cuốn sách là tài liệu
cần thiết trong công tác thực hiện chính sách NCCVCM.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều những bài viết, bài phát biểu với chủ đề thực hiện
chính sách NCCVCM được đăng trên các tạp chí, báo điện tử: Bài viết “Thực hiện
chính sách người có công là trách nhiệm của cả xã hội” của tác giả Quang Vũ,
Phúc Hằng [13]; Bài viết “Nhìn lại 3 năm thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có
công” của tác giả Bùi Hồng Lĩnh [19]; Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc [25] về thực hiện chính sách người có công được đăng tải trên website Báo
Quân đội nhân dân online;…
Nhìn chung, các bài viết công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến nhiều
góc độ của văn bản pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật nói riêng và
việc triển khai thực hiện chính sách người có công với cách mạng tại mỗi thời kỳ
khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn đều tập trung ở phương diện rộng, trên quy mô toàn
quốc hoặc cấp tỉnh, thành phố, một số đề tài chỉ mới nghiên cứu việc thực hiện

chính sách NCCVCM ở mức độ khái quát, chưa tập trung phân tích kết quả việc
thực hiện một số chương trình, chính sách cụ thể. Trên cơ sở kế thừa những kết quả
của nhóm những công trình nghiên cứu về chính sách và thực hiện chính sách
NCCVCM của các tác giả đi trước, luận văn này từ việc nghiên cứu, phân tích việc
thực hiện chính sách NCCVCM trên một phạm vi được thu hẹp hơn, từ đó đưa ra
giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao việc thực hiện chính sách NCCVCM tại địa bàn
nghiên cứu nói riêng và góp phần vào thực hiện hiệu quả chính sách trên phạm vi
toàn quốc nói chung.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu

6


Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đối với người có
công với cách mạng; phân tích đánh giá thực trạng thực hiện chính sách chính sách
đối với người có công với cách mạng tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; từ đó
đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người có công với
cách mạng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về chính sách công và chính sách đối với
người có công với cách mạng, về việc thực hiện chính sách NCCVCM.
- Thứ hai, phân tích thực trạng thực hiện chính sách, quy trình thực hiện
chính sách công trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng (trong đó tập trung
tìm hiểu việc thực hiện một số chương trình, kế hoạch lớn đối với NCCVCM mà
UBND quận Sơn Trà triển khai thực hiện trên địa bàn Quận).
- Thứ ba, đánh giá, đưa ra đề xuất, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách NCCVCM trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng trong thời gian

tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình thực hiện chính sách người có công với cách mạng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Trong giới hạn của luận văn chỉ tập trung vào giai đoạn tổ
chức thực hiện chính sách trợ cấp thường xuyên, chính sách nhà ở, chính sách chăm
sóc sức khoẻ, mai táng… đối với người có công với cách mạng và đánh giá kết quả
thực thi.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng giai đoạn từ năm 2016 đến tháng
1/2019.
- Không gian: Quận Sơn Trà - Thành phố Đà Nẵng
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận được luận văn sử dụng là phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

7


các quan điểm chỉ đạo Đảng và Nhà nước ta để nghiên cứu về thực hiện chính sách
người có công với cách mạng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn: là những tài liệu thu thập được từ
những kế hoạch, báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đã có, các tài liệu khác có liên
quan đến đề tài) thông qua việc phân tích - tổng hợp, xử lý số liệu, thống kê - so
sánh để xây dựng cơ sở lý luận cho Chương 1, một số nội dung ở Chương 2 và xây
dựng nhóm giải pháp tại Chương 3.
- Phương pháp khảo sát thực địa kết hợp phỏng vấn sâu: tiến hành khảo sát
tại Phòng Lao động – Thương binh & xã hội quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵ

ng, thông qua đó tìm hiểu việc quản lý đối tượng NCCVCM, thực trạng việc thực
hiện chính sách NCCVCM trên địa bàn quận. Kết hợp phỏng vấn Trưởng phòng,
Chuyên viên phụ trách mảng người có công; phỏng vấn sâu các cá nhân thuộc diện
chính sách, gia đình có thân nhân hưởng chế độ chính sách người có công,… để nắm
bắt rõ, hiểu sâu hơn từng bước trong việc tổ chức thực hiện chính sách, đặc điểm
tâm lý đối tượng người có công với cách mạng và một số khó khăn, vướng mắc khi
triển khai thực hiện chính sách NCCVCM trên địa bàn quận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận liên quan đến các
vấn đề về chính sách, chính sách công, chính sách đối với NCCVCM ở nước ta hiện
nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện chính sách người có công
với cách mạng; nhằm tiếp tục duy trì, phát huy những ưu điểm, cách làm mới, hay
mang lại hiệu quả thiết thực; đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, đề ra các giải
pháp để tổ chức thực hiện tốt hơn chính sách đối với người có công trên địa bàn quận
Sơn Trà thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 3 chương:

8


Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách người có công với cách
mạng
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện chính sách người có công với cách
mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách

người có công với cách mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Người có công
1.1.1. Khái niệm
Ở mỗi thời kỳ, chế độ khác nhau thì chính sách người có công cũng khác
nhau. Nhưng suy cho cùng thì chính sách ưu đãi đối với người có công là sự ghi
nhận những công lao của họ cho đất nước, là những chế độ đãi ngộ về vật chất và
tinh thần, là sự bày tỏ lòng biết ơn đến những người đã hy sinh, những người đã
cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Trước đây, tại Thông tư số 16-TBXH ngày 11/10/1977 của Bộ Thương binh
Xã hội (nay là Bộ LĐ-TB&XH) về hướng dẫn thi hành Quyết định số 208-CP ngày
20/7/1977 của Hội đồng Chính phủ về chế độ đãi ngộ đối với những người và gia
đình có công với cách mạng có quy định:
“Những người và gia đình NCCVCM là những người trực tiếp giúp đỡ cách
mạng khi chưa giành được chính quyền, hoặc trong vùng bị địch kìm kẹp, khủng bố
gắt gao; sự giúp đỡ này nếu bị lộ sẽ gây nguy hiểm cho người giúp đỡ cách mạng về
tính mạng, tài sản như bị địch bắt bớ, tù đày, sát hại, triệt phá nhà cửa,v.v…
NCCVCM được hưởng chế độ đãi ngộ là người trực tiếp giúp đỡ cách mạng,
được đứng tên trong quyết định khen thưởng.
- Tại Điều 1, Pháp lệnh 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 sửa đổi bổ
sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM số 26/2005/PL-UBTVQH11 đã

9


được sửa đổi bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của lệnh ưu đãi
NCCVCM số 35/2007/PL-UBTVQH11 quy định NCCVCM bao gồm:

+ Người hoạt động cách mạng từ trước ngày 1/1/1945
+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 1/1/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945
+ Liệt sĩ
+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng
+ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
+ Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến
+ Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh
+ Bệnh binh
+ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học
+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tù đày
+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế
+ Người có công giúp đỡ cách mạng
(Khái niệm cụ thể của từng loại đối tượng kể trên được định nghĩa rõ ràng,
cụ thể tại Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM số 26/2005/PL-UBTVQH11)
Thuật ngữ “người có công” theo một số công trình đã nêu khái niệm “người
có công” theo 2 nghĩa sau:
Theo nghĩa rộng: “Người có công là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng, trí
tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước và kiến
thiết đất nước. Họ là người có những thành tích đóng góp hoặc những cống hiến
xuất sắc phục vụ vì lợi ích của đất nước, của dân tộc được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật”. Ở đây có thể thấy rõ những
tiêu chí cơ bản của người có công, đó là phải có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì
lợi ích dân tộc. Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc đấu
tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước [30, tr.11-12].
Theo nghĩa hẹp: “Người có công là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc


10


trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến
giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
công nhận theo quy định của pháp luật”. Ở khái niệm này, người có công bao gồm
người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời mình hoặc một
phần thân thể hoặc có thành tích đóng góp cho sự nghiệp cách mạng [30, tr.15].
Tóm lại, có thể hiểu một cách đơn giản: NCCVCM là những người không
phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác,… đã đóng góp công lao
hoặc hy sinh tính mạng, hi sinh một phần thân thể trong thời kỳ cách mạng tháng
Tám, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa
vụ quốc tế,…được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận.
1.1.2. Đặc điểm, nhu cầu người có công với cách mạng
- Đặc điểm
Trong suốt chiều dài những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, NCCVCM
là những người hầu hết đều trải qua chiến tranh, họ luôn nhớ về những người cùng
hoạt động cách mạng, những đồng đội đã anh dũng hy sinh; có ý thức tự hào về quá
khứ cống hiến của mình cho cách mạng, có tinh thần trách nhiệm giữ gìn những
phẩm chất và truyền thống cách mạng; phần lớn họ tuổi đã cao, sức khỏe bị suy
giảm nhiều do bị thương tật, bệnh tật; họ có nhiều công lao, đóng góp cho cách
mạng, cho đất nước.
Khi hòa bình lập lại, NCCVCM tiếp tục có nhiều đóng góp vào công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước, họ luôn trăn trở trước vận mệnh của đất nước; họ tình
nguyện tham gia vào các hoạt động đi tìm đồng đội, các hoạt động xã hội ở địa
phương; là tấm gương cho gia đình, dòng họ, con cháu noi theo; họ nhạy cảm với
các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước. Có thể nói rằng họ là những người
có uy tín, là lực lượng trụ cột có tiếng nói quan trọng trong cộng đồng dân cư, trong
đời sống xã hội để vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện các chủ trương, chính

sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, do sống trong môi trường, điều
kiện kinh tế thị trường, đối với những người có hoàn cảnh khó khăn, đôi lúc họ
cũng có tâm trạng mặc cảm, cảm thấy mình bị thiệt thòi, thua thiệt, mất mát hơn so
với những người xung quanh.

11


Đối với các thương, bệnh binh thời kỳ kháng chiến chống Pháp: Hiện nay số
còn sống ít, tuổi cao, ít đòi hỏi quyền lợi cá nhân; nhưng đời sống tinh thần, nhu cầu
về thông tin thời sự lại khá cao, họ thích tìm hiểu và tham gia bình luận tình hình
thời sự trong nước và thế giới; muốn thường xuyên gặp gỡ bạn bè để trao đổi thông
tin và ôn lại kỷ niệm, quá khứ hào hùng của dân tộc.
Đối với thân nhân liệt sỹ và người có công với cách mạng: sự mất mát người
thân là sự đau đớn lớn nhất đối với những người cha, người mẹ, người vợ, người
con liệt sỹ mà không gì có thể bù đắp được. Họ rất muốn được sự quan tâm chia sẻ,
động viên nhất là vào các dịp ngày lễ, ngày tết bởi họ cũng mong muốn có được sự
đầm ấm hạnh phúc trong những ngày này. Nhìn chung người có công có những đặc
điểm khác nhau đòi hỏi công tác chăm sóc cũng khác nhau và phải tìm hiểu kỹ đặc
điểm, nhu cầu của họ. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng để đưa ra những giải pháp
chăm sóc, hỗ trợ phù hợp, đem lại hiệu quả cao, nhằm bù đắp phần nào những hy
sinh cống hiến to lớn của người có công với cách mạng.
- Nhu cầu
Ở mỗi thời đại, nhu cầu của mỗi con người rất khác nhau. Nhu cầu của con
người thường rất đa dạng, phong phú, tùy thuộc vào hoàn cảnh sống, nhận thức, văn
hóa, vị trí xã hội, điều kiện kinh tế của mỗi người. Để tồn tại, con người cần phải
được đáp ứng những nhu cầu cơ bản thiết yếu nhất cho sự sống như ăn mặc, nhà ở,
ngủ nghỉ, y tế... Để phát triển, con người cần những nhu cầu cao hơn như sự an
toàn, được học hành, được tôn trọng, yêu thương... Sự vận động và phát triển của xã
hội loài người cuối cùng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, càng

nhiều của con người. Đồng thời việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, càng nhiều ấy
cũng chính là động cơ thúc đẩy con người tham gia vào các hoạt động sản xuất,
hoạt động xã hội.
Để làm rõ nhu cầu của NCCVCM, tác giả áp dụng thuyết nhu cầu của
A.Maslow để nghiên cứu. Từ đó xem xét nhu cầu nào đã được đáp ứng, sự đảm
bảo, đảm bảo ở mức độ nào, tính bền vững ra sao; nhu cầu nào chưa được đáp ứng;
NCCVCM muốn được đáp ứng nhu cầu nào trước, nhu cầu nào sau hay theo trình
tự 5 nhu cầu từ thấp tới cao của tác giả A.Maslow.

12


Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, hiện nay NCCVCM có những nhu cầu sau:
- Đối với nhu cầu sống: Trải qua nhiều năm tháng tham gia chiến đấu, phục vụ
kháng chiến, công tác nơi chiến trường gian khổ trở về với cuộc sống đời thường,
NCCVCM gặp nhiều khó khăn trong việc bắt nhịp với cuộc sống, nhất là ở những
khu vực đô thị có cuộc sống thay đổi nhanh chóng. Vì số đông NCCVCM tuổi đã
cao, sức khỏe bị suy giảm do thương tật, bệnh tật, di chứng của chiến tranh, thiếu
vốn, trình độ tay nghề thấp hoặc không có nên cuộc sống còn nhiều khó khăn; mức
sống của NCCVCM chưa thể ngang bằng với mức sống bình quân của người dân
nơi cứ trú; cuộc sống của họ và nhiều gia đình phụ thuộc vào nguồn trợ cấp hằng
tháng; nhiều gia đình chưa có nhà ở ổn định...
- Đối với nhu cầu an toàn: NCCVCM đã trải qua những phút giây sinh tử, lằn
ranh giữa sự sống và cái chết, sự tra tấn của quân thù... nên họ hiểu được sự tàn
khốc, mất mát, đau thương do chiến tranh gây ra. Vì vậy họ rất quý trọng sự sống;
muốn được sống, nghỉ ngơi, sinh hoạt, làm việc trong sự an bình, độc lập; muốn
được xã hội quan tâm, gia đình chăm sóc, muốn được tiếp cận với các dịch vụ y tế
để khám chữa bệnh nhằm đảm bảo sức khỏe.
- Đối với nhu cầu thuộc về một nhóm nào đó: NCCVCM hiện nay tuổi đã cao
nên rất muốn được quan tâm, chia sẻ, sự đồng cảm nên rất muốn sinh hoạt với đồng

đội để ôn lại kỷ niệm; muốn tham gia sinh hoạt trong Hội Người cao tuổi, Hội Cựu
chiến binh, câu lạc bộ dưỡng sinh, hội hoa viên... để khuây khỏa tâm hồn và vơi đi
ký ức buồn của chiến tranh cũng như sự khác biệt về ý thức thế hệ với các thành
viên nhỏ tuổi trong gia đình.
- Đối với nhu cầu được tôn trọng: với phần lớn con người nói chung,
NCCVCM nói riêng, đây là nhu cầu quan trọng. Bởi lẽ NCCVCM đã trải qua nhiều
hy sinh, mất mát, đóng góp cho cách mạng, có nhiều công lao nên họ rất muốn được
xã hội, cộng đồng, dòng họ, gia đình tôn vinh, quý trọng, xem họ là tấm gương để
noi theo và công nhận những gì mà họ đóng góp, nhất là tuổi thanh xuân, công sức,
sự hy sinh về xương máu để góp phần làm nên lịch sử dân tộc, xây dựng cuộc sống
ngày nay.

13


- Đối với nhu cầu hoàn thiện: cũng như nhiều người khác, NCCVCM cũng có
mong muốn hoàn thiện bản thân để khẳng định mình dù trong hoàn cảnh nào; họ rất
muốn tiếp tục đóng góp trí tuệ, uy tín, sự ảnh hưởng, tiếng nói của mình để tham gia
xây dựng địa phương, xây dựng Nhà nước... để góp phần xây dựng cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn.
1.2. Chính sách người có công với cách mạng
1.2.1. Khái niệm
Chính sách đối với người có công là một bộ phận của hệ thống chính sách xã
hội mà cụ thể là chính sách bảo đảm xã hội. Trong hệ thống chính sách an sinh xã
hội ở nước ta, gồm có ưu đãi xã hội đối với những người có công lao đối với đất
nước; bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các thành phần kinh tế; cứu trợ
xã hội đối với những người không may bị rủi ro, khó khăn hoặc hiểm nghèo.
Chính sách NCCVCM là đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước căn
cứ vào nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng dựa trên sự phát triển của kinh tế - xã
hội, nhằm mục đích ghi nhận công lao đóng góp, sự hi sinh cao cả của những người

có công, tạo mọi điều kiện, khả năng để bù đắp phần nào về đời sống vật chất và
tinh thần đối với NCCVCM.
Chính sách người có công là phương tiện, công cụ quản lý có hiệu lực mọi
mặt đời sống vật chất và tinh thần trong lĩnh vực ưu đãi xã hội đối với người có
công. Chính sách người có công được ban hành, thể hiện chính sách “Đền ơn đáp
nghĩa”, là thực hiện nghĩa vụ công dân và công bằng xã hội, đây không phải là sự
“đền bù”, bởi lẽ sự hy sinh của người có công là cao quý, vì đại nghĩa, bằng xương
và máu, bằng tài sản và tính mạng thì không có gì có thể so sánh được, không có gì
có thể đền bù được. Sự “Đền ơn đáp nghĩa” không chỉ là vật chất thuần túy mà còn
là đạo lý, truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam, là lòng kính trọng, biết ơn
sâu sắc của nhiều thế hệ hôm nay và mai sau đối với người có công. Chính sách
NCCVCM là chính sách đặc biệt thực hiện cho những đối tượng đặc biệt, thể hiện
một cách rõ nét nhất đường lối của Đảng và Nhà nước. Chính sách có vai trò quan
trọng, mang ý nghĩa chính trị, nhân văn sâu sắc; phản ánh sự quan tâm, ý thức của
xã hội, Nhà nước, của cả cộng đồng, sự bày tỏ lòng biết ơn của các thế hệ sau đối
với các thế hệ cha anh đi trước. Đây được xem là chính sách ưu tiên thực hiện trong
suốt quá trình cách mạng của Đảng, Nhà nước ta.

14


Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 sửa đổi bổ sung một số
điều của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM số 26/2005/PL-UBTVQH11 đã được sửa đổi
bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi
NCCVCM số 35/2007/PL-UBTVQH11 quy định đối tượng được hưởng các chế độ
ưu đãi đối với NCCVCM bao gồm NCCVCM và thân nhân của NCCVCM. Các chế
độ ưu đãi đối với từng loại đối tượng được hưởng cũng được quy định cụ thể, rõ
ràng trong Pháp lệnh ưu đãi đối với NCCVCM, cơ bản bao gồm các chế độ như:
Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng; Mai táng phí; Cấp phát bảo hiểm y tế; Hỗ
trợ nhà ở; Điều dưỡng phục hồi sức khoẻ hằng năm; Cấp phương tiện trợ giúp, dụng

cụ chỉnh hình cần thiết;…
1.2.2. Vai trò chính sách người có công với cách mạng
Thứ nhất, chính sách NCCVCM là công cụ thực hiện chức năng xã hội của
Nhà nước, phản ánh thái độ, định hướng của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội
Với tư cách là một công quyền, Nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức
năng giai cấp và chức năng xã hội. Trong đó chức năng xã hội của Nhà nước là
chức năng thực hiện quản lý chung vì sự tồn tại của xã hội, chăm lo những công
việc chung của toàn xã hội và trong giới hạn có thể được nó phải thoả mãn một số
nhu cầu của cộng đồng dân cư. Thực hiện chức năng này, cần thiết phải sử dụng
những công cụ, phương pháp phù hợp, hiệu quả và chính sách chứa đựng những
quy định, cơ chế mang tính quyền lực nhất định, buộc các chủ thể, đối tượng tuân
thủ thực hiện theo được xem là một công cụ hữu hiệu, đảm bảo giải quyết các vấn
đề phát sinh trong xã hội, thực hiện tốt chức năng xã hội của Nhà nước.
Hậu quả sau chiến tranh để lại là vô cùng to lớn, đất nước bị tàn phá nặng nề,
vô số người đã hi sinh, ngã xuống, cống hiến sức lực, tài sản, trí tuệ,… đấu tranh
giành giữ độc lập, tự do cho dân tộc; những người may mắn sống sót trở về nhưng
mang trên mình nhiều thương tật, tổn thương nặng nề. Việc khắc phục hậu quả sau
chiến tranh, kiến thiết xây dựng đất nước, bù đắp những thương tổn. mất mát, cải
thiện đời sống nhân dân và đối tượng người có công là một vấn đề cấp bách chiến
lược. Việc ban hành và thực hiện chính sách NCCVCM được xem là một tất yếu
khách quan. Thông qua chính sách NCCVCM đã thể hiện truyền thống, đạo lý tốt
đẹp “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, bản chất nhân đạo, nhân văn sâu sắc của

15


Đảng, Nhà nước. Chính sách đã phản ảnh thái độ, định hướng của Đảng, Nhà nước
trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến NCCVCM – một trong những đối
tượng đặc biệt cần quan tâm, chăm sóc.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, dẫn lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng
khái quát sâu sắc về quan điểm chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn
đề có tầm chiến lược này như sau: “…phải đối đãi với những người, những gia đình
liệt sĩ và thương binh cũng như là những người đã có cống hiến rất lớn, rất lớn đối
với sự nghiệp cách mạng, đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân; đó
là một vấn đề rất quan trọng, một vấn đề chính trị, một vấn đề tư tưởng, một vấn đề
tình cảm, một vấn đề xã hội, một trong những vấn đề lớn của nước ta, một vấn đề
của tất cả chúng ta, một vấn đề lớn của Đảng ta, Nhà nước ta, của các tổ chức quần
chúng, một vấn đề của các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương và của cơ quan có
trách nhiệm ở địa phương, của tỉnh, của huyện, của xã. Một vấn đề mà không cho
phép một người Việt Nam nào không quan tâm,…”[20]
Xuyên suốt thời kỳ cách mạng, đến nay, việc thực hiện tốt những chính sách,
chế độ ưu đãi đối với người có công luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trọng
tâm, thường xuyên, luôn phải quan tâm và đảm bảo thực hiện. Không ngừng hoàn
thiện, bổ sung, điều chỉnh những quy định, văn bản pháp luật phù hợp với với từng
điều kiện, hoàn cảnh đất nước để đáp ứng được nhu cầu thiết yếu, cải thiện và nâng
cao mức sống cho NCCVCM là một việc làm cần thiết.
Thứ hai, chính sách NCCVCM khắc phục sự phân hoá giàu nghèo – khuyết
tật của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý, điều
tiết của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kinh tế thị
trường bên cạnh những ưu điểm, thì nó cũng chứa đựng những hạn chế, khuyết tật
như sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải, ô nhiễm môi trường,…
NCCVCM là những người đã từng cống hiến, hi sinh, chịu nhiều thiệt thòi
cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, do đó họ cần được quan tâm, tôn trọng và
nhận được sự chăm sóc, chia sẻ, động viên từ phía cộng đồng. Đại bộ phận
NCCVCM luôn ý thức và có tinh thần trách nhiệm giữ gìn phẩm chất, truyền thống
cách mạng, gương mẫu chấp hành các quy định trong đời sống và công tác. Rất


16


nhiều người trở về sau chiến tranh với thương tích, bệnh tật rất nặng nhưng họ vẫn
cố gắng vươn lên, tìm kiếm việc làm, phát triển kinh tế, tiếp tục cống hiến cho xã
hội trong thời bình. Tuy nhiên đa phần NCCVCM đều già yếu, thương tật, không đủ
khả năng lao động, nhiều hộ gia đình thuộc diện chính sách đặc biệt khó khăn mức
sống dưới mức trung bình, không có khả năng chi trả các chi phí sinh hoạt, điều
kiện vật chất tối thiểu cho cuộc sống,… Chính sách NCCVCM được ban hành
nhằm mục đích khắc phục sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, thực hiện ưu đãi
cho đối tượng là NCCVCM trong giải quyết việc làm, trợ cấp, chế độ bảo hiểm y tế,
hỗ trợ thoát nghèo,… để giúp đỡ người NCCVCM nâng cao được chất lượng cuộc
sống, có mức sống bằng mức trung bình hoặc cao hơn so với các xã hội đảm bảo
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Thứ ba, chính sách NCCVCM đóng vai trò là cầu nối, tạo cơ sở phối hợp
thực hiện giữa cơ quan nhà nước và các tổ chức, người dân trong xã hội cùng tham
gia chăm sóc NCCVCM
Chăm sóc thương binh, liệt sĩ và người có công là bổn phận, trách nhiệm của
Đảng Nhà nước và toàn thể xã hội. Từ khâu hoạch định chính sách đã đòi hỏi sự
tham gia của nhiều chủ thể, cá nhân trong xã hội. Khi triển khai chính sách
NCCVCM trên phạm vi rộng thì cần có sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc các
cấp, các ngành khác nhau, nhiều tổ chức, cá nhân để đảm bảo cho việc thực hiện
chính sách được hiệu quả. Dựa trên những quy định chung của Pháp luật về chính
sách NCCVCM và thông qua quá trình thực hiện chính sách, sẽ thúc đẩy được sự
phối hợp hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội. Mục tiêu
của chính sách được hiện thức hoá bằng các chương trình, chế độ cụ thể, nêu bật lên
tinh thần, đạo lý, truyền thống nhân đạo của dân tộc, qua đó lôi kéo được quần
chúng nhân dân cùng tích cực tham gia vào thực hiện chính sách NCCVCM đồng
bộ, hiệu quả. Chính sách NCCVCM là cầu nối, sợi dây gắn kết giữa Nhà nước và
nhân dân trong việc chung tay thực hiện chăm sóc NCCVCM, đảm bảo an sinh xã

hội, xây dựng đất nước công bằng, tiến bộ, văn minh; đảm bảo trách nhiệm của
công dân trong việc thực nhiệm nghĩa vụ với Nhà nước và xã hội theo quy định của
Hiến pháp.
1.3. Thực hiện chính sách người có công với cách mạng
1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách người có công với cách mạng

17


Thực hiện chính sách NCCVCM là toàn bộ quá trình đưa chính sách vào đời
sống xã hội theo một quy trình thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn
đề ưu đãi đối với người có công với NCCVCM đang diễn ra đối với những đối
tượng cụ thể trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định.
Giống như các CSC khác được ban hành, chính sách NCCVCM có tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người, có liên quan tới nhiều chủ thể
khác nhau trong xã hội. Vì vậy, quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách
này cần huy động sự tham gia của các bên. Các bên tham gia vào quá trình thực
hiện chính sách NCCVCM bao gồm: các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức đoàn thể nhân dân, cán bộ,
công chức nhà nước có thẩm quyền và các cá nhân trong xã hội, nhằm đưa chính
sách vào thực tế. Trong đó:
Chủ thể triển khai thực hiện Chính sách NCCVCM bao gồm các cơ quan
trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương (Chính phủ; các Bộ, Cơ
quan ngang Bộ; HĐND các cấp; UBND các cấp) trong đó chủ yếu là các cơ quan
trong bộ máy hành chính nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính
nhà nước có thẩm quyền.
Chủ thể tham gia phối hợp thực hiện Chính sách NCCVCM ở nước ta hiện
nay rất phong phú, có thể là các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt trận tổ quốc, Công
đoàn, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh,…); các
hiệp hội nghề nghiệp – xã hội ở Trung ương đến địa phương; các doanh nghiệp

thuộc mọi thành phần kinh tế; các tổ chức phi Chính phủ;…
Đối tượng thực hiện Chính sách NCCVCM là những đối tượng, nhóm đối
tượng chịu tác động trực tiếp (Người có công và thân nhân người có công) và đối
tượng chịu tác động gián tiếp là những đối tượng khi mà chính sách được triển khai
không chịu tác động trực tiếp nhưng ít nhiều cũng bị ảnh hưởng.
1.3.2. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng
Thực hiện chính sách NCCVCM là một nội dung của Hiến định:
Khoản 1, Điều 59 của Hiến pháp 2013 quy định “Nhà nước, xã hội tôn vinh,
khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước”.
Việc thực hiện chính sách NCCVCM có ý nghĩa rất quan trọng. Giống như
đối với CSC, thực hiện chính sách NCCVCM chính là bước hiện thực hoá chính

18


×