Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Luận văn tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.91 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG ĐỨC CHINH

TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG ĐỨC CHINH

TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số
:
8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY

HÀ NỘI - năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong
Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng được
công bố trong các công trình khác.
Tác giả luận văn

Đặng Đức Chính


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ................. Error! Bookmark not defined.

1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội cướp tài sảnError! Bookmark not defi
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sảnError! Bookmark not defined.

1.3. Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khácError! Bookmark n
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI

CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNGError! Bookmark not defined
2.1. Tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà NẵngError! Bookmark not defined.
2.2. Những thuận lợi, khó khăn trong định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐÀ NẴNG ........................... Error! Bookmark not defined.

3.1. Các yêu cầu đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sảnError! Bookm

3.2. Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội
cướp tài sản ............................................................. Error! Bookmark not defined.
3.3. Nhóm các giải pháp khác .................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ............................................................ Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCT

: Bộ Chính trị

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

ĐCS

: Đảng cộng sản

ĐTV

: Điều tra viên

HĐXX


: Hội đồng xét xử

KSĐT

: Kiểm sát điều tra

KSV

: Kiểm sát viên

PL

: Pháp luật

TANDTC

: Toà án nhân dân tối cao

THA

: Thi hành án

UBND

: Ủy ban nhân dân

VAHS

: Vụ án hình sự


VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XXPT

: Xét xử phúc thẩm

XXST

: Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng án hình sự được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng
xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019 .............. Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.2. Tỷ lệ (%) các tội Cướp tài sản được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố
Đà Nẵng xét xử sơ thẩm năm 2015 đến năm 2019 ... Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới trên đất nước ta đã đi được chặng đường hơn hai mươi
năm, chặng đường đầy cam go, thử thách, đến nay đã đạt những thành quả rất đáng
tự hào, bộ mặt đất nước, đời sống nhân dân được đổi thay từng ngày. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã và đang đứng vững trước những

thách thức thời đại, dần từng bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên nền
tảng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với những
mặt tích cực công cuộc đổi mới, mở cửa đất nước, những mặt trái của nền kinh tế
thị trường cũng xuất hiện, tình hình vi phạm, tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất
thủ đoạn ngày càng tinh vi đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến thành quả chung
của công cuộc đổi mới đất nước.
Thực tế những năm qua cho thấy, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm và tăng cường lónh đạo đối với các cơ quan tư pháp, kiên quyết đấu tranh
chống các loại tội phạm nói chung và phòng chống tội phạm Cướp tài sản nói riêng,
qua đó góp phần đảm bảo an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên tình hình tội phạm trong những năm gần đây, đặc biệt là tội Cướp
tài sản và cướp giật (gọi chung là phạm xâm phạm sở hữu) vẫn có chiều hướng gia
tăng về số vụ, quy mô tổ chức ngày càng cao và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm
trọng. Cụ thể tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, ngày 13 tháng 11 năm 2018,
trong phần, mục Báo cáo công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật và
công tác thi hành án năm 2018 cho thấy một số loại tội phạm tăng như: cướp tài sản
tăng 5,1%, giết người tăng 3,9% [39]. Do vậy việc áp dụng pháp luật trong đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng luôn là vấn đề
cần thiết đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp của nhà nước ta.
Thành phố Đà Nẵng là một thành phố lớn tại Việt Nam, đồng thời cũng là
một trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, giáo dục quan trọng của khu vực Miền
Trung và Tây Nguyên. Chính vì thế số lượng người lao động, học sinh, sinh viên di
1


cư về học tập, sinh sống và làm việc tại thành phố ngày càng đông, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế kéo theo các ngành dịch vụ đi kèm (khách sạn, nhà nghỉ, nhà
trọ, cầm đồ...) phục vụ nhu cầu của đông đảo nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những
người đến học tập, sinh sống làm việc thì cũng có một bộ phận không có công ăn

việc làm đến sinh sống làm nảy sinh nhiều vấn đề gây phức tạp cho an ninh trật tự
trên địa bàn thành phố. Thực tế trong thời gian qua, tình hình tội phạm xâm phạm
sở hữu có chiều hướng tăng, phức tạp, đáng chú ý là tội cướp tài sản có chiều hướng
phức tạp, số vụ tuy không tăng nhưng tính chất manh động, liều lĩnh gây hoang
mang cho quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự xã hội.
Trước tình hình đó việc triển khai và áp dụng có hiệu quả các chủ trương
chính sách của cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố Đà Nẵng đối với công tác
phòng chống tội phạm là hết sức cấp thiết, và đã đạt những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, trong thời gian qua vẫn chưa có sự đồng thuận triệt để, thực hiện thống nhất có
hiệu quả các chủ trương, chính sách, mục tiêu, giải pháp. Vì vậy, kết quả đạt được
chưa cao, tính chất mức độ nguy hiểm đối với tội này đang dần tăng. Từ thực tiễn
trên, nhằm phân tích, đánh giá, để có cơ sở dự báo, đưa ra các giải pháp phòng ngừa
tội cướp tài sản là một vấn đề cấp thiết. Từ luận giải trên, học viên chọn nghiên cứu
đề tài “Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn tốt nghiệp
cao học luật, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về tình hình tội phạm, phòng ngừa và xử lý tội phạm trong giai
đoạn cải cách pháp hình sự hiện nay ở nước ta nói chung và tội Cướp tài sản nói
riêng đã thu hút sự nghiên cứu của nhiều cơ quan, tổ chức và nhiều nhà khoa học.
Có thể nêu ra như sau:
- Luận án tiến sĩ luật học: Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội, của tiến sĩ Đỗ Kim Tuyến. Đại học Luật Hà Nội, 2001 [65].
- Luận án tiến sĩ luật học: Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh, của tiến sĩ Nguyễn Đức Thảo, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam, học viện khoa học xã hội, 2016 [44].

2


- Luận án tiến sĩ luật học: Hoạt động của lực lượng Cảnh sát hình sự trong

phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên tuyến quốc lộ 1A thuộc địa bàn các tỉnh,
thành phố phía Bắc, của tiến sĩ Bùi Thị Quỳnh Mai. Học viện Cảnh sát nhân dân
dân, 2016 [20].
- Luận án tiến sĩ luật học: Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh, của tiến sĩ Nguyễn Văn Khoa Điềm. Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, học viện khoa học xã hội, 2019 [11].
- Luận án tiến sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản của lái xe chở
khách theo chức năng của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các tỉnh, thành phố
phía Bắc, của Nguyễn Duy Dương. Học viện Cảnh sát nhân dân dân, 2019 [4].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, của thạc sĩ Trần Đình Hải, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2012 [12].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Tội cướp giật tài sản theo Luật hình sự Việt
Nam, trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, của thạc sĩ Trần Hữu
Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2014 [21].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Tội cướp tài sản theo Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999, trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, của
thạc sĩ Nguyễn Thị Hương, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2014 [13].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu
trong Luật hình sự Việt Nam, của thạc sĩ Hoàng Ngọc Dinh, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Khoa luật 2016 [6].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Hà Nội, của thạc sĩ Nguyễn Việt Quang, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, Học viện khoa học xã hội, 2016 [23].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam, từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, của thạc sĩ Phạm Thị Hà Châu, Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2016 [3].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên

3



địa bàn quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, của thạc sĩ Vũ Quốc Toản, Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [60].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Nguyên nhân, điều kiện của tội Cướp giật tài sản
trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, của thạc sĩ Huỳnh Ngọc Tùng, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [61].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Chứng cứ trong điều tra các vụ án về tội cướp tài
sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, của thạc sĩ Phạm Thùy Dương, Viện hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [5].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Thực hành quyền công tố trong vụ án Cướp tài
sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, của thạc
sỹ Nguyễn Tiến Tài. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học
xã hội, 2018 [42].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội Cướp tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chi Minh, của thạc sỹ Nguyễn Thị Ngọc Phương. Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [15].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Tội Cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, của thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết Thanh,
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [43].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Thực hành quyền công tố đối với tội Cướp tài
sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, của thạc sĩ Nguyễn Thanh Tùng, Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [62].
- Luận văn thạc sĩ luật học: Tội Cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, của thạc sĩ Tạ Hữu Hiền, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2020 [14].
Ngoài ra trong qúa nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn học viên, đã tham
khảo một số bài biết, tập bài giảng và giáo trình chuyên khảo và các sách bình luận
về Luật hình sự quy định về tội Cướp tài sản.
Nhìn chung các công trình trên đã đi sâu làm rõ lý luận về tội cướp tài sản,

đã nêu ra được thực trạng và đề xuất các giải pháp phòng, chống tội cướp tài sản.

4


Tuy nhiên, từ khi Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì chưa có
một công trình nào đi sâu, nghiên cứu làm rõ thực trạng, thực tiễn tội cướp tài sản
và đưa ra giải pháp mới trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề
tài “Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” nhằm đánh giá tình hình,
phân tích thực tiễn để đề ra những giải pháp phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả tội
phạm này trên địa bàn thành phố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ về mặt lý luận tội cướp tài sản để
đóng góp những giải pháp giải quyết các khó khăn trong đấu tranh với tội phạm này
trong thực tiễn đấu tranh trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài
sản.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội cướp tài sản từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề liên quan đến tội cướp tài sản và thực
trạng áp dụng pháp luật trong phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội cướp tài sản

trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi thời gian: Trong thời gian 05 năm (2015-2019).
- Phạm vi nội dung: Phân tích thực tiễn đấu trang phòng chống tội cướp tài sản
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh

5


với loại tội phạm này.
5. Cơ sở l ý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở l ý luận
Luận văn được sẽ được học viên vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác, Lênin - tư tưởng HCM và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời học viên cũng vận dụng lý luận khoa học của các lĩnh vực có liên
quan như khoa học LHS và LTTHS...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, nghiên cứu vận dụng một số phương pháp cụ thể
sau đây: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê, phương
pháp lịch sử, tư duy logic, quy nạp, diễn giải, chuyên gia… nhằm làm sáng tỏ nội
dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng trong Chương I của
luận văn, nhằm làm rõ những điểm giống và khác nhau, từ đó phân biệt tội cướp tài sản
với một số tội phạm khác.
+ Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong Chương II
của luận văn, nhằm làm rõ tình hình tội cướp tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019.
+ Phương pháp tư duy logic, quy nạp, diễn giải, chuyên gia: Các phương
pháp này được sử dụng trong Chương III của luận văn, nhằm làm rõ cơ sở đề xuất,
dự báo tình hình và qua đó đưa ra một số giải pháp về nâng cao hiệu quả đấu tranh
với tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và qua đó nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tội cướp tài sản ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn Thành
phố Đà Nẵng nói riêng; Nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong hoạt động
xét xử loại tội này.

6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo, học tập cho sinh viên, học viên
các trường luật, cán bộ làm công tác thực tiễn tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án, nghiên cứu khoa học…Các giải pháp được đề xuất trong luận văn có giá trị tham
khảo trong quá trình đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm III
chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp
tài sản
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật hình sự về tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

7


CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản
1.1.1. Khái niệm tội phạm
"Tội phạm" với phương diện là một thuật ngữ pháp lý, được quy định tại Điều
8 BLHS 2015 như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị
xử lý hình sự [36].
Xét về bản chất nội dung chính trị - xã hội và nội dung pháp lý, tội phạm là
hiện tượng xã hội được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính
trái pháp luật và tính phải chịu hình phạt. Nếu nghiên cứu về mặt cấu trúc, tội phạm
đều hợp thành bởi bốn yếu tố là chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và khách
thể. Để hiểu rõ về khái niệm của tội phạm đã nêu ở trên cần phân tích những đặc
điểm (dấu hiệu của tội phạm) như sau:
Tính nguy hiểm cho xã hội: Là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định
những dấu hiệu khác của tội phạm. Nguy hiểm cho xã hội, về khách quan có nghĩa
là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là căn cứ để phân
biệt với hành vi vi phạm khác mà còn là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng
nhiều hay ít của hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc cá thể hóa trách nhiệm
hình sự được chính xác.

8



Về tính có lỗi: Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý.
Người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu
hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ
điều kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Tính trái pháp luật: Tính trái pháp luật là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý,
phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội, là dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội
của tội phạm. Việc quy định tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm
không những là cơ sở đảm bảo đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm được
thống nhất, bảo đảm cho quyền dân chủ của công dân khỏi bị xâm phạm bởi hành vi
xử lý tùy tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung, sửa
đổi luật theo sát sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội.
Tính phải chịu hình phạt: Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm
nhưng không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm như hai dấu hiệu trên. Do
vậy, Điều 8 BLHS 2015 không đề cập dấu hiệu này trong định nghĩa tội phạm. Tính
phải chịu hình phạt đi liền với tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình
sự. Tính chất này không những chỉ thể hiện ở chỉ hành vi phạm tội mới phải chịu
hình phạt mà còn thể hiện ở chỗ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật
hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính chịu hình phạt trong từng trường hợp phạm tội cụ
thể. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt; không có tội phạm thì cũng
không có hình phạt.
Khái niệm về tội phạm được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự
Việt Nam. Nội dung của khái niệm tội phạm là điều kiện cần thiết có tính nguyên
tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và
những trách nhiệm pháp lí khác.
1.1.2. Khái niệm tội Cướp tài sản
Cướp là gì?
Theo từ điển tiếng việt thì Cướp hay cướp tài sản trong luật hình sự là một
tội danh chỉ người nào sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng ngay tức khắc vũ lực


9


đối với người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ phạm gây ra vụ
cướp gọi là tên cướp. Bạo lực là dấu hiệu phổ biến nhất của bọn cướp, trong trường
hợp xảy ra giết người thì tội danh biến thành cướp của giết người. Cướp thường xảy
ra ở nơi có nhiều tài sản (dễ bị tấn công) như vùng đô thị thành phố. Nhiều nhất ở
những nơi tối tăm, nhiều người ở lễ hội, công viên, siêu thị, bến xe buýt...
Cướp là hành vi dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được nhằm chiếm đoạt tài sản của họ.
Cướp là một trong những hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm
mục đích tư lợi cho mình hoặc là đem tặng, cho, biếu, cấp phát... cho những người
mà mình quan tâm. Cướp của cải (tài sản) đã xuất hiện ngay từ khi có chế độ tư hữu
và xã hội phân chia thành những người giàu và người nghèo.
Cướp là một loại tội phạm chiếm đoạt tài sản nghiêm trọng nhất trong các tội
chiếm đoạt tài sản. Nó trực tiếp đe doạ đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần và tài sản
của con người. Do vậy, trong Bộ luật hình sự của Việt Nam cũng như của nhiều
Nhà nước khác trên thế giới có một hoặc một số điều luật quy định về tội cướp
(cướp tài sản Nhà nước - tài sản xã hội chủ nghĩa và cướp tài sản của công dân).
Phương thức cướp tài sản thường là sử dụng sức mạnh vật chất (có hoặc không có
công cụ, phương tiện phạm tội) để đè bẹp sự chống cự hoặc làm tê liệt sự phản
kháng, chống đối lại của người có tài sản. Đe dọa dùng vũ lực là hành vi của người
cướp tài sản đã sử dụng lời nói hoặc cử chỉ hay hành động đe dọa xâm phạm ngay
đến tính mạng, sức khỏe và làm tê liệt ngay ý chí chống cự - phản kháng của người
có tài sản. Hành vi đe doạ dùng vũ lực ở đây có đặc điểm là ngay tức khắc. Đặc
điểm này dùng để chỉ sự khẩn trương, nhanh chóng có thể xảy ra chớp nhoáng ngay
về mặt thời gian, đồng thời đặc điểm này còn dùng để chỉ về sự mãnh liệt của sự đe
doạ ở mức độ có thể xảy ra ngay lập tức làm cho người bị đe doa tê liệt ý chí chống

cự, phản kháng của mình.
Các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được là những hành vi mà khi sử dụng đến thì nó có khả năng cản trở

10


được sự phản kháng hay chống đối của người có tài sản, chẳng hạn: hành vi đầu độc
bằng thuốc mê hoặc là giam, giữ người để chiếm đoạt tài sản của họ...
Tài sản là gì?
Với tư cách là khách thể quyền sở hữu, đã được Điều 105 Bộ luật dân sự
2015 xác định như sau: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản
bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện
có và tài sản hình thành trong tương lai [38]
Vật
Vật là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật,
thực vật, vật với ý nghĩa vật lý ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí).
Với ý nghĩa là một phạm trù pháp lý, vật là một bộ phận của thế giới vật chất
có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên,
không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy,
có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng
khác lại không được coi là vật.
Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển… không
được coi là vật. Nhưng nếu đóng vào bình nước, hay được làm nóng, làm lạnh… lại
được coi là vật.
Như vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con ngưòi, vật có thực với
tính cách là tài sản phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đăc trưng giá trị
và trở thành đối tượng của giao lưu dân sự.
Do sự phát triển của khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp
lý cũng được mở rộng.

Ví dụ: Phần mềm trong máy tính hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu
sẽ được coi là vật, nhưng bình thường không được coi là vật.
Vật là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gồm cả
những vật (hay tài sản) chắc chắn sẽ có. Điều 175 BLDS đã xác định loại tài sản
này là: hoa lợi và lợi tức. Đây chính là sự gia tăng của tài sản trong những điều kiện

11


nhất định. Tương tự, tiền và những loại giấy tờ có giá cũng được xác định là những
loại tài sản có tính chất đặc biệt.
Phân biệt tài sản và hàng hóa
Cần phân biệt tài sản với khái niệm hàng hóa trong khoa học chính trị kinh tế
học (là sản phẩm do con người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng
hóa được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa đó. Đất đai,
tài nguyên thiên nhiên là vật (tài sàn) nhưng không phải hàng hóa vì không gắn với
lao động xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diện rộng hơn khái
niệm hàng hóa.
Quyền tài sản
Ngoài vật, tiền - tài sản còn được xác định là quyền tài sản theo quy định tại
Điều 115 BLDS: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài
sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác.” [38].
Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp
luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu nguời
khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình. Xét theo ý
nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền yêu cầu người
khác thực hiện nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản. Trên cơ sở quan
niệm như vậy, Luật La mã phân loại quyền tài sản (quyền dân sự) thành vật quyền
và trái quyền mà không phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu .Vì suy cho cùng

quyền sở hữu tài sản cũng là quyền tài sản.
Điều 115 BLDS 2015 quy định quyền tài sản là quyền trị giá bằng tiền. Theo
quy định này, Nhà lập pháp muốn nói tới quyền đối nhân, tức là quyền của một chủ
thể đối với một chủ thể khác và quyền này trị giá bằng tiền.
Vậy, theo quy định tài Điều 115 BLDS 2015, thì quyền tài sản là quyền yêu
cầu người khác thực hiện nghĩa vụ có giá trị bằng một khoản tiền nhất định như trả
nợ, bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu người khác chuyển giao giá trị của một vật. Ví
dụ quyền yêu cầu thanh toán giá trị tài sản chung.

12


Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội nhất là trong điều kiện nền
kinh tế thị trường có sự quản lỷ của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
phạm vi tài sản với tính cách là khách thể của quyền sở hữu - là không hạn chế.
Chúng bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Nghĩa
là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kỳ một loại tài sản nào, miễn là pháp
luật không cấm lưu thông dân sự.
Mặc dù pháp luật hình sự Việt Nam chưa có Điều luật riêng để quy định về
khái niệm hoặc định nghĩa về Tội cướp tài sản. Tuy nhiên trong BLHS 2015 thì Tội
cướp tài sản được quy định tại Điều 168, với cấu thành 6 khoản. Trong đó khoản 1
Điều 168 BLHS 2015 là cấu thành cơ bản của Tội cướp tài sản, cụ thể:
Điều 168 BLHS 2015, quy định: Tội cướp tài sản
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành
vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm” [36].
Từ những sự phân tích nêu trên và theo quy định của BLHS hiện hành, ta có
thể đưa ra khái niệm về tội “Cướp tài sản” như sau: “Tội cướp tài sản là hành vi
nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện hành
vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho

người bị tấn công (bị hại) lâm vào vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm tài sản, trực tiếp gây thiệt hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công
dân”.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản
1.2.1. Lịch sử hình thành các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội Cướp tài sản, giai đoạn trước năm 1945
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước
để đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, đảm bảo
giữ vững thành quả của cách mạng, duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý

13


kinh tế, bảo đảm cho mọi công dân được sống trong một môi trường xã hội lành
mạnh.
Do vậy sự hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam nói chung và
những quy định của pháp luật hình sự về tội cướp tài sản nói riêng trong lịch sử
luôn gắn liền với nhu cầu quản lý xã hội bằng luật và sự quan tâm của chính quyền
phong kiến trung ương đối với vấn đề này. Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng rất
chú trọng đến ban hành các đạo luật, bộ luật như Bộ Hình thư đời Lý, đời Trần, Bộ
Quốc Triều hình luật thời Lê, Bộ Hoàng Việt luật lệ nhà Nguyễn và các văn bản
pháp luật hình sự đơn hành như Chiếu, Lệnh của nhà Vua... Như dưới thời vua Lý
Thái Tông (năm 1028) ban hành Lệnh xử phạt binh lính cướp của dân, có nội dung
vua ra lệnh: “Ai cướp bóc của dân thì chém”. Hay như trong Bộ luật Hồng Đức,
năm 1483 thời nhà Lê- tiền Lê (hay còn gọi là Quốc triều hình luật), tại Điều 426
quy định: “Những kẻ cướp thường (ban đêm cầm khí giới giết người lấy của) thủ
phạm xử chém, tòng phạm xử giảo, đền tang vật lấy cướp, điền sản bị sung công.
Cướp của còn giết người thị bị chém bêu đầu, tòng phạm xử chém, phải nộp bồi

nhân mạng và đền tiền tang vật trả gấp đôi, cho khổ chủ. Ai chứa chấp cướp lâu
ngày thì xử đồng tội” [18, tr.233] ...
Đến giai đoạn thực dân Pháp đô hộ (là một giai đoạn trong lịch sử Việt
Nam kéo dài 61 năm, bắt đầu từ 1884 khi Pháp ép triều đình Huế chấp nhận sự bảo
hộ của Pháp cho đến 1945 khi Pháp mất quyền cai trị ở Đông Dương), đã làm thay
đổi sâu sắc pháp luật Việt Nam trên cả ba phương diện: tính chất, nội dung và hình
thức pháp luật. Trước đây, hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam không có sự
phân chia thành các ngành luật cụ thể mà đều được thể hiện dưới dạng quy phạm
của luật hình. Bằng việc ban hành ba Bộ luật hình sự áp dụng trên ba miền Bắc Trung - Nam, người Pháp đã xác định lại giới hạn của Luật hình sự trong phạm vi
điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước bảo hộ với người mà Nhà nước coi là đã thực
hiện hành vi phạm tội.
1.2.2. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

14


Ngay sau khi nước Việt nam dân chủ cộng hòa được thành lập (Ngày 02
tháng 9 năm 1945) nước ta lúc bấy giờ vẫn chưa ban hành được Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, Nhà nước cũng đã quan tâm đến việc đấu tranh phòng chống các loại tội
phạm, nhằm ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng và tài sản của
Nhân dân.
Do hoàn cảnh lịch sử, nên nhiệm vụ trọng tâm lúc bấy giờ tập trung vào việc
củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ vừa mới được thành lập, nên việc đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng chưa được đặt
lên hàng đầu. Tuy được Nhà nước quan tâm, nhưng chủ yếu ở các loại tội phạm
xâm hại về an ninh chính trị và các loại tội đặc biệt nghiêm trọng khác như: giết
người, hiếp dâm, gián điệp, phản bội tổ quốc … có thể bị tuyên đến án tử hình. Do
đó, các qui định của pháp luật hình sự về Cướp tài sản từ năm 1945 đến năm 1954
chủ yếu được qui định trong các sắc luật, mà cụ thể là:

- Sắc lệnh số 26/SL ngày 25 tháng 2 năm 1946, về các tội phá hoại công sản;
- Sắc lệnh số 247/SL ngày 15 tháng 6 năm 1946, về âm mưu và hành động
phá hoại tài sản của nhà nước, hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc thực
hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước;
- Sắc lệnh số 73/SL ngày 17 tháng 8 năm 1947 và Sắc lệnh số 12/SL ngày 12
tháng 3 năm 1949 quy định trừng trị rất nặng tội trộm cắp vặt, tội trộm cắp tài sản
của nhà binh
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (Ngày 07 tháng 5 năm 1954) thực dân
pháp bị thất bại trên toàn mặt trận và buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị Giơ-ne vơ. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền. miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội,
miền Nam vẫn chìm trong khói lửa của chiến tranh. Pháp luật thời kỳ này được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm chú trọng, bởi nó là công cụ sắc bén không thể
thiếu của chính quyền cách mạng. Do đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý đất nước, trong đó có nhiều
văn bản liên quan trong lĩnh vực hình sự quy định về tội Cướp tài sản, cụ thể là:

15


- Pháp lệnh số 149-LCT này vào ngày 21 tháng 10 năm 1970 về Trừng trị
các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, đã quy định 03 Điều luật về các Tội
cướp tài sản sản, gồm:
Điều 4. Tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa.
1. Kẻ nào dùng bạo lực để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù
từ 5 năm đến 15 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Dùng vũ khí hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác,
d) Gây thương tích nặng hoặc làm chết người;
đ) Cướp một số lớn tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; thì bị phạt

tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình.
Điều 5. Tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa.
1. Kẻ nào cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7
năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Hành hung để tẩu thoát;
Thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.
Điều 9. Tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
1. Kẻ nào đe doạ dùng bạo lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần
người có trách nhiệm về tài sản xã hội chủ nghĩa nhằm chiếm đoạt tài sản đó thì bị
phạt tù từ 1 năm đến 7 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Chiếm đoạt tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;

16


Thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm [Pháp lệnh 149/1970]
Đến năm 1975, Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước nhà được thống
nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Thời kỳ này, đất nước tạm thời tồn tại hai Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền nam Việt Nam; mỗi Nhà nước có pháp
luật riêng. Tuy nhiên, thời kỳ này vẫn chưa có Bộ luật hình sự chính thức, mà được
điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, cho nên về cơ bản vẫn chưa
có quy định riêng về Tội cướp tài sản.
-Giai đoạn từ năm 1975 đến trước năm 1985:

Do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử Nước ta vừa giải phóng, nhiệm vụ trọng
tâm của Nước ta thời kỳ này chủ yếu tập trung cho việc tái thiết đất nước và củng
cố chính quyền cách mạng, nên chưa kịp thời xây dựng Bộ luật hình sự với đúng
nghĩa của nó và cũng chưa có các văn bản pháp luật cụ thể để xử lý các tội phạm
xâm hại sở hữu nói chung và tội cướp tài sản nói riêng. Vì vậy, pháp luật thời kỳ
này vẫn duy trì các qui định của pháp luật trước đây. Đồng thời chủ yếu là áp dụng
tiền lệ pháp để xử lý hành vi phạm tội nói chung, phạm tội Cướp tài sản nói riêng.
Tuy nhiên giai đoạn này cũng có thể kể đến việc ngày 15 tháng 3 năm 1976 Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban Sắc luật số 03SL/76, quy định về các tội phạm và hình phạt.
1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực thi hành
Đến năm 1985, nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển nhất định, đời sống
kinh tế của người dân được nâng lên. Tuy nhiên nạn trộm cắp, cướp bóc tài sản của
Nhà nước cũng như của công dân có chiều hướng tăng nhanh. Một phần do tác
động của kinh tế thị trường cũng như việc du nhập của các băng đảng tội phạm bên
ngoài vào. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương phải
nhanh chóng ban hành BLHS để có căn cứ xử phạt nghiêm minh. Ngày 27/06/1985
Quốc Hội đã thông qua BLHS 1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây là bộ
luật được ban hành trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp luật hình sự của Nhà
nước ta được ban hành từ những năm đầu của chính quyền cách mạng đến giữa

17


những năm 80 của thế kỷ XX, cũng như thể chế hóa chính sách hình sự của Nhà
nước ta trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên CNXH. Lần đầu tiên nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một bộ luật, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc
trong lịch sử lập pháp hình sự của Nhà nước ta.
Bộ luật hình sự năm 1985 đã giành hai chương quy định về tội xâm phạm sở
hữu, chương IV phần các tội phạm “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”, chương VI
phần các tội phạm “các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Việc giành riêng hai

chương quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã
khẳng định mức độ nghiêm trọng của các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trong
thực tiễn cũng như sự cần thiết phải xác lập một cơ sở pháp lý thống nhất để xử lý
hành vi phạm tội. Cụ thể là quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 về
loại tội phạm trong lĩnh vực xâm phạm sử hữu nói chung và tội Cướp tài sản nói
riêng. Tuy có thể do sự ảnh hưởng của yếu tố lịch sử về công cuộc đổi mới đất
nước, đổi mới nền kinh tế (trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
diễn ra từ ngày 15-18/12/1986), cho nên trong quá trình dự thảo và ban hành Bộ
luật hình sự 1985, các nhà làm luật đã quy định nội dung của tội Cướp tài sản và hai
Điều luật, về tội Cướp tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 129) và Tội Cướp tài sản
công dân (Điều 251), cụ thể là:
Điều 129 BLHS 1985. Tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa
1- Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười
hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
a) Có tổ chức;
b) Dùng vũ khí hoặc phương tiện, thủ đoạn nguy hiểm khác;
c) Gây thương tích nặng, gây tổn hại nặng cho sức khoẻ hoặc gây chết người;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;
đ) Tái phạm nguy hiểm.

18


Và Điều 151 BLHS 1985 “Tội cướp tài sản công dân” qui định:
1- Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi
khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Dùng vũ lực hoặc phương tiện, thủ đoạn nguy hiểm khác;
c) Gây thương tích nặng, gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc gây chết người;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;
đ) Tái phạm nguy hiểm [27]
Việc qui định trong bộ luật hình sự 1985 thành 2 Điều luật riêng về tội Cướp
tài sản xã hội chủ nghĩa và Cướp tài sản công dân, trong thời kỳ đổi mới, đã thể
hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với tội phạm Cướp tài sản nói
riêng và tội phạm xâm hại sở hữu nói chung, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc
đấu tranh phòng chống tội phạm Cướp tài sản bằng pháp luật hình sự được tốt hơn.
Tuy nhiên nhược điểm của các điều luật luật là không mô tả cụ thể hành vi
phạm tội. Hiện tượng này cũng rất phổ biến trong Bộ luật hình sự năm 1985, đòi hỏi
phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành nếu không sẽ gây khó khăn trong việc áp
dụng luật hình sự vào thực tiễn xét xử, và trên thực tế việc xác định các dấu hiệu
pháp lý đặc trưng của nó vẫn dựa trên quy định của hai Pháp lệnh năm 1970. Hình
phạt đối với các tội xâm phạm tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với các tội xâm
phạm tài sản của công dân, điều đó thể hiện định hướng xây dựng CNXH, phát huy
tính chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh trong chính sách hình sự của Nhà
nước ta. Trong bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, BLHS năm 1985 là
công cụ sắc bén của Nhà nước, của nhân dân, đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn
trong công cuộc bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

19


×