Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

CÁC KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121 KB, 7 trang )

CÁC KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ
CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Khái niệm đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều
chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh chính là phạm trù đạo đức được vận dụng vào trong hoạt động
kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp .
Đạo đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh - do kinh doanh là hoạt
động gắn liền với các lợi ích kinh tế, do vậy khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo đức
không hoàn toàn giống các hoạt động khác: Tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả kinh
tế là những đức tính tốt của giới kinh doanh nhưng nếu áp dụng sang các lĩnh vực khác
như giáo dục, y tế... hoặc sang các quan hệ xã hội khác như vợ chồng, cha mẹ con cái
thì đó lại là những thói xấu bị xã hội phê phán. Song cần lưu ý rằng đạo đức kinh doanh
vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội chung
I-Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh.
1.Tính trung thực.
Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín
trong kinh doanh. Nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong chấp hành luật pháp
của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu thuế, không sản xuất và buôn
bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ
tục. Trung thực trong giao tiếp với bạn hàng (giao dịch, đàm phán, ký kết) và người tiêu
dùng: Không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái phép
những nhãn hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, phá giá theo lối ăn cướp. Trung thực
ngay với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, "chiếm công vi tư"
2.Tôn trọng con người.
Đối với những người cộng sự và dưới quyền, tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính
đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm đúng
mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn hợp pháp khác.
Đối với khách hàng,tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng.
Đối với đối thủ cạnh tranh, tôn trọng lợi ích của đối thủ .Gắn lợi ích của doanh


nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã
hội.
Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.
Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh là chủ thể hoạt động kinh doanh.
Theo nghĩa rộng, chủ thể hoạt động kinh doanh gồm tất cả những ai là chủ thể của các
quan hệ và hành vi kinh doanh: Tầng lớp doanh nhân làm nghề kinh doanh.
Khách hàng của doanh nhân: Khi là người mua hàng thì hành động cuả họ đều xuất
phát từ lợi ích kinh tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu
đáo. Tâm lý này không khác tâm lý thích "mua rẻ, bán đắt" của giới doanh nhân, do vậy
cũng cần phải có sự định hướng của đạo đức kinh doanh. Tránh tình trạng khách hàng
lợi dụng vị thế "Thượng đế" để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của doanh nhân, làm
xói mòn các chuẩn mực đạo đức. Khẩu hiệu "Bán cái thị trường cần chứ không phải
bán cái mình có" chưa hẳn đúng!!
3.Phạm vi áp dụng của đạo đức kinh doanh.
Đó là tất cả những thể chế xã hội, những tổ chức, những người liên quan, tác động
đến hoạt động kinh doanh: thể chế chính trị, chính phủ, công đoàn, nhà cung ứng, khách
hàng, cổ đông, chủ doanh nghiệp, người làm công.
Chức năng cơ bản của đạo đức là: đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo các
chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự thôi
thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục
Từ "đạo đức" có gốc từ latinh Moralital (luân lý) - bản thân mình cư xử và gốc từ Hy
lạp Ethigos (đạo lý) - người khác muốn ta hành xử và ngược lại ta muốn họ. ở Trung
Quốc, "đạo" có nghĩa là đường đi, đường sống của con người, "đức" có nghĩa là đức
tính, nhân đức, các nguyên tắc luân lý.
Đạo đức là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh
giá hành vi của con người đối với bản thân và trong quan hệ với người khác, với xã hội.
Từ giác độ khoa học, “đạo đức là một bộ môn khoa học nghiên cứu về bản chất tự
nhiên của cái đúng -cái sai và phân biệt khi lựa chọn giữa cái đúng - cái sai, triết lý về
cái đúng - cái sai, quy tắc hay chuẩn mực chi phối hành vi của các thành viên cùng một
nghề nghiệp” (từ điển Điện tử American Heritage Dictionary).

Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có đặc điểm:
• Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương.
• Nội dung các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử cụ thể.
• Chức năng cơ bản của đạo đức là đạo đức điều chỉnh hành vi của con người theo
các chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự thôi
thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục.
Đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng
như đối với người khác và xã hội. Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để xây dựng
lối sống, lý tưởng mỗi người.
Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức gồm: Độ lượng, khoan dung, chính trực khiêm
tốn, dũng cảm, trung thực, tín, thiện, tàn bạo, tham lam, kiêu ngạo, hèn nhát, phản bội,
bất tín, ác…
Đạo đức khác với pháp luật ở chỗ:
• Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không có tính cưỡng bức, cưỡng chế mà
mang tính tự nguyện, các chuẩn mực đạo đức không được ghi thành văn bản pháp quy.
Phạm vi điều chỉnh và ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật. Pháp luật chỉ điều
chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ xã hội, chế độ nhà nước; còn đạo đức bao
quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần. Pháp luật chỉ làm rõ những mẫu số chung nhỏ
nhất của các hành vi hợp lẽ phải, hành vi đạo lý đúng đắn tồn tại bên trên luật .
4.Lắng nghe khách hàng.
Để biết rõ họ sẽ phản ứng như thế nào luôn là một công cụ hữu hiệu khi doanh
nghiệp muốn sản phẩm hay kế hoạch xúc tiến kinh doanh trở nên hiệu quả hơn.
Việc lắng nghe khách hàng còn mang lại cho công ty lợi ích khác là giải quyết những
phàn nàn của khách hàng một cách sáng tạo cũng chính là một trong những cách phát
hiện các ý tưởng mới về sản phẩm hay dịch vụ, cơ hội cải tiến.
Bên cạnh đó, lắng nghe ý kiến của nhân viên là điều rất quan trọng nếu muốn lắng nghe
khách hàng. Hãy tổ chức các cuộc họp với nhân viên bàn về các khách hàng quan trọng
của công ty và họ sẽ đóng góp nhiều ý kiến để có thêm nhiều cơ hội cải tiến.
5.Chăm sóc khách hàng.
Là tất cả những gì cần thiết mà doanh nghiệp phải làm để thoả mãn nhu cầu và mong

đợi của khách hàng, tức là phục vụ khách hàng theo cách mà họ mong muốn
được phục vụ và làm những việc cần thiết thiết để giữ các khách hàng đang có. Khách
hàng mong muốn dịch vụ cốt lõi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thực sự
đáp ứng nhu cầu của họ. Khách hàng luôn mong đợi dịch vụ hậu mãi sau bán hàng của
doanh nghiệp thực sự tiện lợi.
Để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, hãy xây dựng một môi trường kinh doanh thực
sự chú trọng cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Đây là cách tốt nhất để tăng
cường lợi thế cạnh tranh của mình. Cạnh tranh hiện nay không chỉ là cạnh tranh về sản
phẩm mà còn phải làm tốt công tác chăm sóc khách hàng.
Chăm sóc khách hàng không chỉ là nhiệm vụ của nhân viên bán hàng mà bất kỳ cá nhân
nào trong doanh nghiệp cũng phải thực hiện nhiệm vụ nào đó cho một số người khác
trong doanh nghiệp của mình, tức là ai cũng có khách hàng và đó là khách hàng nội bộ
của doanh nghiệp.
Việc chăm sóc khách hàng phải bắt nguồn từ sự cam kết của lãnh đạo cấp cao nhất và
nhất quán trong mọi phòng ban. Sau đây là sáu bí quyết giúp chăm sóc khách hàng tốt
nhất:
 Sự thân thiện và nồng ấm trong giao tiếp với khách hàng.
 Khách hàng muốn được cảm thấy mình thực sự quan trọng.
 Khách hàng muốn được công ty lắng nghe những gì họ nói.
 Đôi khi, việc biết tên của khách hàng cũng đem lại lợi thế cho doanh nghiệp.
 Năng động, linh hoạt.
6.Tạo sự an tâm của khách hàng đối với nhãn hiệu.
Vì người mua thường cảm thấy an tâm khi mua những nhãn hiệu mà mình đã từng
biết, từng nghe nói đến nhiều. Một nhãn hiệu nghe lạ tai ít có cơ may được khách hàng
quan tâm đến.
7.Sự trung thành của khách hàng đối với nhãn hiệu của doanh nghiệp.
Thông qua việc giữ chân khách hàng dễ dàng hơn, nhất là khi khách hàng đã thỏa
mãn với nhãn hiệu của doanh nghiệp. Khách hàng thường vẫn có tâm lý ngại thay đổi
nhãn hiệu, thậm chí còn quảng cáo không công cho nhãn hiệu đã quen dùng. Mức độ
trung thành của khách hàng cao sẽ làm tăng ảnh hưởng đến kênh phân phối, vì người

bán hàng thích bày bán những nhãn hiệu mà khách hàng muốn mua nhiều.
8.Tin tưởng của khách hàng về chất lượng.
Thể hiện thông qua sự cảm nhận của người mua về chất lượng của một nhãn hiệu, vì chất
lượng của nhã hiệu không nhất thiết dựa vào sự hiểu biết rõ những qui cách, phẩm chất của
nhãn hiệu mà chất lượng thấy được là những gì khách hàng cho rằng nó nói lên chất lượng. Tin
tưởng của khách hàng về chất lượng sẽ tác động trực tiếp lên quyết định
mua hàng cũng như sự trung thành với nhãn hiệu. Nó cũng thuận lợi và biện minh được cho
một giá bán cao hơn mà người mua cũng dễ dàng chấp nhận. Ngoài ra, nó còn là cơ sở cho
doanh nghiệp mở rộng nhãn hiệu trong các lãnh vực khác có liên quan.
9.Tạo cho khách hàng có sự liên kết giữa sản phẩm và nhãn hiệu.
Thông qua việc nối trí nhớ của khách hàng đến với nhãn hiệu một cách trực tiếp hay gián
tiếp. Điển hình như nói đến nước ngọt người ta nghĩ đến Coca, trông thấy cá cơm người ta liên
tưởng đến nước mắm Phú Quốc. Sự liên kết mạnh của nhãn hiệu có thể là cơ sở cho việc mở
rộng nhãn hiệu như trà chanh Lipton có được lợi thế cạnh tranh do sự liên kết của nhãn hiệu
Lipton. Nếu một nhãn hiệu được định vị một cách vững chắc dựa vào một thuộc tính then chốt
của sản phẩm sẽ là một rào cản đối với các nhãn hiệu khác muốn cạnh tranh.
II- Đạo đức cần cho thương hiệu
Không phải quá ngạc nhiên, tại hầu hết các thị trường phát triển, một vụ vi phạm về
các chuẩn đạo đức kinh doanh bị phạt rất nặng. Tuy nhiên, "án phạt" nặng nhất cho
những trường hợp đó chính là việc người tiêu dùng tẩy chay dùng sản phẩm.
Còn nhớ, năm 2006, khi Trung tâm Khoa học và Môi trường Ấn Độ (CSE) ra thông
báo rằng: các sản phẩm của Coca-cola và Pepsi chứa nhiều độc tố quá mức cho phép,
các nhà quản trị của hai thương hiệu này đã phản ứng quá mức. Họ đâm đơn lên kiện
cáo buộc của CSE. Và kết quả các sản phẩm của họ bị phản đối ở thị trường này.
Ắt hẳn, rất nhiều người hiểu, cáo buộc của CSE là thái quá. Và xét về góc độ lý
tính, phản ứng của nhà quản trị hai thương hiệu này là có cơ sở. Nhưng, vấn đề là người
tiêu dùng, có chấp nhận sự phản ứng đó ở mức nào.
Lấy ví dụ này để thấy rằng, rõ ràng, ở những thị trường phát triển, người tiêu dùng
được định danh đúng nghĩa là “thượng đế”. Và bất kì những gì ảnh hưởng đến quyền
lợi của người tiêu dùng luôn luôn bị phản đối. Do vậy cách làm ở đây là “thuyết phục"

với thái độ mềm mỏng chứ không phải là "kiện tụng". Và người tiêu dùng được quyền
từ chối, vì tại thị trường của họ đã xác lập những giá trị thực tế, mà ở đó, yếu tố đạo
đức quyết định cho sức sống của thương hiệu.( điển hình là trà thảo mộc DR>Thanh
Ở Việt Nam, các tập đoàn lớn, cũng có thái độ ứng xử tương tự khi gặp sự cố. Còn
nhớ, khi cơn “bão melamine”, quét sang thị trường Việt Nam, vẫn có những tên tuổi lớn
gặp sự cố. Đó là trường hợp của Mead Johnson bị nghi ngờ là có nhiễm melamine ở
một thị trường khác. Lập tức, họ xác nhận lại mức độ chính xác của thông tin. Và kịp
thời đưa thông tin đó đến người tiêu dùng với dạng “thuyết phục”. Bởi vì, hơn ai hết, họ
ý thức được sự "nguy hiểm” nếu những điều tiếng này tiếp tục tồn tại. Điều quan trọng
là, những giá trị chân thật, khả tín...chính là điều cần thiết để bảo vệ thương hiệu của
mình. Và một tên tuổi lớn như Mead Johnson, không thể "chối đây đẩy" những thông
tin như thế với khách hàng của
mình. Bởi vì, họ hiểu rằng, ngay khi mình "vô can”, những câu chuyện đại loại như vậy
sẽ là "thông tin xấu” làm hoen ố hình ảnh và làm hạn chế sức sống của thương hiệu.
Vấn đề là tại sao, phần lớn các doanh nghiệp của Việt Nam không ý thức hay ý
thức không đầy đủ sự tác động của những sự cố này đến thương hiệu của mình? Điều
này có lẽ lý giải một phần: những chuẩn giá trị của đạo đức kinh doanh đã không được
tôn trọng, và hệ lụy của nó, ắt hẳn không thể hiện ngay nước mắt, mà từ từ và lâu dài.
Và điều quan trọng nhất, khi người tiêu dùng, không còn sự tín nhiệm, niềm tin, tất cả
những giá trị khác sẽ chẳng còn ý nghĩa nào nữa.
Tất nhiên, thị trường có những quy luật của riêng nó. Tuy nhiên, cách làm khôn
khéo là tác động vào những quy luật đó để nó chuyển động theo chiều hướng tích cực,
có lợi cho doanh nghiệp.
Giá trị đạo đức trong kinh doanh không phải là điếu gì quá mơ hồ. Nó cần được
những nhà quản trị doanh nghiệp xác lập trong từng hành động cụ thể và trải đều trên
tất cả những lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động, kinh doanh.
Và khi nào các doanh nghiệp Việt Nam ý thức đầy đủ những điều như vậy, cơ hội để
vươn lên vẫn còn rộng mở, ngược lại, tất cả những nỗ lực để xây dựng thương hiệu,vẫn
là điều gì đó xa vời và không thực tế
 Đưa đạo đức vào trong kinh doanh như thế nào ?

Hầu hết các doanh nghiệp đều công nhận đạo đức trong kinh doanh là một vấn đề quan trọng
nhưng nhiều doanh nghiệp lại tỏ ra lúng túng không biết phải làm thế nào để đưa vấn đề này
vào trong các hoạt động của mình. Dựa trên kinh nghiệm từ nhiều công ty trên thế giới và kết
quả các nghiên cứu khoa học, dưới đây là một số gợi ý cho việc cần làm và yếu tố cần có để
thực hiện đạo đức trong doanh nghiệp.
 Quan điểm và sự gương mẫu của lãnh đạo.
Thực tế cho thấy nhiều hành vi phi đạo đức của các nhân viên là do ảnh hưởng xấu từ
cấp lãnh đạo. Nếu lãnh đạo đồng tình tiếp tay cho các hành vi như khai man thuế, làm
gian, làm ẩu, qua mặt đối tác… thì không thể đòi hỏi sự trung thực của nhân viên.
“Thượng bất chính hạ tắc loạn” ! Ngược lại, sự quyết tâm tôn trọng các giá trị đạo đức,
cho dù trong nhiều trường hợp phải chịu thua thiệt, và sự gương mẫu trong việc thực
hiện những giá trị này của lãnh đạo sẽ tạo niềm tin và động lực cho mọi người cùng
nhau làm ăn chân chính.

×